Tối ưu hóa bộ điều khiển IMC trong hệ thống điều khiển tầng bằng Frit
Hệ thống điều khiển tầng được sử dụng
rộng rãi trong điều khiển các quá trình công
nghệ do có khả năng loại bỏ tác động của nhiễu,
cho đáp ứng nhanh và tăng tính ổn định của hệ
thống (Azar & cs., 2014). Thông thường, các bộ
điều khiển trong hệ thống được thiết kế lần lượt,
thiết kế cho vòng điều khiển trong trước rồi dựa
trên kết quả đó để thiết kế cho bộ điều khiển ở
vòng ngoài. Do vậy, việc thiết kế các bộ điều
khiển trong hệ thống điều khiển tầng thường
khó khăn và tốn thời gian hơn so với thiết kế hệ
thống điều khiển vòng đơn.
Mặt khác, IMC (Morari & Rafiriou, 1989) là
một cấu trúc điều khiển được sử dụng khá phổ
biến trong đó bộ điều khiển có chứa mô hình của
đối tượng điều khiển. Việc kết hợp cấu trúc IMC
trong hệ thống điều khiển tầng sẽ giúp hệ thống
tăng tính bền vững và linh hoạt trong điều chỉnh
(Cesca & cs., 2005). Theo nghiên cứu của Jeng &
cs. (2012), để thiết kế hệ thống, đối tượng trước
tiên được nhận dạng dựa vào khai triển chuỗi
B-spline đáp ứng quá độ của hệ thống. Sau đó
hai bộ điều khiển PID được xấp xỉ và điều chỉnh
tự động dựa trên mô hình điều khiển IMC. Lee &
cs. (1998) cũng đề xuất thuật toán điều chỉnh
đồng thời các bộ điều khiển IMC - PID, dựa trên
việc xấp xỉ đặc tính động học của vòng điều khiển
trong tiến tới một mô hình mẫu, trên cơ sở đó
điều chỉnh bộ điều khiển sơ cấp. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh này có thể gặp phải sai số do khi xấp
xỉ bộ điều khiển IMC - PID cho vòng trong, rất
khó để có thể đạt được chính xác mô hình mẫu
cho vòng này. Trong nghiên cứu của Cesca & cs.
(2005), các tác giả cũng đề xuất một phương pháp
sử dụng IMC dựa trên các mô hình cho sẵn của
đối tượng, trong đó hằng số thời gian của bộ lọc
được xác định để đảm bảo tính ổn định bền vững
của hệ thống.

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tối ưu hóa bộ điều khiển IMC trong hệ thống điều khiển tầng bằng Frit
Vietnam J. Agri. Sci. 2020, Vol. 18, No.12: 1172-1181 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2020, 18(12): 1172-1181
www.vnua.edu.vn
1172
TỐI ƯU HÓA BỘ ĐIỀU KHIỂN IMC TRONG HỆ THỐNG ĐIỀU KHIỂN TẦNG BẰNG FRIT
Nguyễn Thị Hiên
Khoa Cơ - Điện, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Tác giả liên hệ: nthien@vnua.edu.vn
Ngày nhận bài: 01.06.2020 Ngày chấp nhận đăng: 21.08.2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm mục tiêu điều chỉnh đồng thời thông số của các bộ điều khiển IMC trong hệ thống điều
khiển tầng bằng FRIT - một thuật toán sử dụng trực tiếp dữ liệu thực nghiệm - cho các đối tượng tuyến tính, bất
biến theo thời gian và là hệ pha cực tiểu. Phương pháp yêu cầu chỉ duy nhất một tập dữ liệu vào/ra thu thập từ hệ
thống mà không đòi hỏi mô hình toán học của đối tượng điều khiển. Kết quả là có thể nhận được các bộ điều
khiển với thông số tối ưu cho tín hiệu ra mong muốn của hệ thống, đồng thời nhận được mô hình toán học của đối
tượng điều khiển.
Từ khóa: FRIT, điều khiển tầng, IMC, dữ liệu thực nghiệm.
