Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “Tháng 3 năm Nguyên Hòa

thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây Dương tên I Ne Khu đến truyền

đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ,

huyện Giao Thủy”.(1) Đây là một trong những cứ liệu sớm nhất cho thấy sự hiện

diện của tín đồ Cơ Đốc trên đất nước ta. Song, thời kỳ này chưa thể xuất hiện âm

nhạc nhà thờ cùng với những nhà truyền giáo hoạt động trên địa bàn tự do. Chưa

kể, từ năm 1630, việc truyền bá Phúc âm bị coi là vi phạm pháp luật. Theo nghiên

cứu của các tác giả Tô Vũ, Thụy Loan, Chí Vũ: “khi những người truyền đạo vào

Việt Nam cho tới lúc thực dân Pháp gây hấn ở bán đảo Sơn Trà (Đã Nẵng), tôn

giáo cũng như âm nhạc vẫn chưa thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước ta”.(2) Còn

theo tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn, từ cuối thế kỷ XIX, “âm nhạc

phương Tây chỉ phổ biến trong các nhà thờ”.(3) Trương Đình Cử trong bài “Bàn về

sự phát triển của nền Tân nhạc Việt Nam” cũng viết: “Tân nhạc Việt Nam thực sự

ra đời vào khoảng 1928 - 1929 Trước đó, các giáo sĩ cũng đã phổ biến Tân nhạc

qua các nhà thờ”.(4) Như vậy, âm nhạc Công giáo chỉ thực sự du nhập vào nước ta

sau khi có sự hậu thuẫn của một thiết chế tôn giáo quan trọng đi kèm, đó chính là

nhà thờ.(5)

