Tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020
Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng (SDD) trên người cao tuổi là một vấn đề nổi lên ở Việt Nam cũng như toàn
cầu. SDD còn là một trong mười yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến tàn tật và tử vong ở Việt Nam. Do đó, đánh
giá tình trạng dinh dưỡng ở người cao tuổi là rất quan trọng để xác định và đưa ra biện pháp can thiệp kịp thời.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại
bệnh viện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận năm 2020.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang khảo sát 236 người cao tuổi đến khám
ngoại trú tại Bệnh viện Tuy Phong từ tháng 01/2020 đến tháng 03/2020. Thông tin được thu thập bằng bộ câu
hỏi soạn sẵn, qua phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt và tra cứu hồ sơ bệnh án.
Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi theo phương pháp MNA-SF là 14,4% và 25,9% có nguy cơ
suy dinh dưỡng. Có mối liên quan giữa SDD theo MNA-SF với các yếu tố: nhóm tuổi, mức sống kinh tế, thói
quen ăn uống và BMI.
Kết luận: Tầm soát tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi đến khám ngoại trú nên được thực
hiện hàng năm để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng, từ đó can thiệp dinh dưỡng kịp thời, thích hợp và
hiệu quả hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 87 TỈ LỆ SUY DINH DƯỠNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐẾN KHÁM NGOẠI TRÚ TẠI MỘT BỆNH VIỆN TUYẾN HUYỆN CỦA TỈNH BÌNH THUẬN NĂM 2020 Võ Văn Tâm1, Nguyễn Thị Kim Vệ2, Phạm Thị Lan Anh1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng (SDD) trên người cao tuổi là một vấn đề nổi lên ở Việt Nam cũng như toàn cầu. SDD còn là một trong mười yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến tàn tật và tử vong ở Việt Nam. Do đó, đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở người cao tuổi là rất quan trọng để xác định và đưa ra biện pháp can thiệp kịp thời. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại bệnh viện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang khảo sát 236 người cao tuổi đến khám ngoại trú tại Bệnh viện Tuy Phong từ tháng 01/2020 đến tháng 03/2020. Thông tin được thu thập bằng bộ câu hỏi soạn sẵn, qua phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt và tra cứu hồ sơ bệnh án. Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi theo phương pháp MNA-SF là 14,4% và 25,9% có nguy cơ suy dinh dưỡng. Có mối liên quan giữa SDD theo MNA-SF với các yếu tố: nhóm tuổi, mức sống kinh tế, thói quen ăn uống và BMI. Kết luận: Tầm soát tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi đến khám ngoại trú nên được thực hiện hàng năm để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng, từ đó can thiệp dinh dưỡng kịp thời, thích hợp và hiệu quả hơn. Từ khóa: suy dinh dưỡng, người cao tuổi ABSTRACT PREVALENCE OF MALNUTRITION AND RELATED FACTORS OF THE ELDER OUTPATIENT AT A DISTRICT HOSPITAL IN BINH THUAN PROVINCE 2020 Vo Van Tam, Nguyen Thi Kim Ve, Pham Thi Lan Anh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 87 - 94 Backgrounds: Malnutrition among the elderly is an emerging problem in Vietnam as well as globally. Malnutrition is also one of the top ten risk factors for disability and death in Vietnam. Therefore, assessing the nutritional status of the elderly is very