Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị
Tóm tắt: Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính tại Mỹ năm 2008 đã làm thay đổi
nhận thức của các nhà nghiên cứu về nguy cơ cũng như hậu quả khốc liệt của rủi ro
hệ thống đến hoạt động tổng thể nền kinh tế. Trong nghiên cứu này, các tác giả tổng
quan về rủi ro hệ thống như khái niệm, phân loại và tác động của rủi ro hệ thống.
Tiếp theo, dựa trên tổng hợp dữ liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và
các tổ chức, nhóm tác giả phân tích thực trạng rủi ro hệ thống tại ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam, giai đoạn 2009- 2019, thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ
xấu, cơ cấu tín dụng, đòn bẩy tài chính và khả năng thanh khoản của các NHTM.
Phần cuối, các tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm quản lý rủi ro hệ thống
trong khu vực ngân hàng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 227- Tháng 4. 2021 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Đỗ Thu Hằng Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Tạ Thanh Huyền Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 23/09/2020 Ngày nhận bản sửa: 23/03/2021 Ngày duyệt đăng: 22/04/2021 Tóm tắt: Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính tại Mỹ năm 2008 đã làm thay đổi nhận thức của các nhà nghiên cứu về nguy cơ cũng như hậu quả khốc liệt của rủi ro hệ thống đến hoạt động tổng thể nền kinh tế. Trong nghiên cứu này, các tác giả tổng quan về rủi ro hệ thống như khái niệm, phân loại và tác động của rủi ro hệ thống. Tiếp theo, dựa trên tổng hợp dữ liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các tổ chức, nhóm tác giả phân tích thực trạng rủi ro hệ thống tại ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, giai đoạn 2009- 2019, thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ xấu, cơ cấu tín dụng, đòn bẩy tài chính và khả năng thanh khoản của các NHTM. Phần cuối, các tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm quản lý rủi ro hệ thống trong khu vực ngân hàng. Từ khóa: đòn bẩy tài chính, ngân hàng thương mại, nợ xấu, thanh khoản, rủi ro hệ thống. Current situation of systemic risks in Vietnam commercial banks and some recommendations Abstract: The 2008 global financial crisis changed researchers’ perceptions of the importance and consequences of systemic risk on the overall performance of the whole financial system. The authors review theories of systematic risk such as the concept, classification and consequences of systematic risk. In section 2, authors analyzed the current situation of systemic risks in Vietnam commercial banks during the period from 2009 to 2019, focusing on the aspects of high financial leverage, credit structure, high NPL ratio, liquidity stress... Lastly, the authors propose a number of recommendations to manage systemic risks in the banking sector. Keywords: commercial banks, leverage, NPL, systemic risk. Hang Thu Do Huyen Thanh Ta Email: huyentt@hvnh.edu.vn Banking Faculty, Banking Academy of Vietnam ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN 25Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 1. Tổng quan về rủi ro hệ thống 1.1. Khái niệm rủi ro hệ thống So với những rủi ro khác, rủi ro hệ thống được nhận diện tương đối muộn. Về mặt lý thuyết, rủi ro hệ thống xuất hiện khoảng những năm 90 của thế kỷ 20 nhưng chỉ thật sự được chú ý sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007- 2008. Các nghiên cứu từ trước đến nay cho thấy, chưa có sự thống nhất về khái niệm rủi ro hệ thống. Một số khái niệm rủi ro hệ thống tiêu biểu như sau: Mishkin (1995) đã định nghĩa, rủi ro hệ thống là khả năng xảy ra sự kiện bất ngờ, thường là không dự tính được, làm gián đoạn thông tin trên thị trường tài chính, khiến thị trường không thể luân chuyển vốn một cách hiệu quả cho các bên có cơ hội đầu tư hiệu quả nhất. Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS, 1994) cho rằng, rủi ro hệ thống là rủi ro người tham gia không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng có thể lần lượt khiến những người tham gia khác vỡ nợ với phản ứng dây chuyền dẫn đến khó khăn tài chính rộng lớn hơn. Hội đồng Thống đốc hệ thống dự trữ liên bang (Fed, 2001) đã đưa ra khái niệm về rủi ro hệ thống như sau: “Rủi ro hệ thống có thể xảy ra nếu một tổ chức/định chế trong một mạng lưới thanh toán USD lớn riêng biệt không thể hoặc không sẵn sàng thanh toán số nợ ròng của nó. Nếu xảy ra việc không thanh toán, các chủ nợ của tổ chức trong mạng thanh toán cũng không thể thanh toán các nghĩa vụ của mình. Do đó, hậu quả nghiêm trọng có thể lan sang những tổ chức/định chế khác trong mạng lưới riêng biệt, đến các tổ chức tiền gửi khác trong hệ thống và đến cả những tổ chức khác không tham gia vào mạng lưới và nói chung đến nền kinh tế”. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB, 2004) định nghĩa rủi ro hệ thống là rủi ro mà một tổ chức không có khả năng thực hiện/ đáp ứng các nghĩa vụ của mình khi đến hạn khiến các tổ chức khác không thể để đáp ứng nghĩa vụ của họ khi đến hạn. Sự thất bại này có thể gây ra vấn đề thanh khoản hoặc tín dụng nghiêm trọng, đe dọa sự ổn định hoặc niềm tin vào thị trường. Khái niệm này đã chỉ ra nguyên nhân và hậu quả của rủi ro hệ thống một cách rõ ràng hơn. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2008 đã cho thấy các định nghĩa ở trên đã bỏ qua hoặc không mô tả rõ ràng về một thuộc tính quan trọng của các cuộc khủng hoảng hệ thống, đó là các tác động/ thiệt hại bên ngoài hệ thống tài chính của cuộc khủng hoảng này do việc không thực hiện hiệu quả chức năng chính của hệ thống tài chính, bao gồm cung cấp thanh khoản, tín dụng và dịch vụ, hay nói cách khác bỏ qua nguy cơ lan tỏa từ lĩnh vực tài chính sang nền kinh tế thực và các chi phí liên quan. Schwarcz (2008) định nghĩa về rủi ro hệ thống là rủi ro (i) một cú sốc kinh ... a, trên thị trường bán buôn, việc quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM là rất quan trọng và điều này có thể không hoạt động trong các sự kiện hệ thống. Thị trường và tài trợ thanh khoản có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng (Brunnermeier và Pedersen, 2008). - Sự suy giảm dòng tín dụng cho nền kinh tế trong sự kiện hệ thống, các ngân hàng chọn giảm nguồn cung tín dụng do thiếu thanh khoản hoặc vốn, do đó tạo ra khủng hoảng tín dụng cho các công ty và hộ gia đình (Bernanke và cộng sự, 1992). Một số Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021 lượng lớn các khoản vay bị đòi lại là kết quả của các vấn đề ngân hàng. Thêm vào đó, trong rủi ro hệ thống, các khách hàng bị từ chối cho vay ở ngân hàng này cũng không thể đến vay tại ngân hàng khác. Không phải tất cả các rủi ro đều gây ra khủng hoảng tài chính. Tăng trưởng kinh tế dài hạn là không thể nếu không chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, chấp nhận rủi ro quá mức gây ra khủng hoảng tài chính. Ngược lại, khủng hoảng làm giảm khẩu vị rủi ro của người cho vay và nhà đầu tư (làm giảm số lượng các dự án được tài trợ và rủi ro liên quan đến các dự án này), do đó làm giảm tăng trưởng kinh tế (Aghion và cộng sự, 2010). 2. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Trong giai đoạn 2009 - 2019, hoạt động các NHTM Việt Nam có nhiều biến động. Cùng với triển khai các hoạt động kinh doanh thì trong giai đoạn này các NHTM Việt Nam cũng đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn rủi ro hệ thống. Trong phần này, dựa trên tổng quan dữ liệu từ NHNN và các tổ chức, nhóm tác giả sẽ phân tích các vấn đề rủi ro liên quan đến hệ thống thông qua phân tích các chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu, cơ cấu tín dụng, đòn bẩy tài chính và khả năng thanh khoản của các NHTM. Thứ nhất, tỷ lệ nợ xấu có sự biến động lớn Biểu đồ 1 cho thấy trong giai đoạn 2009 - 2019 tỷ lệ nợ xấu tương đối biến động. Từ năm 2009, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng và đặc biệt, giai đoạn 2011 - 2014 đã chứng kiến sự bùng nổ của nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM Việt Nam. Trong giai đoạn này, tỷ lệ nợ xấu tăng lên trên mức tối thiểu NHNN khuyến cáo là 3%, cụ thể năm 2011 là 3,30% và đạt đỉnh năm 2012 là 4,02% . Đây thực sự là mối đe dọa đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức nước ngoài, các con số đánh