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 1

Trang 1

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 2

Trang 2

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 3

Trang 3

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 4

Trang 4

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 5

Trang 5

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 6

Trang 6

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 7

Trang 7

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 8

Trang 8

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 11340
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017 65
 TIẾP BIẾN VĂN HÓA CÔNG GIÁO
 NHÌN TỪ GÓC ĐỘ ÂM NHẠC NHÀ THỜ
 Lê Hải Đăng*
 Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “Tháng 3 năm Nguyên Hòa 
thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây Dương tên I Ne Khu đến truyền 
đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, 
huyện Giao Thủy”.(1) Đây là một trong những cứ liệu sớm nhất cho thấy sự hiện 
diện của tín đồ Cơ Đốc trên đất nước ta. Song, thời kỳ này chưa thể xuất hiện âm 
nhạc nhà thờ cùng với những nhà truyền giáo hoạt động trên địa bàn tự do. Chưa 
kể, từ năm 1630, việc truyền bá Phúc âm bị coi là vi phạm pháp luật. Theo nghiên 
cứu của các tác giả Tô Vũ, Thụy Loan, Chí Vũ: “khi những người truyền đạo vào 
Việt Nam cho tới lúc thực dân Pháp gây hấn ở bán đảo Sơn Trà (Đã Nẵng), tôn 
giáo cũng như âm nhạc vẫn chưa thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước ta”.(2) Còn 
theo tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn, từ cuối thế kỷ XIX, “âm nhạc 
phương Tây chỉ phổ biến trong các nhà thờ”.(3) Trương Đình Cử trong bài “Bàn về 
sự phát triển của nền Tân nhạc Việt Nam” cũng viết: “Tân nhạc Việt Nam thực sự 
ra đời vào khoảng 1928 - 1929 Trước đó, các giáo sĩ cũng đã phổ biến Tân nhạc 
qua các nhà thờ”.(4) Như vậy, âm nhạc Công giáo chỉ thực sự du nhập vào nước ta 
sau khi có sự hậu thuẫn của một thiết chế tôn giáo quan trọng đi kèm, đó chính là 
nhà thờ.(5) 
 1. Nhà thờ - Vùng văn hóa âm nhạc Công giáo 
 Nhà thờ là một trong những thiết chế văn hóa đóng vai trò trung tâm trong 
đời sống văn hóa Công giáo. Đây không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động nghi lễ 
(Phụng vụ Thánh lễ), sinh hoạt tôn giáo, mà còn cung cấp cơ sở vật chất cho nhiều 
hoạt động liên quan tới âm nhạc. Trong nhà thờ, “Âm nhạc gắn liền với toàn bộ 
Phụng vụ. Nó hợp nhất những người hội họp nhau để thờ phượng Chúa, nâng đỡ 
tiếng hát của cộng đoàn, làm nổi bật những phần quan trọng của hành động Phụng 
vụ và giúp giữ cung giọng cho mỗi phần cử hành.”(6) Âm nhạc không chỉ xuất hiện 
trong Phụng vụ, mà còn tồn tại ngoài Phụng vụ, hiểu là vẫn diễn ra trong không 
gian nhà thờ, nhưng ngoài lúc cử hành nghi thức, như các giờ cầu nguyện hay biểu 
diễn nghệ thuật.
 Trước khi truyền bá vào Việt Nam, sớm nhất từ thế kỷ XVI và sự xuất hiện 
thiết chế tôn giáo nhà thờ có quy mô vào thế kỷ XVII,(7) âm nhạc nhà thờ, hiểu là 
* Thành phố Hồ Chí Minh.
66 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
 Thánh nhạc đã đạt tới đỉnh cao ở khu vực châu Âu, nơi tập trung đông đảo tín đồ 
 Công giáo. Nhờ sự hậu thuẫn của giới quý tộc phương Tây cùng với sự tham gia 
 tích cực của nhiều nhà hoạt động âm nhạc lỗi lạc, âm nhạc nhà thờ tập trung, kết 
 tinh tinh hoa văn hóa châu Âu, hội tụ nhiều tác phẩm nghệ thuật ưu tú, xuất sắc. 
 Ngay từ thời kỳ Phục hưng (XIV - XVI), âm nhạc nhà thờ đã tạo ra thế phân lập, 