important to identify and provide timely intervention. Objectives: to determine the prevalence of malnutrition and related factors of the elder outpatient in Tuy Phong Hospital - Binh Thuan province, 2020. Method: A cross-sectional study was conducted in 236 the older people in Tuy Phong hospital from January to March 2020. Information was collected using a face-to-face interview questionnaire and investigating the medical record. Results: The proportion of malnutrition by MNA-SF was 14.4% and 25.9% at risk nutrition. There was a relationship between nutrition status by MNA-SF and related factors: age, age groups, economic, eating habits, anthropometric indicators such as BMI, average weight and arm circumference. 1Bộ môn Dinh dưỡng – Thực phẩm, Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM 2Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: BS. Võ Văn Tâm ĐT: 0376545712 Emaill: vantam.yds@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 88 Conclusion: Screening for the elderly malnutrition status should be done annually to assess the status of malnutrition, thereby timely, appropriate and effective nutritional intervention. Keywords: malnutrition, the elder ĐẶT VẤN ĐỀ Suy dinh dưỡng (SDD) là một vấn đề nghiêm trọng trên toàn cầu(1). Trên Thế giới, dân sô người cao tuổi không ngừng tăng lên và cùng với đó là tỉ lệ suy dinh dưỡng ngày càng gia tăng, với tỉ lệ hiện mắc chung là 22,6%(2). Tại Việt Nam, suy dinh dưỡng là một trong mười yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến tàn tật và tử vong(3). SDD ở người cao tuổi là tình trạng thường gặp do tác động lão hóa dẫn đến những thay đổi về tâm lý, sinh lý, thể chất(4). Không những thế, suy dinh dưỡng liên quan đến bệnh tật ở người cao tuổi còn ảnh hưởng xấu tới quá trình và chất lượng điều trị(5). Đối với người cao tuổi thì MNA được coi là công cụ sàng lọc dinh dưỡng hữu hiệu nhất. Thực tế, công cụ này được giản đơn thành MNA-SF được coi là công cụ sàng lọc độc lập, nhanh chóng và có độ tin cậy cao(6). Một số nghiên cứu trên Thế giới ở người cao tuổi sử dụng MNA-SF cho kết quả khá cao: 16,9-26,9% bị SDD. Trên Thế giới đã có nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa suy dinh dưỡng với các yếu tố ở người cao tuổi. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu nói về vấn đề này. Chính vì lí do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020” đề từ đó nhằm can thiệp dinh dưỡng sớm hơn, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Những bệnh nhân đến khám ngoại trú phòng khám Nội khoa bệnh viện Tuy Phong từ đủ 60 tuổi trở lên trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2020 đến ... Tôn giáo Không tôn giáo Phật giáo Đạo Bà Ni Đạo Bà La Môn Thiên Chúa giáo 145 73 9 6 3 61,5 30,9 3,8 2,5 1,3 Trình độ học vấn Dưới cấp 1 Cấp 1 47 125 19,9 53,0 Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Cấp 2 Cấp 3 Trên cấp 3 40 20 4 17,0 8,4 1,7 Đối tượng sống chung Sống chung với vợ/ chồng và con cháu Sống chung với con cháu Sống với vợ/ chồng Sống một mình Sống chung với người khác 90 71 52 21 2 38,1 30,1 22,0 8,9 0,9 Mức sống hiện tại Nghèo, cận nghèo Trung bình Giàu, khá 23 179 34 9,7 75,9 14,4 *: Trung bình ± độ lệch chuẩn Bảng 2 cho thấy tuổi trung bình của đối tượng là 69,2±7,9 tuổi, trong đó nhóm tuổi 60-69 tuổi chiếm phần lớn với 57,2%. Tỉ lệ nữ giới (53,8%) tham gia nhiều hơn nam