Optimum IMC Controllers in Cascade Control Systems Using FRIT
ABSTRACT
The goal of this study was using a data-driven approach - FRIT, that simultaneously tunes IMC controllers in the
cascade systems, in which the plants are linear, time-invariant and minimum phase. The algorithm does not require
mathematical models of the controlled plants but only a set of input/output data collected from the closed-loop
system. The results are not only optimal IMC controllers for the desired tracking property but also mathematical
models of the actual plants.
Keywords: FRIT, cascade control, IMC, data - driven approach.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ thống điều khiển tầng được sử dụng
rộng rãi trong điều khiển các quá trình công
nghệ do có khả năng loại bỏ tác động của nhiễu,
cho đáp ứng nhanh và tăng tính ổn định của hệ
thống (Azar & cs., 2014). Thông thường, các bộ
điều khiển trong hệ thống được thiết kế lần lượt,
thiết kế cho vòng điều khiển trong trước rồi dựa
trên kết quả đó để thiết kế cho bộ điều khiển ở
vòng ngoài. Do vậy, việc thiết kế các bộ điều
khiển trong hệ thống điều khiển tầng thường
khó khăn và tốn thời gian hơn so với thiết kế hệ
thống điều khiển vòng đơn.
Mặt khác, IMC (Morari & Rafiriou, 1989) là
một cấu trúc điều khiển được sử dụng khá phổ
biến trong đó bộ điều khiển có chứa mô hình của
đối tượng điều khiển. Việc kết hợp cấu trúc IMC
trong hệ thống điều khiển tầng sẽ giúp hệ thống
tăng tính bền vững và linh hoạt trong điều chỉnh
(Cesca & cs., 2005). Theo nghiên cứu của Jeng &
cs. (2012), để thiết kế hệ thống, đối tượng trước
tiên được nhận dạng dựa vào khai triển chuỗi
B-spline đáp ứng quá độ của hệ thống. Sau đó
hai bộ điều khiển PID được xấp xỉ và điều chỉnh
tự động dựa trên mô hình điều khiển IMC. Lee &
cs. (1998) cũng đề xuất thuật toán điều chỉnh
đồng thời các bộ điều khiển IMC - PID, dựa trên
việc xấp xỉ đặc tính động học của vòng điều khiển
trong tiến tới một mô hình mẫu, trên cơ sở đó
điều chỉnh bộ điều khiển sơ cấp. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh này có thể gặp phải sai số do khi xấp
xỉ bộ điều khiển IMC - PID cho vòng trong, rất
khó để có thể đạt được chính xác mô hình mẫu
cho vòng này. Trong nghiên cứu của Cesca & cs.
(2005), các tác giả cũng đề xuất một phương pháp
Nguyễn Thị Hiên
1173
sử dụng IMC dựa trên các mô hình cho sẵn của
đối tượng, trong đó hằng số thời gian của bộ lọc
được xác định để đảm bảo tính ổn định bền vững
của hệ thống.
Có thể nhận thấy, tất cả các phương pháp
thiết kế bộ điều khiển được đề xuất trong các
nghiên cứu trên đều dựa trên mô hình toán học
của đối tượng điều khiển (model-based
methods), nghĩa là trước khi thiết kế bộ điều
khiển, cần xây dựng mô hình toán học hoặc
nhận dạng đối tượng, đây là việc khá khó khăn
trong thực tế, đòi hỏi thời gian và công sức.
Trong những năm gần đây xuất hiện một hướng
nghiên cứu mới, sử dụng trực tiếp dữ liệu thực
nghiệm thu thập từ hệ thống để tổng hợp thông
số của bộ điều khiển (data-based methods), mà
không đòi hỏi mô hình toán học của đối tượng,
điều này giúp tránh được các khó khăn trong
quá trình nhận dạng đối tượng. Có thể kể đến
một số phương pháp điển hình, như IFT
(Hjalmarsson & cs., 1998), VRFT (Campi & cs.,
2002), FRIT (Souma & cs., 2004; Kaneko & cs.,
2010) đã được áp dụng hiệu quả cho các hệ
thống điều khiển vòng đơn. Trong những nghiên
cứu gần đây, Nguyen & Kaneko đã phát triển
thuật toán FRIT, sử dụng trực tiếp chỉ duy nhất
một tập dữ liệu vào/ra của hệ thống để xác định
đồng thời thông số của các bộ điều khiển PI
trong hệ thống điều khiển tầng (Nguyen &
Kaneko, 2015; 2016; Nguyễn Thị Hiên &
Nguyễn Văn Đạt, 2016; Nguyễn Thị Hiên,
2017), mà không đòi hỏi mô hình toán học của
đối tượng điều khiển. Trong nghiên cứu của
Nguyễn Thị Hiên (2017), tác giả đã mở rộng
thuật toán FRIT cho điều chỉnh hệ thống điều
khiển tầng có tính đến tác động của nhiễu. Tuy
nhiên, các nghiên cứu n ... ứng ta có bộ điều khiển C( *) tối ưu.