 đối trọng với âm nhạc dân gian. Từ đó, âm nhạc nhà thờ không chỉ giới hạn trong 
 phạm vi một vài thể loại tiêu biểu mà còn bao gồm cả một vùng văn hóa (âm nhạc).
 Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Nhâm Tuất năm 1862 nhường ba 
 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho thực dân Pháp, Hiệp ước Giáp Tuất năm 1874 công 
 nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ và Hiệp ước Giáp Thân năm 1884 chấp nhận 
 sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam, hàng loạt cơ sở tín ngưỡng Công giáo 
 có quy mô lớn lần lượt ra đời, như: Nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn năm 1880, Nhà thờ 
 Bùi Chu, Nam Định năm 1884, Nhà thờ Lớn Hà Nội 1887, Nhà thờ Phát Diệm, 
 Ninh Bình năm 1898, Nhà thờ Sapa năm 1895 trên cơ sở phân chia thành các 
 giáo phận, miền Bắc có Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Hóa, Phát Diệm, Vinh, Bùi Chu, 
 Lạng Sơn, miền Nam có Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế. Cấu trúc này kế thừa từ năm 
 1883, khi Tòa Thánh tách các giáo phận ra thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ở 
 Đàng Ngoài có Tây Đàng Ngoài là Hà Nội, Đông Đàng Ngoài là Hải Phòng, Nam 
 Đàng Ngoài có Vinh, Trung Đàng Ngoài là Bùi Chu và Bắc Đàng Ngoài là Bắc 
 Ninh. Đàng Trong có Tây Đàng Trong là Sài Gòn, Đông Đàng Trong là Quy Nhơn, 
 Bắc Đàng Trong có Huế và Nam Đàng Trong là Nam Vang (Cần Thơ). Điều này 
 góp phần củng cố thêm điều kiện cho nhiều tỉnh thành cách xa trung tâm, thủ đô có 
 đời sống âm nhạc hết sức phát triển. Chúng như những “vệ tinh” quay xung quanh 
 trung tâm, chẳng hạn miền Bắc có Hải Phòng, Nam Định bên cạnh Hà Nội; miền 
 Trung có Đà Nẵng, Quy Nhơn cạnh Huế và miền Nam có Mỹ Tho, Cần Thơ cạnh 
 Sài Gòn(8)
 Năm 1927, trường nhạc đầu tiên xuất hiện trên đất nước ta là Nhạc viện Viễn 
 Đông do Toàn quyền Đông Dương đứng ra thành lập. Sau 3 năm hoạt động, ngôi 
 trường này đã đóng cửa. Mãi tới năm 1956, cơ sở đào tạo âm nhạc quan phương 
 đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ở hai miền đất nước. 
 Ở Hà Nội có Trường Âm nhạc Việt Nam (sau đổi tên thành Nhạc viện Hà Nội và 
 hiện là Trường Quốc gia Âm nhạc Việt Nam); ở Sài Gòn có Trường Quốc gia Âm 
 nhạc (sau đổi tên thành Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ, n ... g thế tục, vì quy 
mô đồ sộ, đòi hỏi huy động nhiều nguồn lực, tốn kém không gian sắp đặt nhưng 
sự kỳ vĩ về tính chất âm thanh và những đóng góp vô song của nhiều thế hệ nhạc 
sĩ xuất sắc đã làm nên giá trị bất tử cho cây đàn này. Bằng tác phẩm âm nhạc, sau 
nhiều thế kỷ chịu sự thử thách của thời gian cùng sự thay đổi văn hóa, âm thanh 
Pipe organ vẫn được bảo toàn, giữ gìn như một thứ chuẩn mực về thẩm mỹ trong 
âm nhạc nhà thờ. 
 Ngoài ra, sự hiện diện thường xuyên của cây Đại phong cầm tại thánh đường 
nhà thờ góp phần tạo nên giá trị văn hóa biểu trưng của âm nhạc nhà thờ. “Trong 
Giáo hội Latin đàn ống. coi như nhạc khí cổ truyền mà âm thanh có thể tăng 
thêm vẻ huy hoàng kỳ diệu cho các lễ nghi và mạnh mẽ nâng các tâm hồn lên 
cùng Thiên Chúa và các sự trên trời.” Đây là nhận định chung mang tính chất định 
hướng chỉ đạo từ Công đồng Vatican II. Điều đó nói lên tầm quan trọng không gì 
thay thế của Church organ. Cây đàn này không hề phổ biến ở chốn thế tục và vượt 
qua thời gian bằng giá trị văn hóa, hiệu quả âm thanh đặc biệt. Ngày nay, cùng với 
quá trình tiến hóa của nhiều nhạc cụ, Đại phong cầm có xu hướng nhường quyền 
phát ngôn cho một hậu duệ có khả năng làm đại diện cho mình đó chính là đàn 
