Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng

Tự đánh giá sức khỏe cá nhân là một đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về mọi mặt của sức khỏe. Với

nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu thực trạng tự nhận thức sức khỏe cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng

tới tự nhận thức của nhóm người Từ 60 tuổi trở lên ở vùng nông thôn Việt Nam. Nghiên cứu khảo sát trên

397 đối tượng thông qua bộ câu hỏi đo lường về chỉ số và sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân (PROMIS).

Phân tích Two-step cluster và phân tích hồi quy logistic đơn biến cũng được sử dụng để phân nhóm và xác

định mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học với sự tự nhận thức. Kết quả cho thấy sự tự nhận thức

tốt về sức khỏe cá nhân chiếm ưu thế (53,4%). Các yếu tố: tiền sử bệnh, BMI bình thường, trầm cảm tác

động tới sự tự nhận thức theo chiều nghịch. Nghiên cứu của chúng tôi đã đưa ra được các bằng chứng về

các yếu tố ảnh hưởng đến sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân của người cao tuổi ở vùng nông thôn Việt Nam.

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 1

Trang 1

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 2

Trang 2

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 3

Trang 3

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 4

Trang 4

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 5

Trang 5

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 6

Trang 6

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 10580
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng

Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 163
THỰC TRẠNG TỰ NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE CÁ NHÂN CỦA 
NGƯỜI CAO TUỔI TẠI VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM NĂM 2018 
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG 
Nguyễn Thanh Lam, Vũ Thiện Hoàng, Phan Ngọc Hân, Lê Thị Hương
 Phạm Hải Thanh và Ngô Trí Tuấn 
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Tự đánh giá sức khỏe cá nhân là một đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về mọi mặt của sức khỏe. Với 
nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu thực trạng tự nhận thức sức khỏe cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng 
tới tự nhận thức của nhóm người Từ 60 tuổi trở lên ở vùng nông thôn Việt Nam. Nghiên cứu khảo sát trên 
397 đối tượng thông qua bộ câu hỏi đo lường về chỉ số và sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân (PROMIS). 
Phân tích Two-step cluster và phân tích hồi quy logistic đơn biến cũng được sử dụng để phân nhóm và xác 
định mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học với sự tự nhận thức. Kết quả cho thấy sự tự nhận thức 
tốt về sức khỏe cá nhân chiếm ưu thế (53,4%). Các yếu tố: tiền sử bệnh, BMI bình thường, trầm cảm tác 
động tới sự tự nhận thức theo chiều nghịch. Nghiên cứu của chúng tôi đã đưa ra được các bằng chứng về 
các yếu tố ảnh hưởng đến sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân của người cao tuổi ở vùng nông thôn Việt Nam. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Tự nhận thức, người cao tuổi, nông thôn, Việt Nam, yếu tố ảnh hưởng
Sức khỏe được định nghĩa là trạng thái 
hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và 
xã hội.¹ Mặt khác, các phong trào thúc đẩy Y tế 
toàn cầu ngày càng phát triển đã khiến cho việc 
nâng cao khả năng tự nhận thức chung về sức 
khỏe cá nhân ngày càng cần thiết.2,3 Đó là một 
đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về cả sức 
khỏe thể chất và tinh thần.4 Vì vậy, nâng cao 
khả năng tự nhận thức sức khỏe mỗi cá nhân 