giá nợ xấu này đều chưa thật đầy đủ. Theo tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam có thể cao gấp 4 lần con số được báo cáo. Moody cũng cho rằng tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam năm 2013 ở mức 15%, cao hơn nhiều so với mức 3,11% được công bố bởi NHNN và trái phiếu phát hành bằng nội tệ và ngoại tệ của Việt Nam đã bị tổ chức này hạ bậc tín nhiệm từ B1 xuống mức B2. Đồng thời tốc độ tăng trưởng nợ xấu trong 3 năm 2010 - 2012 lần lượt là 53,24%, 55,74% và 46,41% (theo cơ sở dữ liệu IMF, 2020). Tỷ lệ nợ xấu tăng cao dẫn đến hậu quả chi phí xử lý rủi ro tín dụng (RRTD) cũng gia tăng mạnh mẽ. Từ Biểu đồ 2 cho thấy, chi phí dự phòng liên tục tăng từ năm 2011 cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trên tổng Biểu đồ 1. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 Đơn vị: % Nguồn: NHNN & Tổng hợp của tác giả ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN 29Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng dư nợ và đạt đỉnh vào năm 2014. Chi phí dự phòng tăng cao cũng phản ánh mức độ RRTD gia tăng trong giai đoạn này. Điều này dẫn đến hậu quả là khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM giảm sút mạnh. Từ năm 2014 - 2015, bằng các nỗ lực mạnh mẽ của Chính phủ, NHNN, nhiều biện pháp xử lý nợ xấu đã được thực hiện như thành lập Công ty Quản lý tài sản (VAMC) theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ, hạn chế tăng trưởng tín dụng, tái cơ cấu các khoản nợ, thì tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, xuống dưới ngưỡng 3% từ cuối năm 2014 và liên tục giảm. Thứ hai, cơ cấu tín dụng không được đa dạng hóa, tập trung tín dụng tại một số lĩnh vực có mức độ rủi ro cao Theo Bùi Quốc Dũng và Phùng Thu Hiền Vân (2013), giai đoạn 2004- 2007, thị trường bất động sản, ngoại tệ và chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, hậu quả dẫn đến là dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM tập trung mạnh vào các lĩnh vực này. Điều này đặt ra vấn đề là sự an toàn của hệ thống phụ thuộc vào sự biến động của các thị trường này - vốn là lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro lớn. Biểu đồ 3 cho thấy trong năm 2009, tỷ trọng tín dụng vào các lĩnh vực bất động sản, ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng (> 25%). Đến thời điểm 5/2011, một tháng trước thời điểm các NHTM phải đưa tỷ trọng tín dụng phi sản xuất xuống còn 22% (theo Chỉ thị 01/CT-NHNN về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội), vẫn còn 18 ngân hàng có tỷ lệ này trên 22%, và 9 ngân hàng có tỷ lệ này trên 30%. Cuối năm 2011, dư nợ cho vay bất động sản của hệ thống ngân hàng là gần 200.000 tỷ đồng, chiếm 7,78% dư nợ của toàn hệ thống, cao hơn nhiều so với một số nước trong khu vực như Thái Lan (6%) và Malaysia (7%). Tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng dư nợ nhưng tốc độ tăng trưởng luôn cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng chung của nền Biểu đồ 2. Chi phí dự phòng RRTD và tỷ lệ chi phí dự phòng RRTD trên tổng dư nợ của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2019 Đơn vị: Tỷ VND và % Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF, 2020 Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị 30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021 kinh tế (ThS. Bùi Quốc Dũng, Phùng Thu Hiền Vân, 2013). Biểu đồ 3 cũng cho thấy cùng với tăng trưởng tín dụng bất động sản là sự gia tăng nhanh chóng của tín dụng ngoại tệ. Tín dụng ngoại tệ tăng nhanh là do chênh lệch lãi suất cho vay ngoại tệ thấp hơn so với nội tệ, đồng thời tỷ giá được kỳ vọng ổn định (không có rủi ro tỷ giá). Tuy nhiên, tín dụng ngoại tệ tăng nhanh lại dẫn đến áp lực tới tỷ giá và gây nên biến động trên thị trường ngoại hối, ảnh hưởng tới hệ thống tài chính. Từ Biểu đồ 3, tín dụng ngoại tệ năm 2009 đạt gần 17% tổng dư nợ, năm 2010 có giảm nhưng vẫn chiếm hơn 11% tổng dư nợ tín dụng. Thứ ba, mức độ đòn bẩy tài chính1 lớn dẫn đến hệ thống dễ bị tổn thương Biểu đồ 4 cho thấy, đòn bẩy tài chính của các NHTM Việt Nam, trừ năm 2013 - 2014 suy giảm do sự suy giảm tổng tài sản, thì đều ở ngưỡng cao, xung quanh 13, hàm ý là 