Electric keyboard. Bởi vậy, trong không gian nhà thờ, dù sử dụng Organ điện tử 
giản tiện, âm sắc Church organ vẫn là sự lựa chọn hàng đầu cho những bài bản 
thánh ca mang phong cách truyền thống. Bên cạnh đó, xu hướng thế tục hóa cũng 
góp phần gia nhập những nhạc cụ thế tục trong không gian nhà thờ, như đàn Piano, 
Violon, Cello, Guitar, Flute từ đây, di sản âm nhạc nhà thờ tiếp tục được bản địa 
hóa và đóng góp đáng kể vào kho tàng văn hóa âm nhạc. 
 3. Ma sœur - Người truyền bá âm nhạc
 Như trên đã đề cập, âm nhạc phương Tây du nhập Việt Nam thông qua vai 
trò nhà thờ làm trung gian, bên cạnh cơ sở đào tạo âm nhạc tư gia, nhạc viện quan 
phương, băng đĩa, điện ảnh, giao lưu văn hóa. Ở những địa phương có điều kiện 
vật chất thiếu thốn, cơ sở đào tạo âm nhạc tư nhân chưa phát triển, tổ chức âm 
nhạc quan phương chưa hình thành, nhà thờ vẫn đóng vai trò trung tâm, chi phối 
đời sống âm nhạc. Trong nhiều trường hợp, Ma sœur chính là người đóng vai trò 
truyền bá âm nhạc, thông qua đó tạo thành chiếc cầu nối với chốn thế tục. 
 Như chúng ta biết, giáo dục âm nhạc hết sức được đề cao và thực thi trong các 
chủng viện, học viện, tổ chức Công giáo. Trong công tác huấn luyện âm nhạc cho 
70 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
giáo sĩ, Công đồng Vatican từng nhắc nhở: “Phải hết sức chú trọng đến việc giảng 
dạy và thực hành âm nhạc trong các chủng viện, các tập viện nam nữ tu sĩ, các học 
viện và cả trong các tổ chức cũng như học đường Công giáo khác.”(12) Trong Huấn 
thị về Thánh nhạc và Phụng vụ của Thánh bộ Nghi lễ ngày 03 tháng 9 năm 1958, 
chương III-6: Học hỏi Thánh nhạc và Phụng vụ có quy định: Từ gia đình Công 
giáo cho đến nhà trường, “phải dạy cho trẻ em biết tham dự các việc đạo đức và các 
lễ nghi Phụng vụ, nhất là Thánh lễ tập cho chúng biết và thích những bài hát đạo 
ở gia đình cũng như nhà thờ Các viện công hoặc tư giúp phát triển Thánh nhạc 
Trong một Địa phận phải có một Ủy ban riêng về Thánh nhạc.”(13) Mặc dù yêu cầu 
này sau khi chuyển hóa bối cảnh đã bớt đi sự khắt khe, thậm chí đi tới lơ là việc 
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, cũng như năng lực thẩm mỹ cho những người thực 
thi, thừa tác nhiệm vụ trong các chủng viện. Song, ở các trường học Công giáo 
vẫn được duy trì và đề cao việc giáo dục âm nhạc, như ở các cơ sở Hội dòng Mến 
thánh giá trong cả nước hầu như đều có lớp dạy nhạc, đặc biệt như trường Mái ấm 
Nhật Hồng còn chuyên dạy dỗ học sinh khiếm thị. Trong phạm vi âm nhạc nhà 
thờ, Ma sœur chính là thành phần thúc đẩy việc truyền bá âm nhạc trên cõi thế tục. 
Trong khi cha xứ chuyên tâm công việc nội vụ của nhà thờ, Ma sœur nhập thế làm 
rất nhiều công việc ngoài đời. Họ trở thành hình mẫu của những con người nhập 
thế, giỏi giang, đức hạnh, trong số nhiều hoạt động thường nhật, có công việc dạy 
nhạc. Bởi vậy, ở nhiều địa phương chưa có đầy đủ phương tiện (nhạc cụ), cơ sở vật 
chất (lớp học) để thực thi việc truyền bá âm nhạc, nhà thờ, tu viện, trường dòng đã 
đáp ứng được yêu cầu này và gắn bó thân thiết với Ma sœur. 
 4. Kết luận
 Nhà thờ chính là một thiết chế văn hóa quan trọng cung cấp cơ sở vật chất 
hữu hình cho những giá trị vô hình, trong đó có âm nhạc tồn tại. Từ một cơ sở tín 
ngưỡng tôn giáo trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, trong lĩnh vực âm nhạc, 
nhà thờ trở thành thuật ngữ dùng để chỉ cả một vùng văn hóa âm nhạc - âm nhạc 
nhà thờ, tương tự như âm nhạc dân gian, âm nhạc cung đình chứ không thuần 