giúp bảo vệ sức khỏe đúng cách và phát triển 
sức khỏe cá nhân theo chiều hướng tích cực sẽ 
có thể cải thiện sức khỏe cộng đồng.
Tuy nhiên, thưc trạng nhận thức sức khỏe 
bản thân ở khu vực nông thôn hay các nước 
đang phát triển đang còn nhiều thiếu hụt. Điều 
này có thể do khả năng đáp ứng kém của người 
dân với các dịch vụ y tế hay do những điểm yếu 
trong hệ thống y tế ở nông thôn và các quốc 
gia đang phát triển gây nên.2,5,6 Đây có thể là 
nguyên nhân khiến các nước đang phát triển có 
tuổi thọ trung bình thấp hơn các nước phát triển 
và tỷ lệ các bệnh do nhiễm trùng tăng cao hơn 
so với các khu vực khác.7–9 Cũng chính vì lý do 
này, người dân nơi đây không chú trọng đến 
bảo vệ sức khỏe cá nhân và không sử dụng các 
dịch vụ y tế nếu phát sinh chi phí.
Ngoài ra, người cao tuổi là nhóm tuổi mà 
sức khỏe thể chất đang dần trở nên kém đi. Nổi 
bật trong đó là các vấn đề liên quan tới xương 
khớp, tim mạch hay sức khỏe tâm thần.10–12 
Điều đó khiến cho nhóm đối tượng này cần 
được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục 
Tác giả liên hệ: Ngô Trí Tuấn, Bộ môn Tổ chức và 
Quản lý Y tế - Viện Đào tạo YHDP & YTCC - Trường 
Đại học Y Hà Nội
Email: ngotrituan@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 15/12/2019
Ngày được chấp nhận: 20/02/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020164
tiêu:
1- Xác định thực trạng sự tự nhận thức về 
sức khỏe cá nhân ở người cao tuổi từ 60 tuổi 
trở lên tại vùng nông thôn Việt Nam.
2- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự 
tự nhận thức về sức khỏe cá nhân ở người cao 
tuổi từ 60 tuổi trở lên tại vùng nông thôn Việt 
Nam.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những 
người dân sống ở khu vực này tối thiểu 3 năm 
liên tục và có độ tuổi >= 60 tuổi. Các đối tượng 
không mắc các chứng suy giảm trí nhớ và suy 
giảm khả năng giao tiếp.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu của chúng 
tôi sử dụng phương pháp thiết kế mô tả cắt 
ngang.
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tại 3 
huyện được chọn ngẫu nhiên tại tỉnh Hà Nam 
(Duy Tiên, Kim Bảng và Bình Lục) từ tháng 6 
đến tháng 8 năm 2018. Khu vực được lấy đại 
điện cho vùng nông thôn khu vực Bắc Bộ.
Phương pháp chọn mẫu: Nghiên cứu đã sử 
dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn. 
Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 trong 5 huyện 
của tình Hà Nam (Duy Tiên, Kim Bảng và Bình 
Lục). Mỗi huyện, 10 xã được chọn ngẫu nhiên. 
Tại mỗi xã, 15 hộ dân được chọn ngẫu nhiên 
với tiêu chí mỗi hộ có ít nhất 1 người trong độ 
tuổi >= 60 tuổi (1 người/hộ). Tổng số đủ tiêu 
chí lựa chọn tại mỗi xã là 15 người. Đã có 450 
người đủ tiêu chí tại trên địa bàn nghiên cứu. 
Các đối tượng đã được thông báo và giải thích 
về nghiên cứu, đã ký mẫu đơn đồng ý tham gia. 
Sự tham gia của các đối tượng là tự nguyện 
và thông tin của những người tham gia được 
bảo mật tuyệt đối. Các phiếu thu thập sau được 
làm sạch và loại bỏ các phiếu có missing rồi 
mới được nhập vào bộ số liệu. Nghiên cứu đã 
phỏng vấn và thu thập số liệu được của 397 
người.
Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi của 
nghiên cứu chúng tôi gồm 3 phần.
- Nhân khẩu học gồm các biến: tuổi, tình 
trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập gia 
đình, bảo hiểm y tế. 
- Đo lường chỉ số sức khỏe cá nhân bao 
gồm các biến: tiền sử bệnh tật, tư vấn từ nhân 
viên y tế, BMI (chỉ số khối cơ thể), WHR (tỷ số 
vòng eo trên vòng mông) và sức khỏe tâm thần. 
Trong đó, đo lường sức khỏe thâm thần được 
chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi DASS-21 gồm 21 
câu hỏi về kiểm định sức khỏe tâm thần trên 3 
mặt trầm cảm, lo âu và stress.13 
- Đo lường sự tự nhận thức sức khỏe cá 