giới (46,2%). Tình trạng không tôn giáo chiếm 61,5%. Trình độ học vấn dưới cấp 2 chiếm gần ¾ dân số tham gia và có 8,9% người cao tuổi (NCT) đang sống một mình. Về tình trạng kinh tế, thì đa số NCT có mức sống trung bình, chiếm 75,9%. Tuy nhiên, có gần 10% NCT có mức sống nghèo và cận nghèo. Bảng 3: Đặc điểm lối sống, thói quen tình trạng sức khỏe – bệnh lý (n=236) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Hút thuốc lá Đang HTL Đã từng HTL Không HTL 44 57 135 18,6 24,2 57,2 Sử dụng rượu/bia Có Không 44 192 18,6 81,4 Số ly nước uống mỗi ngày (1 ly= 200ml) 7,5±3,3* Thói quen ăn uống Tốt Khá tốt Chưa tốt 142 81 13 60,2 34,3 5,5 Trung bình số bệnh đồng mắc 2,8 ±1,1* Các bệnh lý hiện mắc Tăng huyết áp Bệnh đường tiêu hóa Đái tháo đường Bệnh động mạch vành Bệnh rối loạn chuyển hóa Bệnh xương khớp Bệnh mạch máu não 188 98 87 74 66 48 19 79,7 41,5 36,9 31,4 28,0 20,3 8,1 Có đang điều trị thuốc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 91 Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Có Không 236 0 100,0 0 Số loại thuốc uống trong ngày 4,5 ± 1,6* Chứng khó nuốt Có Không 4 232 1,7 98,3 Vấn đề SKRM Có Không 188 48 79,7 20,3 *: Trung bình ± độ lệch chuẩn Bảng 3 cho thấy có 57,2% NCT chưa bao giờ hút thuốc lá và có 81,4% hiện tại không có sử dụng rượu, bia. Trung bình mỗi ngày NCT uống khoảng 1,5 lít nước và chỉ có 5,5% NCT có thói quen ăn uống chưa tốt. Trung bình mỗi NCT có 3 bệnh đồng mắc. Trong đó, có khoảng 60% NCT có từ 3 bệnh đồng mắc trở lên và hơn ¼ NCT có từ 4 bệnh đồng mắc. Trong số các bệnh lý thì bệnh tăng huyết áp chiếm tỉ lệ nhiều nhất gần 80% và trung bình mỗi ngày một NCT uống 4,5±1,6 loại thuốc. Chỉ có khoảng 2% NCT có chứng khó nuốt. Tuy nhiên, tỉ lệ NCT có vấn đề về sức khỏe răng miệng chiếm khá cao với 79,7% như: gãy răng, mang răng giả hay đau buốt khi ăn. Bảng 4 cho thấy tỉ lệ NCT có tình trạng suy dinh dưỡng chiếm 14,4% và có 25,9% NCT có nguy cơ suy dinh dưỡng theo phương pháp MNA-SF. Trong khi đó, đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo BMI của WHO thì tỉ lệ NCT có SDD chỉ chiếm 11,5%. Bảng 5 cho thấy tình trạng SDD theo MNA- SF có mối liên quan với nhóm tuổi (p=0,007), nhóm tuổi càng tăng thì tỉ lệ SDD càng cao. Và kết quả còn cho thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa SDD với mức sống hiện tại (p <0,001), NCT có mức sống hiện tại thuộc nghèo hoặc cận nghèo thì càng có nguy cơ mắc SDD cao hơn. Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa SDD với các đặc tính mẫu nghiên cứu: giới tính, tôn giáo, trình độ học vấn và đối tượng sống chung với p >0,05. Bảng 4: Phân loại tình trạng dinh dưỡng theo MNA-SF và BMI (n=236) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) KTC 95% MNA-SF Dinh dưỡng bình thường (MNA-SF từ 12- 14 điểm) Có nguy cơ SDD (MNA-SF từ 8- 11 điểm) SDD (MNA-SF dưới 8 điểm) 141 61 34 59,7 25,9 14,4 53,3 – 65,9 20,6 – 31,9 10,5 – 19,5 BMI (kg/m 2 ) Suy dinh dưỡng (BMI <18,5) Bình thường (BMI= 18,5- 24,9) Thừa cân, béo phì (BMI ≥25) 27 140 69 11,5 59,3 29,2 7,9 – 16,2 52,9 – 65,5 23,8 – 35,4 Bảng 5: Mối liên quan giữa MNA-SF với đặc điểm dân số xã hội (n=236) Đặc tính MNA-SF p SDD n(%) Nguy cơ SDD n(%) Không SDD n(%) Tuổi (Mean±SD) 71,4±9,7 70,5±8,6 68,1±6,9 0,008* Nhóm tuổi 60- 69 70- 79 ≥ 80 15 (11,1) 13 (17,3) 6 (23,0) 31 (23,0) 20 (26,7) 10 (38,5) 89 (65,9) 42 (56,0) 10 (38,5) 0,007* Giới tính Nam Nữ 18 (16,5) 16 (12,6) 29 (26,6) 32 (25,2) 62 (56,9) 79 (62,2) 0,623 χ=0,948 Tôn giáo Có tôn giáo Không tôn giáo 12 (13,2) 22 (15,2) 30 (33,0) 31 (21,4) 49 (53,8) 92 (63,4) 0,141 χ=3,920 Trình độ học vấn Dưới cấp 1 Cấp 1 8 (17,0) 16 (12,8) 17 (36,2) 31 (24,8) 22 (46,8) 78 (62,4) 0162* Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 92 Đặc tính MNA-SF p SDD n(%) Nguy cơ SDD n(%) Không SDD n(%) Cấp 2 Cấp 3 Trên cấp 3 7 (17,5) 2 (10,0) 1 (25,0) 9 (22,5) 3 (15,0) 1 (25,0) 24 (60,0) 15 (75,0) 2 (50,0) Đối tượng sống chung Sống một mình Sống với người khác 1 (4,8) 33 (15,3) 8 (38,1) 53 (24,7) 12 (57,1) 129 (60,0) 0,240 χ=2,852 Mức sống hiện tại Nghèo Trung bình Khá, giàu 9 (39,2) 23 (12,8) 2 (5,9) 7 (30,4) 49 (27,4) 5 (14,7) 7 (30,4) 107 (59,8) 27 (79,4) <0,001* *: Hồi quy Logit thứ tự Bảng 6: Mối liên quan giữa MNA-SF với đặc điểm lối sống, thói quen tình trạng sức khỏe, bệnh lý (n=236) Đặc điểm MNA-SF p SDD n(%) Nguy cơ SDD n(%) Không SDD n(%) Hút thuốc lá Đang HTL Đã từng HTL Không HTL 6 (13,6) 12 (21,1) 16 (11,9) 15 (34,1) 13 (22,8) 33 (24,4) 23 (52,3) 32 (56,1) 86 (63,7) 0,316 χ=4,730 Sử dụng rượu/bia Có Không 8 (12,9) 26 (15,0) 23 (37,1) 38 (21,8) 31 (50,0) 110 (63,2) 0,061 χ=5,586 Thói quen ăn uống Chưa tốt Khá tốt Tốt 4 (30,8) 15 (18,5) 15 (10,6) 4 (30,8) 31 (38,3) 26 (18,3) 5 (38,4) 35 (43,2) 101 (71,1) <0,001* TB số ly nước/ngày TB ±SD 7,2±3,4 7,5±4,3 7,6±2,8 0,551 Trung bình số bệnh đồng mắc 2,7±1,2 2,7±1,1 2,8±1,0 0,548* TB số loại thuốc uống mỗi ngày 4,6±1,7 4,2±1,7 4,6±1,4 0,390* Có đang mắc chứng khó nuốt Có Không 2 (50,0) 32 (13,8) 0 (0) 61 (26,3) 2 (50,0) 139 (59,9) 0,096 χ=4,695 Có đang mắc vấn đề SKRM Có Không 31 (16,5) 3 (6,2) 47 (25,0) 14 (29,2) 110 (58,5) 31 (64,6) 0,194 χ=3,276 *: Hồi quy Logit thứ tự Bảng 6 cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng SDD với thói quen ăn uống (p <0,001), NCT có thói quen ăn uống càng không tốt càng có nguy cơ mắc SDD. Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa SDD với các đặc tính lối sống, thói quen như hút thuốc lá, uống rượu, bia và số ly nước uống mỗi ngày và với các đặc điểm tình trạng sức khỏe bệnh lý như số bệnh lý hiện mắc, số loại thuốc uống mỗi ngày, chứng khó nuốt và tình trạng sức khỏe răng miệng. Bảng 7 cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng theo MNA-SF với BMI (p <0,001). Nhóm NCT có chỉ số khối cơ thể (BMI) <18,5 kg/m2 càng dễ bị suy dinh dưỡng theo đánh giá dinh dưỡng MNA-SF hơn nhóm NCT có BMI từ 18,5 đến 24,9 kg/m2 và nhóm có tình trạng thừa cân, béo phì (BMI ≥25 kg/m2). Bảng 7: Mối liên quan giữa MNA-SF với BMI (n=236) Đặc điểm MNA-SF p SDD n(%) Nguy cơ SDD n(%) Không SDD n(%) BMI (kg/m 2 ) BMI <18,5 BMI= 18,5- 24,9 BMI ≥ 25 9 (33,3) 25 (17,8) 0 (0) 17 (63,0) 33 (23,6) 11 (15,9) 1 (3,7) 82 (58,6) 92 (84,1) <0,001* *: Hồi quy Logit thứ tự Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 93 BÀN LUẬN Qua kết quả cho thấy đặc điểm dân số nghiên cứu khá tương đồng với đặc điểm dân số người cao tuổi tại tỉnh Bình Thuận nói riêng và đặc điểm dân số người cao tuổi tại Việt Nam nói chung như: tỉ lệ nữ giới chiếm cao hơn nam giới nhưng chênh lệch không đáng kể. Nhóm tuổi từ 60 đến 69 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân số NCT. Gần 50% dân số NCT có trình độ học vấn thấp, từ tiểu học trở xuống. Phần lớn NCT hiện tại đang sống chung với người thân trong gia đình, số NCT sống một mình