túy chỉ một vài thể loại. Bằng con đường đi vào nhà thờ, âm nhạc phương Tây đã 
du nhập nước ta, rồi hình thành nên nhiều hướng đi khác trên đường hướng thích 
nghi, hội nhập văn hóa. Âm nhạc nhà thờ vốn chiếm vị trí trọng yếu trong văn hóa 
châu Âu. Sau khi đạt tới đỉnh cao, nó mới lan tỏa sang các quốc gia khác. Sự ảnh 
hưởng của âm nhạc nhà thờ không chỉ giới hạn trong phạm vi nhà thờ mà còn trở 
thành nhân tố tiềm ẩn bên trong di sản âm nhạc đồ sộ của âm nhạc phương Tây. 
Ngay cả nhiều tác phẩm kinh điển được coi là mẫu mực, được đưa vào giảng dạy 
trong các nhạc viện cũng có “một bộ phận không nhỏ” thuộc âm nhạc nhà thờ mà 
bằng nhiều con đường lắt léo gián tiếp đi vào đời sống âm nhạc. Bởi vậy, âm nhạc 
nhà thờ từ lâu đã thoát khỏi không gian nghi lễ của nhà thờ, phổ biến ngoài dân 
gian, đồng thời, với sự phát triển tương ứng từ phía cộng đồng phi Công giáo lại 
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017 71
tiếp tục sáng tạo nên những loại hình âm nhạc thế tục lấy đề tài tôn giáo. Nếu xét ở 
góc độ ngôn ngữ âm nhạc, sự ảnh hưởng của âm nhạc nhà thờ sâu, rộng hơn phạm 
vi một cộng đồng luân lý. Nó len lỏi vào thị hiếu thẩm mỹ, cộng hưởng với bối 
cảnh văn hóa trở thành một thành tố quan trọng trong cơ tầng văn hóa âm nhạc. 
 Mặc dù nhạc viện không phải cơ sở đào tạo âm nhạc nhà thờ, nhưng vì phỏng 
theo mô hình đào tạo âm nhạc phương Tây thông qua việc bảo tồn, duy trì di sản 
âm nhạc kinh điển mà âm nhạc nhà thờ là một bộ phận không thể thiếu. Các bộ 
môn Hòa thanh, Phức điệu nghiêm khắc đều có sự gắn kết tự nhiên với âm nhạc 
nhà thờ. Hai vị đại diện tiêu biểu của trào lưu âm nhạc Baroque là Bach, Handel 
đều dành sự nghiệp cho việc tôn vinh những giá trị văn hóa Công giáo. Riêng đối 
với Bach, ông dành trọn cả đời cho âm nhạc nhà thờ, đệm đàn ở các nhà thờ St 
Boniface, Arnstadt, nhà thờ St Blasius, Muhlhausen, nhà thờ St Thomas, Leipzig, 
Đức, từng đảm nhận chức giám đốc âm nhạc ba nhà thờ St Nikolai, St Pauline, nhà 
thờ Đại học Leipzig suốt 27 năm và sáng tác nên những tuyệt phẩm bất hủ, như 
Toccata, Cantata, Passion, Oratorio để phụng sự Thiên Chúa. 
 Cơ Đốc giáo vốn xuất phát từ châu Á và truyền vào nước ta qua đường châu 
Âu, bởi vậy, những nhà truyền giáo châu Âu đã mang theo văn hóa của họ, cũng 
giống như đạo Phật, xuất phát từ Ấn Độ đến nước ta qua Trung Quốc. Các kênh 
thừa tiếp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cách thức tiếp biến văn hóa. Vì thế, theo 
dấu các nhà truyền giáo châu Âu, âm nhạc nhà thờ theo phong cách châu Âu đã 
được cấy lên trên mảnh đất văn hóa nước ta. Đến lượt văn hóa Việt Nam lại tiếp tục 
tác động theo hướng bản địa hóa. Bởi vậy, âm nhạc nhà thờ châu Âu trải dài suốt 
thời kỳ Trung cổ phổ biến hình thức âm nhạc nhiều bè, hợp xướng, phong cách 
phức điệu từ nghiêm khắc đến tự do, thịnh hành với các thể loại Oratorio, Cantata, 
Motet, Mass, Passion sau khi vào Việt Nam, người dân quen với các làn điệu 
dân ca truyền thống, hát lý, giao duyên, hò, vè... với loại hình âm nhạc một bè, 
hát với lời ca, nên bộ phận âm nhạc nhà thờ tồn tại trong khu vực được quy hoạch 
của cộng đồng luân lý cũng từng bước chuyển hướng sang âm nhạc chủ điệu, một 
bè, phù hợp với thẩm mỹ văn hóa truyền thống. Có lẽ, bộ phận vẫn duy trì được 
công năng nhất định, đó là nhạc đàn. Trước đó, nhạc đàn và nhạc hát của chúng ta 
chưa thực sự gặp gỡ nhau, ngoại trừ các loại hình nghệ thuật tổng hợp, như Tuồng, 
Chèo, Cải lương, Bả trạo, Hát bóng rỗi hay thính phòng như Ca trù, Ca Huế, Tài 