nhân đã được chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi 
PROMIS gồm 10 câu hỏi. Bộ câu hỏi PROMIS 
giúp chúng ta có thể đánh giá đầy đủ về sự tự 
nhận thức sức khỏe chung của từng cá nhân 
liên quan đến vấn đề sức khỏe thể chất, sức 
khỏe tâm thần và sức khỏe xã hội.14 Hệ số 
Cronbach’s Alpha của hai bộ câu hỏi DASS- 21 
và PROMIS lần lượt là 0,861 và 0,946.
3. Xử lý số liệu
Chúng tôi sử dụng phần mềm Epidata 3.1 
để nhập dữ liệu và phân tích thông qua phần 
mềm R-Studio.
Những phương pháp phân tích mà nghiên 
cứu của chúng tôi đã sử dụng:
Phân tích mô tả: sử dụng để thống kê tỷ lệ 
(%) và tần số trung bình các đặc điểm nhân 
khẩu học, thực trạng sức khỏe tâm thần, các 
chỉ số sức khỏe và sự tự nhận thức sức khỏe 
của đối tượng nghiên cứu để có tổng điểm tự 
nhận thức sức khỏe cá nhân.
Phân tích K-mean cluster: sử dụng để phân 
nhóm đối tượng nghiên cứu theo tổng điểm sự 
tự nhận cá nhận về sức khỏe thể chất với tổng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 165
điểm sự tự nhận cá nhận về sức khỏe sức khỏe 
tâm thân, số phân nhóm được cho là phù hợp 
dựa vào hệ số Euclidean distance cao nhất so 
với các phân nhóm khác.15 
Phân tích hồi quy logistics: nhằm xác định 
mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học 
với các phân nhóm tự nhận thức của đối tượng 
nghiên cứu. Các kết quả phân tích có ý nghĩa 
thống kê khi giá trị p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được sự cho phép của địa 
phương ở các khu vực được chọn mẫu. Các 
đối tượng tự nguyện tham gia nghiên cứu 
được đảm bảo vô danh và bí mật các thông 
tin cá nhân. Các thông tin thu thập chỉ dành 
cho mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
58,9% đối tượng tham gia nghiên cứu trong 
độ tuổi dưới 65 tuổi. 60,5% là nam giới. 77,1% 
số người tham gia có trình độ học vấn dưới 
trung học phổ thông. 93,5% đối tượng đã kết 
hôn. 56,9% đối tượng nghiên cứu có thu nhập 
dưới 50 triệu VND. 85,9% người trả lời đã có 
bảo hiểm y tế. 39,2% tổng số đối tượng mắc từ 
1 bệnh trở lên. Về lối sống, có 69,5% số người 
tham gia không có hoạt động thể thao trong 
thời gian gần đây. Trong tổng số các đối tượng 
nghiên cứu, 72% không hút thuốc, 70,5% 
không uống trà, 71,8% không sử dụng đồ uống 
có cồn và 96,2% không sử dụng cà phê trong 
thời gian gần.
Về các chỉ số sức khỏe thể chất, 79,1% số 
người tham gia đều có chỉ số BMI bình thường. 
Ngược lại, chỉ số WHR đã chỉ ra phần lớn đối 
tượng nằm trong khoảng điểm nhận thấy sự 
nguy hiểm. Đặc biệt, có tới 52,1% đối tượng 
nghiên cứu được chỉ ra có chỉ số WHR cao (>1 
đối với nam và >0,85 đối với nữ), ở trong tình 
trạng rất nguy hiểm.
Về sức khỏe tâm thần, tỉ lệ người trả lời 
được chỉ ra có điểm sức khỏe tâm thần bình 
thường ở ba mặt: trầm cảm, lo âu và căng 
thẳng lần lượt là 89,4%, 82,4% và 96,5%.
2. Phân nhóm đối tượng tự nhận thức
Biểu đồ 1. Phân bố hệ số Euclidean distance theo từng phân bố nhóm (n = 397)
Kết quả phân tích Two-step cluster chỉ ra 2 phân nhóm với hệ số BIC là cao nhất trong các mô 
hình phân nhóm. Kích thước của các phân nhóm lần lượt là: 184 (46,3%) - nhóm 1 và 213 (53,7%) 
- nhóm 2.
Biểu đổ 2 chỉ ra số phân nhóm phù hợp là 2 nhóm giữa tổng điểm nhận thức cá nhân về sức khỏe 
tâm thần với tổng điểm nhận thức cá nhân về sức khỏe thể chất. Kết quả phân tích K-mean cluster 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020166
chỉ ra nhóm 1 (n = 184, % = 46,3%) là nhóm có sự tự nhận thức cá nhân về cả sức khỏe thể chất 
sức khỏe tâm thần là kém. Trong khi đó nhóm 2 (n= 213, % = 53,7%) thì có sự tự nhận thức cao về 
cả sức khỏe thể chất sức khỏe tâm thần.
Biểu đồ 2. Phân bố đối tượng theo phân nhóm đối tượng 