Nghĩa là, hệ thống với bộ điều khiển C( *) có tín
hiệu ra có thể bám theo đường đặc tính mẫu
d
T r cho trước. Tính tương đương của các hàm
mục tiêu (8) và (11) đã được chứng minh chi tiết
bởi Souma & cs. (2004). Chú ý rằng, hàm mục
tiêu JF( ) chỉ phụ thuộc vào các dữ liệu ban đầu
0 0u( ) / y( ) , nên việc cực tiểu hóa JF( ) có thể
thực hiện off-line bằng các phương pháp tính
toán tối ưu.
Như vậy, bằng việc chỉ sử dụng một tập dữ
liệu vào/ ra 0 0u( ) / y( ) của hệ thống kín, ta
có thể tìm được thông số tối ưu của bộ điều
khiển, nghĩa là khi sử dụng bộ điều khiển với
thông số này, đáp ứng của hệ thống kín sẽ đạt
được các yêu cầu mong muốn.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. FRIT với hệ thống điều khiển tầng
Xét hệ thống điều khiển tầng với các bộ
điều khiển được tham số hóa ở hình 2. Giả thiết
một bộ thông số ban đầu 0 và tiến hành thực
nghiệm để thu thập các dữ liệu
0 0 02 1u( ),y ( ),y ( ) từ hệ thống, tín hiệu kích
thích ‘ảo’ r( ) được đề xuất:
1 1 0 1 0
1 2 1 2
1 0 0
2 B 2 B
1 0 0 0
1 2 B 2 1
r( ) C ( ) C ( ) u( ) C ( ) P u( )
C ( ) P u( ) P P u( )
C ( ) y ( ) P y ( ) y ( )
(12)
Nhận thấy, với tín hiệu kích thích (12), tín
hiệu ra của hệ thống ứng với bộ thông số bất
kỳ luôn luôn bằng với tín hiệu ra y1(
0) ứng với
bộ thông số 0 ban đầu. Thật vậy, sử dụng Gry
cho ở biểu thức (3), ta luôn có:
0
1 ry 1
y ( ) G ( )r( ) y ( ) (13)
với chú ý các mối quan hệ:
2 1
1
1
y ( ) y ( )
P
và
1
1 2
1
u( ) y ( )
P P
trong hệ thống.
Hàm mục tiêu được xác định:
2
0
F 1 d N
J ( ) : y ( ) T r( ) (14)
Thay r( ) rút ra từ biểu thức (13) vào (14)
ta có thể viết lại hàm mục tiêu:
2
0d
F 1
ry
N
T
J ( ) 1 y ( )
G ( )
(15)
Biểu thức (15) cho thấy, việc cực tiểu hóa
hàm mục tiêu cũng là nhằm điều chỉnh để hệ
thống bám theo một mô hình mẫu Td cho trước.
Chú ý rằng việc tối ưu hàm mục tiêu (14) với tín
hiệu “ảo” r( ) trong biểu thức (12) chỉ yêu cầu
một tập dữ liệu duy nhất 0 0 02 1u( ), y ( ), y ( )
nghĩa là chúng ta có thể thực hiện tối ưu hóa
off-line hàm mục tiêu (14).
4.2. Sự đạt được đồng thời mô hình toán
học của đối tượng điều khiển
Xét hệ thống điều khiển tầng với các đối
tượng được tham số hóa như ở hình 2. Với các bộ
điều khiển được xây dựng theo (6) và (7), biểu
thức (3) cho thấy nếu chúng ta có thể điều chỉnh
để đạt được
1 1
P P và
2 2
P P thì hàm truyền đạt
Nguyễn Thị Hiên
1177
hệ thống hiển nhiên bằng với mô hình mẫu:
Gry( ) = Td, chú ý rằng khi 2 2P P
thì
B 1
P P F.