tử thông qua việc tiếp xúc âm nhạc phương Tây với nhiều hình thức phong phú, 
đa dạng, loại hình ca hát có nhạc đệm đã trở nên phổ biến. 
 Âm nhạc Công giáo góp phần bổ sung thêm cho nền âm nhạc đất nước một 
hình thái mới, cùng với dòng âm nhạc truyền thống, dân gian. Có thể nói, quá trình 
du nhập đạo Công giáo đã mở đầu cho một tiến trình kéo dài dai dẳng cùng với xu 
hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa vào thời kỳ Pháp thuộc. Trong thời kỳ toàn cầu 
hóa và hội nhập nền kinh tế thế giới, Công giáo có những ảnh hưởng trên phạm vi 
72 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
toàn cầu. Bởi đây là tôn giáo duy nhất có “Nhà nước trung tâm” (Vatican). Công 
giáo đã để lại trên thực thể của mình nền văn hóa châu Âu, sau khi vào nước ta, nó 
tiếp tục chịu sự biến đổi từ quá trình bản địa hóa. Lịch sử từng ghi nhận, “từ năm 
1933, Đại chủng viện Xuân Bích mở cửa ở Hà Nội với mục đích chung tay góp 
sức đào tạo linh mục cho Giáo hội Việt Nam. Một trong những chủ trương độc đáo 
của Hội, đó là tinh thần hội nhập văn hóa Các Cha đi tiên phong trong việc sử 
dụng tiếng Việt Nam trong giảng dạy, với cách sống hòa đồng với mọi người.”(14) 
Trước đó, nhiều họa sĩ nổi tiếng của ngôi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 
đã áp dụng ngôn ngữ hội họa truyền thống, như tranh sơn mài với hình ảnh, nhân vật 
mang đậm nét văn hóa Việt Nam vào tác phẩm Công giáo, điển hình như Lê Phổ, Lê 
Văn Đệ, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Tạ Tỵ Như thế 
để thấy rằng, Công giáo song hành cùng tiến trình phương Tây hóa và trải dài qua 
bao thế kỷ, nó vẫn như một xu hướng lũy tiến liên tục những khía cạnh khác nhau 
về một nền văn hóa vốn có nhiều điểm chưa tương thích với cấu trúc văn hóa dân 
tộc. Cho đến hiện tại, văn hóa Công giáo dường như vẫn nằm ngoài truyền thống. 
Bởi vậy, Tân nhạc có tuổi đời cả trăm năm mà vẫn mang tiếng là mới, thậm chí di 
sản âm nhạc Cổ điển phương Tây còn xuất hiện trước cả nhiều loại hình âm nhạc 
cổ truyền xét về tư cách lịch sử, như nhạc Tài tử, sân khấu Cải lương, nghệ thuật 
tổng hợp Hát bóng rỗi cùng hàng loạt loại hình nghệ thuật nảy sinh trên vùng đất 
phương Nam với lịch sử trên 300 năm. Xét về mặt cảm quan và tâm lý tập thể, âm 
nhạc phương Tây tiếp biến suốt hơn 100 năm qua đang bước tiếp qua những thay 
đổi, ảnh hưởng theo đường hướng di chuyển sâu hơn vào thành trì văn hóa dân tộc. 
 L H Đ
CHÚ THÍCH
(1) https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_gi%C3%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t Nam.
(2) 
 tiep-bien-39453.
(3) 
(4) Trương Đình Cử, “Bàn về sự phát triển của nền Tân nhạc Việt Nam”, Tạp chí Bách khoa số 
 73 (ngày 15 tháng 1 năm 1960), tr. 91.
(5) Xét về tư cách lịch sử, âm nhạc nhà thờ xuất hiện muộn hơn người bà con có họ hàng gần 
 là hội họa. Theo những bức vẽ mà họa sĩ Lê Hiếu giới thiệu trong cuốn Mỹ thuật Công giáo 
 Việt Nam - Theo dòng thời gian, Nxb Đồng Nai xuất bản năm 2014, suốt thời gian truyền 
 giáo từ 1840 - 1885 đã có nhiều tác phẩm hội họa ra đời phản ánh con đường gian truân 
 của Công giáo trong quá trình di chuyển vào nền văn hóa nước ta.
(6) Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Giám mục về nghệ thuật thánh, Dựng xây từ những 
 viên đá sống động, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2006, tr. 101.
(7) Nhà thờ đầu tiên trên đất nước ta là Faifo xây dựng ở Đà Nẵng, năm 1675. Ngôi nhà thờ 
 tạm này được dựng bằng gỗ trong ba ngày, tiếp đó, khu vực Đàng Trong có thêm khoảng 