của phân tích K-mean cluster (n = 397)
3. Mô hình của các yếu tố tác động ảnh hưởng tới sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân
Bảng 1. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến phân nhóm tự nhận sức khỏe (n = 397)
Yếu tố ảnh hưởng
Estimate 
(β)
SE OR
95%CI
Cận dưới Cận trên
Nam giới (Có/Không) 0,47 0,21 1,59 1,05 2,42
Bị bệnh (Có/Không) - 0,81 0,23 0,45 0,28 0,71
Không bị trầm cảm (Có/Không) 0,79 0,28 2,19 1,27 3,78
BMI bình thường (Có/Không) 0,54 0,26 1,72 1,04 2,84
Bảng trên cho thấy rằng kết quả thu được ở mô hình cho thấy 3 yếu tố: giới tính, tiền sử bệnh độ 
trầm cảm và chỉ số BMI có ảnh hưởng tới sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân. Cụ thể, bị bệnh dẫn 
đến sự tự nhận thức giảm. Bên cạnh đó, nam giới, không trầm cảm và có BMI bình thường thì tăng 
sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân.
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra sự tự nhận 
thức về sức khỏe cá nhân tốt chiếm ưu thế. Tuy 
nhiên, chỉ số WHR chỉ ra thực trạng sức khỏe 
ngược lại, WHR cao (nguy hiểm) chiếm trên 
50% và nghiên cứu lại chỉ ra rằng việc tự nhận 
thức về sức khỏe không bị ảnh hưởng bởi thực 
trạng sức khỏe cá nhân. Điều đó khiến chúng 
tôi cho rằng có nhiều đối tượng vẫn chưa có 
những nhận thức đúng về thực trạng sức khỏe 
cá nhân. Chúng tôi cũng nhận định rằng đây 
chính là nhóm đối tượng cần được chú trọng 
trong việc nâng cao ý thức khám sức khỏe định 
kì và cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn. 
Ngoài ra, việc phát triển các dịch vụ y học gia 
đình tại vùng nông thôn là cần thiết.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 167
Điểm nhấn trong kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi là đã chỉ ra sự tương quan giữa sự 
trầm cảm và sự nhận thức sức khỏe các nhân 
của người cao tuổi ở vùng nông thôn. Một 
nghiên cứu của Fiske A. và cộng sự đã chỉ ra 
rằng người cao tuổi bị trầm cảm có nhiều khả 
năng thay đổi về nhận thức, các triệu chứng 
soma và mất hứng thú hơn so với những người 
trẻ tuổi bị trầm cảm.16 Kết quả này có nét tương 
đồng với nghiên cứu của chúng tôi và một 
nghiên cứu khác tại Trung Quốc mà chúng tôi 
tìm được.17 Từ đó, chúng tôi khẳng định rằng 
trầm cảm là một trong những yếu tố chính gây 
ảnh hưởng đến sự tự nhận thức về sức khỏe ở 
người cao tuổi. Ngoài ra, trầm cảm còn gây ra 
sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức và chức năng 
sinh lý, đồng tời làm tăng tỷ lệ tự tử và tàn tật ở 
người cao tuổi.18 Điều này khiến cho trầm cảm 
trở thành một vấn đề cần được quan tâm nhiều 
hơn trong thời gian tới.
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy nam 
giới là đối tượng có sự tự nhận thức về sức 
khỏe thấp hơn so với nữ giới. Tuy nhiên, yếu 
tố này lại không đồng nhất ở nhiều nghiên cứu 
tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, một nghiên 
cứu ở Estonia có kết quả tương đồng với chúng 
tôi rằng phụ nữ có khả năng tự nhận thức về 
sức khỏe cao hơn nam giới.19 Hai nghiên cứu 
khác ở Singapore và Pakistan có kết quả hoàn 
toàn trái ngược với nghiên cứu của chúng tôi 
và nghiên cứu ở Estonia.20,21 Nghiên cứu ở 
Singapore cho rằng yếu tố văn hóa có thể là 
nguyên nhân đóng cho những khác biệt này.20 
Chúng tôi cũng có cho mình một quan điểm 
tương tự về vấn đề này. Chúng tôi cho rằng có 
thể do văn hóa ở Việt Nam cho rằng nam giới là 
phái mạnh và không được phép mềm yếu. Đây 
có thể là lý do vì sao nam giới thường chủ động 
bỏ qua những vấn đề sức khỏe của bản thân 
để giữ lấy hình tượng đó. Điều đó khiến cho sự 
tự nhận thức về sức khỏe của họ thấp hơn so 
với nữ giới vốn được cho là phái yếu trong văn 
hóa Việt Nam.
Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra những yếu 