không quá 10% dân số(7). Kết quả cho thấy tuổi trung bình của các đối tượng tham gia nghiên cứu là 69,2 ± 7,9 tuổi và nhóm tuổi phổ biến là sơ lão từ 60-69 tuổi chiếm 57,2% có sự khác biệt khá lớn so với nghiên cứu của Shum NC khi nhóm đại lão từ 80 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ cao nhất với 54%(8) điều này có thể lý giải do HongKong là một trong những quốc gia có dân số già cao nhất Thế giới(9). Tỉ lệ nữ giới trong nghiên cứu là 53,8% chiếm tỉ lệ cao hơn so với nam giới, kết quả này phù hợp với tình trạng “nữ hóa dân số già” của nước ta hiện nay. Trình độ học vấn của các đối tượng tham gia nghiên cứu khá thấp, chỉ khoảng 10% có trình độ từ THPT trở lên, kết quả này thấp hơn rất nhiều so với nghiên cứu của Marta M với hơn 80%(10), sự khác biệt này có thể do các đối tượng là NCT, sống trong thời kì đất nước còn chưa thống nhất, nền kinh tế còn khó khăn, nạn mù chữ còn cao. Trung bình số bệnh đồng mắc của đối tượng là 2,8 ±1,1 bệnh và mỗi ngày một NCT uống 4,5 ±1,6 loại thuốc, kết quả thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Chatindiara I, Ilana F(11,12). Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi các nghiên cứu trên được thực hiện trên bệnh nhân nội trú tại các bệnh viện hoặc trung tâm y tế lão khoa, đối tượng có nguy cơ mắc nhiều bệnh và uống nhiều loại thuốc theo phác đồ điều trị hơn. Theo đánh giá dinh dưỡng bằng thang đo MNA- SF thì cho thấy 14,4% NCT có tình trạng SDD và 25,9% có nguy cơ SDD. Trong khi đó, theo phân loại chỉ số khối cơ thể của WHO thì kết quả từ nghiên cứu chỉ có 11,5% NCT bị suy dinh dưỡng. Vì thế, công cụ MNA-SF như một xét nghiệm sàng lọc được khuyến khích sử dụng, làm cơ sở để đánh giá tình trạng DD. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng SDD theo MNA-SF với nhóm tuổi với p=0,009, kết quả này khá tương đồng với nhiều nghiên cứu trong nước và ngoài nước(8,14,14). Khi xét về mối liên quan giữa tình trạng kinh tế hiện tại của đối tượng tham gia thì tìm thấy được mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng dinh dưỡng theo MNA-SF (p=0,001), điều kiện kinh tế và xã hội có thể ảnh hưởng xấu đến sự lựa chọn chế độ ăn uống và các loại thực phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu còn tìm thấy được mối liên quan có ý nghĩa thống kê với đặc điểm thói quen ăn uống (p <0,001), NCT có thói quen ăn uống càng tốt thì càng ít có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. Kết quả này khá tương đồng với nghiên cứu của Nádia C(15). Thức ăn được chia sẻ, ăn cùng với người khác dường như sẽ ngon hơn khi ăn một mình và đó có thể là một lý do khiến nhiều người cao tuổi sống một mình có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. Thói quen bỏ bữa ăn hay sự đa dạng thực phẩm trong bữa ăn cũng là một trong những các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng bữa ăn cũng như năng lượng cơ thể hấp thu. Điều này càng làm nổi bật tầm quan trọng của việc đánh giá chế độ ăn uống như một biện pháp phát hiện nguy cơ dinh dưỡng. Tuy nhiên, nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa SDD với các đặc tính khác như: tôn giáo, trình độ học vấn, đối tượng sống chung, hoạt động thể lực, tình trạng sức khỏe bệnh lý và sức cơ tay. Điều này có thể lý giải nghiên cứu thực hiện ở mỗi quốc gia khác nhau, phân bố nơi ở, địa lý, thói quen, phong tục khác nhau nên có sự khác nhau. KẾT