Ngược lại, nếu có thể điều chỉnh để hệ thống
bám theo mô hình mẫu: Gry( ) = Td, sử dụng
biểu thức (6) và (7) ta có hàm truyền đạt của hệ
thống theo biểu thức (16) hay (17).
Với Gry( ) = Td ta có biểu thức 18.
Biểu thức (18) cho thấy, nếu chúng ta có thể
đạt được
2 2
P P thì cũng đồng thời nhận được
1 1
P P . Từ các phân tích này có thể rút ra, với
mô hình mẫu Td cho trước, hệ thống điều khiển
tầng với các bộ điều khiển được xây dựng bởi các
biểu thức (6) và (7) sẽ bám theo mô hình mẫu,
nghĩa là Gry( ) = Td khi và chỉ khi đồng thời đạt
được
1 1
P P ( ) và
2 2
P P ( ).
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng thuật
toán FRIT trong điều chỉnh tối ưu thông số của
các bộ điều khiển IMC nhằm bám theo một mô
hình mẫu Td sẽ cho kết quả không những là các
bộ điều khiển tối ưu mà còn có được mô hình
toán học của đối tượng điều khiển.
4.3. Thuật toán
Thuật toán FRIT nhằm xác định thông số
tối ưu của các bộ điều khiển IMC trong hệ thống
điều khiển tầng có thể tóm lược như sau:
Bước 1: Tham số hóa mô hình của đối tượng
điều khiển theo biểu thức (4) và (5). Bộ điều
khiển được xác định theo các biểu thức (6) và (7).
Bước 2: Giả thiết bộ thông số ban đầu 0 và
mô hình mẫu Td đặc trưng cho chất lượng mong
muốn của hệ thống.
Bộ thông số 0 được giả thiết là có thể làm
hệ thống ổn định BIBO.
Bước 3: Tiến hành làm thực nghiệm và thu
thập tập các tín hiệu vào/ra của hệ thống
0 0 02 1u( ),y ( ),y ( ) .
Bước 4: Xây dựng tín hiệu kích thích ảo
r( ) theo công thức (12).
Bước 5: Xây dựng hàm mục tiêu (14), và
tiến hành cực tiểu hóa off-line theo các phương
pháp tối ưu đã biết (ví dụ: phương pháp lặp
Gauss-Newton) để xác định bộ thông số tối ưu
*. Hệ thống với bộ điều khiển C1(
*) và C2(
*) có
tín hiệu ra có thể bám theo đặc tính đầu ra Tdr
mong muốn. Đồng thời các mô hình toán học
nhận được P1(
*) và P2(
*) có thể phản ánh đặc
tính động học của đối tượng điều khiển, nghĩa là
đối tượng điều khiển cũng được nhận dạng.
4.4. Ví dụ
Để minh họa cho thuật toán đã xây dựng,
chúng tôi áp dụng cho hệ thống điều khiển tầng
với các đối tượng chưa biết trước mô hình được
giả thiết:
1 2
0,8s 1
P
2s 3s 1
và
2 2
1,5s 0,7
P
2s 2,5s 1
.