1 đồng vốn được tài trợ bởi 13 đồng nợ trong khi đó ngưỡng này tại các NHTM trên thế giới thường ở mức 8- 10 (Adrian 1 Đòn bẩy tài chính = Tổng tài sản/Vốn chủ sở hữu và Brunnermeier, 2016). Việc duy trì tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao cho thấy tính dễ tổn thương của hệ thống tài chính Việt Nam. Điều này dẫn đến rủi ro hệ thống được hình thành và tích lũy mà không quan sát được. Thứ tư, xuất hiện tình trạng căng thẳng thanh khoản trong hệ thống NHTM tại một số giai đoạn Cùng với chất lượng tài sản suy giảm, trong giai đoạn 2008 - 2011, hệ thống NHTM Việt Nam còn trải qua tình trạng căng thẳng về thanh khoản diễn ra thường xuyên (Bùi Quốc Dũng và Phùng Thu Hiền Vân, 2013). Sự căng thẳng thể hiện rõ ở sự sụt giảm tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản. Biểu đồ 5 cho thấy sự sụt giảm mạnh mẽ của tài sản thanh khoản cao trong tổng tài sản của các NHTM, từ gần 30% các năm 2009- 2010 giảm còn 13,30% năm 2011 và duy trì ở ngưỡng tương đối thấp, trung bình 12% từ năm 2011 đến nay. Một dấu hiệu nữa cho thấy tình trạng căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng là lãi suất liên ngân hàng có xu hướng tăng mạnh. Từ Biểu đồ 6 có thể thấy rằng ba mức lãi suất này có xu hướng biến động cùng Biểu đồ 3. Tỷ trọng tín dụng bất động sản và cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 Đơn vị: % Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ sở dữ liệu IMF ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN 31Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng chiều với nhau và trong giai đoạn 2011- 2012, cả 3 mức lãi suất liên ngân hàng đều tăng mạnh. Có những thời điểm lãi suất liên ngân hàng qua đêm đạt gần 16%. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng thanh khoản này trước hết do tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn so với huy động trong một thời gian dài từ trước đó dẫn tới tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa nguồn vốn và sử dụng nguồn. Biểu đồ 7 cho thấy sự biến động tỷ lệ LDR của toàn hệ thống có sự gia tăng mạnh trong những năm 2009 - 2011, từ 98% năm 2008 đến hơn 110% năm 2011, nếu cộng thêm cả khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác đầu tư thì tỷ lệ này lên đến 119,9%. Trong khi đó, trên thế giới tỷ lệ này chỉ khoảng 30 - 70% và các nước châu Á khác trong khu vực cũng chỉ nằm dưới 80% (BIS, 2010). Tỷ lệ này tăng cao cho thấy mức độ rủi ro thanh khoản của hệ thống có xu hướng tăng lên. Đây là hậu quả của việc theo đuổi tăng trưởng tín dụng cao trong giai đoạn 2007 - 2009. Một nguyên nhân nữa của tình trạng căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng là sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng. Sự mất cân đối giữa kỳ hạn huy động vốn và cho vay đã và đang trở nên nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng khi các khoản cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn và có quy mô lớn hơn nhiều so với các khoản tiền gửi có cùng kỳ hạn. Bên cạnh đó, nguy cơ về rủi ro thanh khoản của NHTM giai đoạn này tăng lên do nợ xấu tăng cao mà khả năng phát mại tài sản thấp, ảnh hưởng tới việc chuyển hóa các khoản nợ xấu thành tiền của ngân hàng. 3. Kết luận và khuyến nghị Qua phân tích thực trạng, có thể thấy rủi ro Biểu đồ 4. Tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009- 2019 Đơn vị: % Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF và tính toán của tác giả Biểu đồ 5. Tỷ lệ tài sản thanh khoản trong tổng tài sản tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 Đơn vị: % Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF, 2020 Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị 32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021 hệ thống của các NHTM Việt Nam có sự biến động trong giai đoạn 2009 - 2019, thể hiện: (i) tỷ lệ nợ xấu biến động, chi phí dự phòng rủi ro tăng; (ii) cơ cấu tín dụng còn tập trung vào một số lĩnh vực có mức độ rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản; (iii) mức độ đòn bẩy lớn, tỷ lệ nợ cao; và (vi) tình trạng căng thẳng thanh khoản xuất hiện tại một số giai đoạn. Từ đó, để ngăn ngừa rủi ro hệ thống đối