LUẬN Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi theo phương pháp MNA-SF là 14,4% và 25,9% có nguy cơ suy dinh dưỡng. Có mối liên quan giữa SDD theo MNA-SF với các yếu tố: nhóm tuổi, mức sống kinh tế, thói quen ăn uống và với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 94 tinhd trạng dinh dưỡng theo BMI. MNA-SF được xem như là một công cụ sàng lọc khuyến khích sử dụng, làm tiền đề để đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Vì thế, khuyến khích bệnh nhân từ 60 tuổi hàng năm tầm soát tình trạng dinh dưỡng bằng cách trả lời các câu hỏi của công cụ MNA-SF. Và lồng ghép các chương trình đánh giá tình trạng dinh dưỡng với hoạt động khám chữa bệnh ở người cao tuổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. WHO (2019). Nutrition for older persons. URL: https://www.who.int/nutrition/topics/ageing/en/ index1.html. 2. Nestlé Nutrition Institute (2019). The Problem- Malnutrition. URL: https://www.mna- elderly.com/the_problem_malnutrition.html. 3. Institute for Health Metrics and Evaluation (2017). Country profiles Vietnam. URL: 4. Mangels AR (2018). CE: Malnutrition in Older Adults. American Journal of Nursing, 118(3):34-41. 5. Kaiser MJ, Bauer JM, Rämsch C (2010). Frequency of malnutrition in older adults: a multinational perspective using the mini nutritional assessment. Journal of the American Geriatrics Society, 58(9):1734-1738. 6. Guigoz Y, Vellas B, Garry PJ (1996). Assessing the nutritional status of the elderly: The Mini Nutritional Assessment as part of the geriatric evaluation. Nutrition Reviews, 54(1):59-65. 7. Tổng cục thống kê (2018). Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 01/04/2017, pp.22-44, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. 8. Shum NC, Hui WWH, Chu FCS et al (2005). Prevalence of malnutrition and risk factors in geriatric patients of a convalescent and rehabilitation hospital. Hong Kong Medical Journal, 11(4):234-242. 9. Worldometer (2020). Life Expectancy of the World Population. URL: https:// www.worldometers.info/demographics/life- expectancy/. 10. Marta M, Gurtowski M, Doroszkiewicz H et al (2019). Assessment of the relationship between frailty syndrome and the nutritional status of older patients. Clinical Interventions in Aging, 14:773-780. 11. Chatindiara I, Allen J, Popman A (2018). Dysphagia risk, low muscle strength and poor cognition predict malnutrition risk in older adults at hospital admission. BMC Geriatrics, 18(1):78. 12. Ilana F, Larisa G, Hana C, et al (2007). Characteristics of undernourished older medical patients and the identification of predictors for undernutrition status. Nutrition Journal, 6(1):37. 13. Lê Trần Diễm Phương (2015). Tình trạng người cao tuổi tại nhà dưỡng lão chùa Lâm Quang quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận Tốt nghiệp Bác sỹ Y học Dự phòng, Đại học Y Dược TP. HCM. 14. Son N, Kavak B (2018). Evaluation of nutritional status of elderly patients presenting to the Family Health Center. Pakistan Journal of Medical Sciences, 34(2):446 - 451. 15. Nádia C, Stefanie K, Matthys C (2016). Risk factors for malnutrition in older adults: a systematic review of the literature based on longitudinal data. Advances in Nutrition, 7(3):507-522. Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
- ti_le_suy_dinh_duong_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_cao_tuo.pdf