Mô hình của chúng được tham số hóa bởi:
1 2
1 2
3 4
s
P
s s 1
và:
5 6
2 2
7 8
s
P
s s 1
Giả thiết sử dụng bộ lọc
2
2
1
F
s 1
với
tham số 2 có thể điều chỉnh được cho vòng điều
khiển trong và mô hình mẫu của hệ thống:
d 2
1
T
2s 1
. Nếu chúng ta có thể đạt được
2 2
P P cho vòng điều khiển trong thì hàm
truyền
B
P có thể được tham số hóa:
1 1
d B 2 2 1
ry 1 1 1 1
2 2 2 d B 2 2 1 d d 2 2 2
T P P FPP
G
1 P F P P T P P FPP T T P F P P
(16)
1 1
d B 2 2 1
ry 1 1 1
d 2 2 d B 2 2 1
T P P FP P
G
1 T 1 F 1 P P T P P FP P
(17)
1 1 1d B 2 2 1 d 2 21 T P P FP P 1 T 1 F 1 P P (18)
Tối ưu hóa bộ điều khiển IMC trong hệ thống điều khiển tầng bằng FRIT
1178
Hình 4. Tín hiệu u( 0) thu thập từ hệ thống
Hình 5. Tín hiệu y2(
0) thu thập từ hệ thống
1 2
B 2
2 3 4
s1
P
s 1 s s 1
như vậy vector tham số cần xác định trong
trường hợp này:
T
1 2 3 4 5 6 7 8
. Sử
dụng bộ tham số ban đầu 0 = [2 2 2 2 2 2 2 2]T,
tiến hành mô phỏng bằng Matlab/Simulink để
thu thập các tín hiệu vào/ra {u( 0), y2(
0), y1(
0)}
của hệ thống, kết quả được thể hiện trong các
hình 4, hình 5 và hình 6. Trong hình 6, tín hiệu
đặt r được biểu diễn bằng đường chấm - gạch,
tín hiệu ra y1(
0) của hệ thống ứng với bộ thông
số ban đầu 0 và tín hiệu ra mong muốn Tdr
được lần lượt thể hiện bằng đường nét liền và
đường chấm. Hình 6 cho thấy tín hiệu ra của hệ
thống ứng với bộ thông số giả thiết ban đầu có
độ quá điều chỉnh, thời gian quá độ dài và sai
lệch khá nhiều so với tín hiệu ra mong muốn, và
như vậy việc điều chỉnh thông số của bộ điều
khiển sao cho hệ thống bám theo đường đặc tính
mẫu là cần thiết.
Áp dụng thuật toán FRIT đã xây dựng cho
hệ thống điều khiển tầng thu được kết quả
*= [0,818 1,001 2,221 2,745 1,434 0,540 2,156
2,221 2,216]T. Với bộ thông số này, hệ thống
cho đầu ra y1(
*) (đường nét liền) được mô tả
trong hình 7. So sánh với đặc tính mẫu Tdr
(đường chấm), có thể nói đặc tính đầu ra của hệ
thống với bộ thông số * có thể bám sát theo đặc
tính mong muốn, nghĩa là hệ thống với các bộ
điều khiển C1(
*) và C2(
*) có thể đạt được các
yêu cầu chất lượng đặt ra của hệ thống.
Mặt khác, sử dụng bộ thông số * cho ta mô
hình toán học của đối tượng điều khiển:
1 2
0,818s 1,001
P
2,221s 2,745s 1
và:
2 2
1,434s 0,546
P
2,156s 2,221s 1
0 30 60 100
0
0.5
1
1.4
Thoi gian [s]
y
2
1,4
1
0,5
Thời gian [s]
0 30 60 100
0
0.5
1
1.4
Thoi gian [s]
u
Thời gian [s]
1,4
1
0,5
Nguyễn Thị Hiên
1179
Hình 6. Tín hiệu ra của hệ thống
(Tín hiệu ra thực tế y1(
0) (đường nét liền),
tín hiệu ra mong muốn Tdr (đường chấm) và tín hiệu kích thích r (đường chấm - gạch))
Hình 7. Tín hiệu ra của hệ thống sau khi điều chỉnh
(Tín hiệu ra thực tế y1(
0) (đường nét liền), tín hiệu ra mong muốn Tdr (đường chấm)
và tín hiệu kích thích r (đường chấm - gạch))
So sánh với mô hình thực P1 và P2 (được sử
dụng để mô phỏng), chúng ta có thể thấy mô
hình toán học của đối tượng điều khiển khá gần
với mô hình thực của đối tượng, nghĩa là đối
tượng điều khiển đã được nhận dạng. Hình 8 và
hình 9 lần lượt thể hiện đặc tính tần số của đối
tượng thực Pi (i = 1, 2) và các mô hình của
chúng, trong đó đặc tính của đối tượng thực, mô
hình tối ưu *
i
P ( ) và mô hình giả thiết ban đầu
0
i
P ( ) được mô tả bởi các đường nét liền, đường
chấm và đường nét đứt tương ứng. Chúng ta có
thể thấy *
i
P ( ) có đặc tính tần khá gần với đặc
tính tần của đối tượng thực Pi, nghĩa là mô hình
toán học *
i
P ( )
phản ánh tốt đặc tính động học
của đối tượng thực.