với các NHTM, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, nhận thức của các cơ quan quản lý cũng như các NHTM cần được nâng cao về nguy cơ rủi ro hệ thống cũng như những tác động tiêu cực của nó, dẫn đến bất ổn tài chính ở phạm vi rộng. Thứ hai, các cơ quan và các nhà quản lý cần đánh giá đúng mức tầm quan trọng của việc đo lường rủi ro hệ thống khu vực ngân hàng. Để làm được như vậy, bước đầu cần phát triển hệ thống cơ sở thông tin đồng bộ và được tập trung thống nhất tại NHNN. Tiếp đó cần xây dựng bộ chỉ số cảnh báo sớm rủi ro hệ thống nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu rủi ro. Đồng thời, tăng cường các công cụ đo lường rủi ro hệ thống tại khu vực NHTM Việt Nam; cân nhắc lựa chọn các phương pháp đo lường phù hợp với khu vực ngân hàng Việt Nam, sử dụng phối hợp các phương pháp để đưa ra những dự báo tốt hơn. Thứ ba, các nghiên cứu thực nghiệm của Brunnermeier và Pedersen (2009), Adrian Biểu đồ 6. Diễn biến lãi suất liên ngân hàng giai đoạn 2009 - 2019 Đơn vị: % Nguồn: Cơ sở dữ liệu Fiin Group, 2020 Biểu đồ 7. Tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi LDR của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF, 2020 ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN 33Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng và Brunnermeier (2016), chỉ ra sự đóng góp của các tổ chức tín dụng khác nhau đến rủi ro hệ thống là khác nhau, đồng thời có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro hệ thống khu vực ngân hàng. Do đó, cần xác định chính xác các nhân tố tác động đến rủi ro hệ thống, cũng như đánh giá tầm quan trọng hệ thống của các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nguồn vốn lớn, mô hình hoạt động, sản phẩm dịch vụ phức tạp, mà sự đổ vỡ của nó có khả năng tác động lớn đến các tổ chức khác cũng như toàn bộ hệ thống. Đối với những tổ chức như vậy, NHNN cần có các biện pháp giám sát chặt chẽ, chuyên sâu hơn, thậm chí có những yêu cầu cao hơn liên quan đến hệ số an toàn vốn, tỷ lệ đảm bảo khả năng chi trả, giới hạn tín dụng ■ Tài liệu tham khảo Adrian, T. and Brunnermeier, M.K., 2016, CoVaR, The American Economic Review, 106(7), p.1705; Aghion, P., Angeletos, G, M., Banerjee, A, and Manova, K., 2010, Volatility and growth: Credit constraints and the composition of investment, Journal of Monetary Economics, 57(3), pp,246-265; Bank for International Settlements (BIS), 1994, 64th Annual Report, Bank for International Settlements, Basel, Switzerland, 1994; Bank for International Settlements (BIS), 2010, Macroprudential instruments and frameworks: a stocktaking of issues and experiences, Bank for International Settlements, Basel, Switzerland Bernanke, B.S., Lown, C.S and Friedman, B.M., 1991, The credit crunch, Brookings papers on economic activity, 1991(2), pp,205-247 Brunnermeier, M.K, and Pedersen, L.H., 2009, Market liquidity and funding liquidity, The review of financial studies, 22(6), pp,2201-2238 Bùi Quốc Dũng, Phùng Thu Hiền Vân, 2013, Cơ cấu tín dụng hướng đến các lĩnh vực và vùng ưu tiên, Báo cáo hoạt động Ngân hàng, Học viện Ngân hàng. ECB, 2004, ECB’s Financial Stability Review, December, 2004 Fed 2001, Policy statement on payments system risk, Docket No, R-1107, 1–13, Washington, D,C., May 2001 Freixas, X., Laeven, L, and Peydró, J,L., 2015, Systemic risk, crises, and macroprudential regulation, Mit Press; Malmendier, U. and Nagel, S., 2011, Depression babies: do macroeconomic experiences affect risk taking?, The Quarterly Journal of Economics, 126(1), pp,373-416; Mishkin, F, 1995, Comment on systemic risk, In George Kaufman, editor, Research in Financial Services: Banking, Financial Markets, and Systemic Risk, volume 7, pages 31–45, Greenwich, CT: JAI Press, 1995 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên 2009- 2019, tại https://www.sbv.gov.vn/ Schwarcz, S.L., 2008, Systemic risk, Geo, LJ, 97, p.193; Smaga, P., 2014, The concept of systemic risk, Systemic Risk Centre Special Paper, (5); Cơ sở dữ liệu: https://data.imf.org/ https://fiingroup.vn/
File đính kèm:
- thuc_trang_rui_ro_he_thong_tai_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet.pdf