tố ảnh hưởng đến nhận thức kém khác là tiền 
sử bệnh. Tiền sử bệnh là yếu tố nên được ưu 
tiên chú ý ở người cao tuổi ở vùng nông thôn 
vì đây là yếu tố dễ ảnh hưởng đến tình trạng 
sức khỏe của bệnh nhân. Mức độ, số lượng 
hay số năm điều trị bệnh có thể là những lý 
do ảnh hưởng đến sự tự nhận thức cá nhân. 
Hơn nữa, những nghiên cứu trước đây cũng 
chỉ ra sự ảnh hưởng của tiền sử bệnh tới sự tự 
nhận thức.20,22,23 Ngoài ra, chúng tôi đã tìm ra 
chỉ số BMI có tác động đến sự tự nhận thức, kết 
quả này có thể lý giải do sự tham gia hoạt động 
thể thao của nhóm nghiên cứu là thấp (30,5%). 
Nghiên cứu khác ở Singapore khẳng định sự 
tự nhận thức sức khỏe cá nhân có ảnh hưởng 
bởi hoạt động thể thao, việc hoạt động thể thao 
có thể dẫn đến duy trì chỉ số BMI ở mức bình 
thường.23
Nghiên cứu của chúng tôi có một vài hạn 
chế. Đầu tiên, cũng giống như các nghiên cứu 
trước đây, phương pháp nghiên cứu cắt ngang 
và độ chính xác của các câu trả lời trong bộ câu 
hỏi tự điền chính là những hạn chế mà nghiên 
cứu này mắc phải. Bên cạnh đó, việc chỉ tập 
trung nghiên cứu ở địa bàn một tỉnh miền Bắc 
nên chưa thể khái quát hóa toàn bộ vùng nông 
thôn Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đề xuất cần có 
thêm nhiều nghiên cứu khác liên quan đến vấn 
đề tự nhận thức về sức khỏe tại những vùng 
khác ở khu vực nông thôn Việt Nam để có thể 
khái quát được toàn bộ vùng nông thôn Việt 
Nam.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thực 
trạng của sự tự nhận thức trên đối tượng người 
cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam. Cụ thể, 
sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân tốt chiếm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020168
ưu thế. Các yếu tố tiền sử bệnh, BMI bình 
thường hay trầm cảm gây thay đổi khả năng tự 
nhận thức sức khỏe. Chúng tôi đề xuất có thêm 
những nghiên cứu khác tập trung vào các đối 
tượng có sự tự nhận kém hơn như người cao 
tuổi, người có tiền sử trầm cảm. 
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin cảm ơn sự 
giúp đỡ của Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y 
tế công cộng Trường Đại học Y Hà Nội, các cơ 
quan ban ngành và Trạm Y tế địa phương đã 
tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành nghiên 
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Organization WH. Basic Documents. 
World Health Organization; 2014.
2. Chen X. Understanding the Development 
and Perception of Global Health for More 
Effective Student Education. Yale J Biol Med. 
2014;87(3):231-240.
3. Erfe JM, Choe JK. Introduction: the 
global health movement. Yale J Biol Med. 
2014;87(3):227-229.
4. Haseli-Mashhadi N, Pan A, Ye X, et al. 
Self-Rated Health in middle-aged and elderly 
Chinese: distribution, determinants and 
associations with cardio-metabolic risk factors. 
BMC Public Health. 2009;9(1):368.
5. McIntyre D, Thiede M, Dahlgren G, 
Whitehead M. What are the economic 
consequences for households of illness and 
of paying for health care in low- and middle-
income country contexts? Social Science & 
Medicine. 2006;62(4):858-865.
6. Mills A. Health Care Systems in Low- 
and Middle-Income Countries. New England 
Journal of Medicine. 2014;370(6):552-557.
7. Wiria AE, Djuardi Y, Supali T, Sartono 
E, Yazdanbakhsh M. Helminth infection in 
populations undergoing epidemiological 
transition: a friend or foe? Semin Immunopathol. 
2012;34(6):889-901.
8. Okeahialam BN, Ogbonna C, Otokwula 
AE, Joseph DE, Chuhwak EK, Isiguzoro IO. 
Cardiovascular Epidemiological Transition in a 
Rural Habitat of Nigeria: The Case of Mangu 
Local Government Area. West African Journal 
of Medicine. 2012;31(1):14–18.
9. Dye C, Trunz BB, Lönnroth K, Roglic 