Kết quả trên cho thấy thuật toán đề xuất
đối với hệ thống điều khiển tầng không những
cho ta các bộ điều khiển tối ưu mà còn cho mô
hình toán học của đối tượng điều khiển.
4.5. Nhận xét
Thuật toán FRIT điều chỉnh tối ưu các bộ
điều khiển IMC trong hệ thống điều khiển tầng
tỏ ra khá hiệu quả khi chỉ yêu cầu một tập dữ
liệu vào/ra của hệ thống mà không đòi hỏi mô
hình toán học của đối tượng điều khiển. Kết quả
nhận được là các bộ điều khiển với thông số tối
ưu cho tín hiệu ra mong muốn của hệ thống.
Ngoài ra, thuật toán đồng thời cho ta mô hình
toán học của đối tượng điều khiển. Kết quả mô
phỏng cho thấy, hệ thống với bộ điều khiển tối
ưu tìm được có tín hiệu ra bám sát theo tín hiệu
ra mong muốn và mô hình toán học của đối
tượng có đặc tính động học khá gần với đặc tính
của đối tượng điều khiển. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý rằng:
0 30 60 100
0
0.5
1
1.4
Thoi gian [s]
T
in
h
ie
u
r
a
T ời ian [s]
1,4
1
,T
ín
h
iệ
u
ra
0 30 60 100
0
0.5
1
1.4
Thoi gian [s]
T
in
h
ie
u
r
a
Thời gian
1,4
1
0,
T
ín
h
iệ
u
ra
Tối ưu hóa bộ điều khiển IMC trong hệ thống điều khiển tầng bằng FRIT
1180
-30
-20
-10
0
10
G
a
in
(
d
B
)
10
-2
10
-1
10
0
10
1
-90
-45
0
P
h
a
se
(
d
e
g
)
Frequency (rad/sec)
Hình 8. Đặc tính tần của đối tượng điều khiển vòng ngoài
(P1 (đường nét liền),
*
1
P ( ) (đường chấm) và 0
1
P ( ) (đường nét đứt))
-40
-30
-20
-10
0
10
G
ai
n
(
d
B
)
10
-2
10
-1
10
0
10
1
10
2
-90
-45
0
45
P
h
as
e
(
d
e
g
)
Frequency (rad/sec)
Hình 9. Đặc tính tần của đối tượng điều khiển vòng trong
(P2 (đường nét liền),
*
2
P ( ) (đường chấm) và 0
2
P ( ) (đường nét đứt))
i) Hệ thống ở đây giả thiết là hoạt động ở
điều kiện lý tưởng, không có nhiễu tác động.
Trong trường hợp hệ thống chịu tác động của
nhiễu, để tăng độ tin cậy của kết quả, có thể
tiến hành thu thập tập dữ liệu của hai lần độc
lập trong cùng một điều kiện (cùng bộ thông số
0) và sử dụng hàm mục tiêu tương ứng (Campi
& cs., 2002; Kaneko & cs., 2010; Nguyễn Thị
Hiên, 2017):
T
0 (1) (1) 0 (2) (2)
F 1 d 1 d
J ( ) : y ( ) T r( ) y ( ) T r( )
(19)
trong đó, (i )r( ) (với i = 1, 2) là tín hiệu kích
thích ảo ứng với mỗi lần thu thập dữ liệu, xác
định theo biểu thức (12).
ii) Việc xác định thông số tối ưu * hoàn
toàn phụ thuộc vào tập các dữ liệu
0 0 02 1u( ), y ( ), y ( ) với giả thiết ban đầu 0
(do hàm mục tiêu là phi tuyến), cơ sở của việc
lựa chọn bộ thông số 0 cũng như xem xét ảnh
hưởng của bộ dữ liệu ban đầu đến kết quả tối ưu
của bài toán cần được quan tâm nghiên cứu.
iii) Thuật toán đề xuất ở đây chỉ áp dụng
đối với các đối tượng LTI, không trễ, trong khi
hầu hết quá trình (đối tượng) trong thực tế đều
là các quá trình có trễ. Việc mở rộng thuật toán
cho các đối tượng có trễ sẽ được nhóm tác giả
xây dựng trong các nghiên cứu tiếp theo.