 300 nhà thờ với 70.000 tín hữu. Theo mô tả của Charles Maybon dẫn qua cuốn Nước Đại 
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017 73
 Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa từ 1847-1885 (Nxb Tri thức, Hà Nội, năm 2014, tr. 67): 
 “người Pháp có một ngôi nhà, nhưng chúng tôi không thể phân biệt đó là nhằm việc thương 
 mại hay có mục đích truyền giáo”. Những nhà thờ này hình thành từ nhu cầu truyền giáo tại 
 chỗ mang tính chất tạm hơn là vươn tới chuẩn mực, quy phạm, quy mô về kiến trúc nhằm 
 phục vụ nhu cầu cử hành nghi lễ Phụng vụ cho phép có sự tham gia của hoạt động âm nhạc. 
(8) Tất nhiên, tính chất “cửa ngõ’ của những thành phố trên tự thân đã đem đến cơ hội tiếp xúc, 
 giao lưu văn hóa. 
(9) Dựng xây từ những viên đá sống động, Sđd, tr. 160.
(10) Bàn về Thánh nhạc, Sđd, tr. 119.
(11) Bàn về Thánh nhạc, Sđd, tr. 85.
(12) Bàn về Thánh nhạc, Sđd, tr. 118.
(13) 
(14) Mỹ thuật Công giáo Việt Nam - Theo dòng thời gian, Nxb Đồng Nai, tr. 31-32.
TÓM TẮT
 Nhà thờ là một trong những thiết chế văn hóa đóng vai trò trung tâm trong đời sống văn 
hóa Công giáo. Đây không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động nghi lễ, sinh hoạt tôn giáo, mà còn 
cung cấp cơ sở vật chất cho nhiều hoạt động liên quan đến âm nhạc. Bài viết đề cập quá trình 
tiếp biến văn hóa Công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ trên 3 phương diện: Nhà thờ - 
Vùng văn hóa âm nhạc Công giáo; Đại phong cầm - Cây đàn biểu trưng của âm nhạc nhà thờ; 
và Ma sœur - Người truyền bá âm nhạc.
 Bằng con đường đi vào nhà thờ, âm nhạc phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, rồi hình 
thành nên nhiều hướng đi khác trên đường hướng thích nghi, hội nhập văn hóa. Xét từ góc độ 
tiếp biến văn hóa, âm nhạc nhà thờ từ lâu đã thoát khỏi không gian nghi lễ của nhà thờ, phổ biến 
ngoài dân gian, đồng thời, với sự phát triển tương ứng từ phía cộng đồng phi Công giáo lại tiếp 
tục sáng tạo nên những loại hình âm nhạc thế tục lấy đề tài tôn giáo. Nếu xét ở góc độ ngôn ngữ 
âm nhạc, sự ảnh hưởng của âm nhạc nhà thờ sâu rộng hơn phạm vi một cồng đồng luân lý. Nó 
len lỏi vào thị hiếu thẩm mỹ, cộng hưởng với bối cảnh văn hóa trở thành một thành tố quan trọng 
trong đời sống âm nhạc Việt Nam.
ABSTRACT
 CATHOLIC ACCULTURATION VIEWED FROM THE ASPECTS OF CHURCH MUSIC
 Catholic Church is one of the cultural institutions playing the central role in Catholic cultural 
life. This is not only the place where ceremonial and religious activities take place, but it also 
provides facilities for a variety of musical activities. The article addresses the acculturation 
process viewed from the aspects of Catholic liturgical music: the Church – the cultural domain of 
church music, pipe organ – the symbol of church music, and Catholic nuns – the music spreaders.
 Western music, through the church, was introduced into Vietnam, and then it produced 
various types of music on route to cultural adaptation and integration. Viewed from cultural 
acculturation, church music has long been free from the ritual space of the church to become 
common, and at the same time, secular music with religious themes continued to be created 
by the non-Catholic community. In terms of musical language, the influence of church music is 
more extensive than that of a moral community. It penetrated into aesthetic tastes to become an 
important element of musical life in Vietnam.

File đính kèm:

  • pdftiep_bien_van_hoa_cong_giao_nhin_tu_goc_do_am_nhac_nha_tho.pdf