G, Williams BG. Nutrition, Diabetes and 
Tuberculosis in the Epidemiological Transition. 
PLOS ONE. 2011;6(6):e21161.
10. Butler RN, Lewis MI. Aging & Mental 
Health: Positive Psychosocial Approaches. 
Oxford, England: C. V. Mosby; 1973.
11. Yazdanyar A, Newman AB. The Burden 
of Cardiovascular Disease in the Elderly: 
Morbidity, Mortality, and Costs. Clin Geriatr 
Med. 2009;25(4):563-vii.
12. Felson DT, Naimark A, Anderson 
J, Kazis L, Castelli W, Meenan RF. The 
prevalence of knee osteoarthritis in the elderly. 
The Framingham Osteoarthritis Study. Arthritis 
Rheum. 1987;30(8):914-918.
13. Lovibond SH, Lovibond PF, Psychology 
Foundation of Australia. Manual for the 
Depression Anxiety Stress Scales. Sydney, 
N.S.W.: Psychology Foundation of Australia; 
1995.
14. Hays RD, Bjorner JB, Revicki DA, 
Spritzer KL, Cella D. Development of physical 
and mental health summary scores from the 
patient-reported outcomes measurement 
information system (PROMIS) global items. 
Qual Life Res. 2009;18(7):873-880.
15. Hand DJ, Krzanowski WJ. Optimising 
k-means clustering results with standard 
software packages. Computational Statistics & 
Data Analysis. 2005;49(4):969-973.
16. Fiske A, Wetherell JL, Gatz M. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 169
Depression in Older Adults. Annual Review of 
Clinical Psychology. 2009;5(1):363-389.
17. Haseli-Mashhadi N, Pan A, Ye X, et 
al. Self-Rated Health in middle-aged and 
elderly Chinese: distribution, determinants and 
associations with cardio-metabolic risk factors. 
BMC Public Health. 2009;9:368.
18. Rodda J, Walker Z, Carter J. Depression 
in older adults. BMJ. 2011;343.
19. Leinsalu M. Social variation in self-rated 
health in Estonia: a cross-sectional study. Soc 
Sci Med. 2002; 55(5):847-861.
20. Lim W-Y, Ma S, Heng D, et al. Gender, 
ethnicity, health behaviour & self-rated health in 
Singapore. BMC Public Health. 2007;7(1):184.
21. Ahmad K, Jafar TH, Chaturvedi N. Self-
rated health in Pakistan: results of a national 
health survey. BMC Public Health. 2005;5:51.
22. Steward KA, Tan A, Delgaty L, et al. Self-
Awareness of Executive Functioning Deficits 
in Adolescents With ADHD. J Atten Disord. 
2017;21(4):316-322.
23. Bivona U, Riccio A, Ciurli P, et al. Low 
Self-Awareness of Individuals With Severe 
Traumatic Brain Injury Can Lead to Reduced 
Ability to Take Another Person’s Perspective. 
The Journal of Head Trauma Rehabilitation. 
2014;29(2):157
Summary
SELF-AWARENESS OF INDIVIDUAL HEALTH AMONG 
VIETNAMESE ELDERLY OVER IN RURAL AREAS IN 2018 AND 
ASSOCIATED FACTORS
An individualized health assessment is a basic evaluation but comprehensive assessment of all 
aspects of health. With this study, we aim to explore the state of individual health self-awareness and 
the factors affecting self-awareness of Vietnamese people 60 years of age and older in rural area. We 
surveyed 397 subjects through a set of personal health measurement questionnaire and personal health 
self-awareness (PROMIS) questionnaire. Two-step cluster analysis and univariate logistic regression 
analysis were used to classify groups of self-awareness and determine the correlation between 
demographic factors and self-awareness. Our results found that predominantly, half of the elderly has good 
self-awareness about personal health (53.4%). Factors asssosiated included: medical history, normal 
BMI index, depression status. Our research suggests focusing on subjects with less cognitive ability.
Key words: Self-awareness, elderly, rural area, Vietnamese, associated factors

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tu_nhan_thuc_ve_suc_khoe_ca_nhan_cua_nguoi_cao_tu.pdf