5. KẾT LUẬN
Bằng việc sử dụng FRIT, thuật toán dùng
trực tiếp một tập dữ liệu vào/ra của hệ thống để
điều chỉnh thông số tối ưu các bộ điều khiển, bài
báo đã xây dựng một thuật toán cho phép điều
chỉnh đồng thời thông số của các bộ điều khiển
IMC trong hệ thống điều khiển tầng, mà không
đòi hỏi mô hình toán học của đối tượng điều
khiển. Hệ thống với các bộ điều khiển được tổng
hợp có tín hiệu ra bám khá tốt theo đường đặc
tính mẫu. Ngoài các bộ điều khiển tối ưu, thuật
Nguyễn Thị Hiên
1181
toán còn cho phép nhận được các mô hình toán
học của đối tượng điều khiển, điều này mang ý
nghĩa to lớn trong các bài toán thực tế như: dự
báo, phát hiện, chẩn đoán lỗi hay tối ưu hóa...
Tuy nhiên, thuật toán đề xuất ở đây mới chỉ áp
dụng được cho đối tượng LTI và pha cực tiểu.
Nghiên cứu mở rộng thuật toán đối với các hệ
pha không cực tiểu, hay các quá trình có trễ,
cũng như xem xét cơ sở lựa chọn bộ thông số ban
đầu sẽ được quan tâm trong các nghiên cứu
tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Azar A.T. & Serrano F.E. (2014). Robust IMC-PID
tuning for cascade control systems with gain and
phase margin specifications. Neural Computing
and Applications, Springer. 25: 983-995.
Campi M.C., Lecchini A. & Savaresi S.M. (2002).
Virtual reference feedback tuning: a direct method
for design of feedback controllers. Automatica.
38(8): 1337-1346.
Cesca M.R. & Marchetti J.L. (2005). IMC design of
cascade control. Proceedings of the European
Symposium on Computer Aided Process
Engineering - 15. 20: 1243-1248.
Hien Thi Nguyen & Kaneko O. (2015). Fictitious
reference iterative tuning for cascade control
systems. Proceedings of the SICE Annual
Conference, CDROM. pp. 774-777.
Hien Thi Nguyen & Kaneko O. (2016). Fictitious
reference iterative tuning for cascade PI controllers
of DC motor speed control systems. IEEJ
Transactions on Electronics, Information and
Systems. 136(5): 710-714.
Nguyễn Thị Hiên & Nguyễn Văn Đạt (2016). Thuật
toán mới điều chỉnh tối ưu hệ thống điều khiển
tầng. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
14(3): 469-476.
Nguyễn Thị Hiên (2017). Điều chỉnh tối ưu hệ thống
điều khiển tầng bằng FRIT. Tạp chí Công nghiệp
nông thôn. 24: 63-70.
Hjalmarsson H., Gevers M., Gunnarsson S. & Lequin
O. (1998). Iterative Feedback Tuning: Theory and
Applications. IEEE Control Systems Magazine.
18(4): 26-41.
Jeng J. & Lee M. (2012). Simultaneous automatic
tuning of cascade control systems from closed-loop
step response data. Journal of Process Control.
22: 1020-1033.
Kaneko O., Wadagaki Y. & Yamamoto S. (2010).
Fictitious reference iterative tuning for internal
model controller. Proceedings of the 10th IFAC
Workshop on Adaption and Learning Control and
Signal Processing (ALCOSP 2010), CDROM.
Lee Y. & Park S. (1998). PID controller tuning to
obtain desired closed loop responses for cascade
control systems. Ind. Eng. Chem. Res.
37: 1859-1865.
Morari M. & Rafiriou E. (1989). Robust Process
Control. PTR Prentice Hall, Englewood Cliffs,
New Jersey.
Souma S., Kaneko O. & Fujii T. (2004). A new method
of controller parameter tuning based on input-
output data - fictitious reference iterative tuning
(FRIT). Proceedings of the 8th IFAC Workshop on
Adaption and Learning Control and Signal
Processing. pp. 788-794.
File đính kèm:
toi_uu_hoa_bo_dieu_khien_imc_trong_he_thong_dieu_khien_tang.pdf

