Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015
Trẻ em ở tỉnh Lâm Đồng thuộc những nơi có tỷ lệ suy dinh
dưỡng cao. Khảo sát về kiến thức, thực hành và các yếu tố liên
quan tới nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ là cần thiết, giúp thêm cơ
sở khoa học và thực tiễn cho cải thiện chương trình phòng suy
dinh dưỡng trẻ em có hiệu quả hơn. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp mô tả cắt ngang có phân tích. Thông tin thu thập bằng cách
phỏng vấn trực tiếp, sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Số liệu được
phân tích bằng SPSS 17.0. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 226
bà mẹ có 69% có kiến thức đúng và 67,3% thực hành đúng. Các
yếu tố học vấn, số con, tình trạng kinh tế gia đình gia đình có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức phòng suy dinh dưỡng
cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi của bà mẹ. Qua đó cần chú trọng
truyền thông cho từng nhóm đối tượng, đặc biệt là những hộ
nghèo, các bà mẹ có trình độ văn hóa thấp để cải thiện kiến thức
và thực hành về nuôi dưỡng trẻ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 95 THỰC TRẠNG PHÒNG SUY DINH DƯỠNG CHO TRẺ TỪ 6 ĐẾN 24 THÁNG CỦA BÀ MẸ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI XÃ TÂN HỘI, HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG NĂM 2015 Nguyễn Hợp Tấn1 Title: Mothers’ knowledge and practice to prevent malnutrition among children 6-24 months and some related factors in Tan Hoi commune, Duc Trong district, Lam Dong province in 2015 Từ khóa: Kiến thức, thực hành, phòng suy dinh dưỡng, trẻ 6 đến 24 tháng tuổi Keywords: Knowledge, practice, to prevent malnutrition, children from 6 to 24 months Thông tin chung: Ngày nhận bài: 06/5/2019; Ngày nhận kết quả bình duyệt: 20/7/2019; Ngày chấp nhận đăng bài: 25/7/2019. Tác giả: 1 Trường Đại học Yersin Đà Lạt Email: tan.dhyersin@gmail.com TÓM TẮT Trẻ em ở tỉnh Lâm Đồng thuộc những nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Khảo sát về kiến thức, thực hành và các yếu tố liên quan tới nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ là cần thiết, giúp thêm cơ sở khoa học và thực tiễn cho cải thiện chương trình phòng suy dinh dưỡng trẻ em có hiệu quả hơn. Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích. Thông tin thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp, sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Số liệu được phân tích bằng SPSS 17.0. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 226 bà mẹ có 69% có kiến thức đúng và 67,3% thực hành đúng. Các yếu tố học vấn, số con, tình trạng kinh tế gia đình gia đình có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi của bà mẹ. Qua đó cần chú trọng truyền thông cho từng nhóm đối tượng, đặc biệt là những hộ nghèo, các bà mẹ có trình độ văn hóa thấp để cải thiện kiến thức và thực hành về nuôi dưỡng trẻ. ABSTRACT Children in Lam Dong province are in areas with high rates of malnutrition. Surveys of mothers' knowledge, practices and factors related to child nourishment are necessary, helping to further the scientific and practical basis for improving the child malnutrition program more effectively. Research using cross-sectional design with analysis. Information collected by direct interview, using pre- designed questionnaires. Data were analyzed by SPSS 17.0. Research results show that in 226 mothers have 69% have correct knowledge and 67.3% practice properly. The factors of education, number of children, economic status of the family family have a statistically significant relationship with the knowledge of malnutrition for children aged 6 to 24 months. Thereby, it is necessary to pay attention to communication for each target group, especially poor households and mothers with low educational level to improve knowledge and practice about child rearing. TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 96 Đặt vấn đề Dinh dưỡng tốt có vai trò quan trọng đối với sự phát triển thể chất và tâm thần trẻ em. Dinh dưỡng kém sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao, trí tuệ và còn làm nặng thêm các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi,. Theo số liệu của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho thấy có đến 54% trường hợp tử vong của trẻ em ở các nước đang phát triển là có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng. Nhiều sai lầm dẫn đến suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em không phải do thiếu thực phẩm hộ gia đình mà là do thiếu sót ở kiến thức, thực hành chăm sóc của bà mẹ (Nguyễn Văn Thịnh, năm 2013). Đối tượng giáo dục kiến thức chủ yếu là bà mẹ, cho nên bà mẹ phải biết cách nuôi con để đứa con phát triển tốt, tránh được nhiều bệnh, đặc biệt là suy dinh dưỡng trẻ em. Các bà mẹ còn thiếu kiến thức nuôi con dẫn tới việc thực hành còn hạn chế. Hoặc có kiến thức nuôi con nhưng không có điều kiện để thực hành chăm sóc con đúng cách cũng là yếu tố tác động trực tiếp tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ, đồng thời tác động gián tiếp tới nguồn lao động tương lai của đất nước (theo Lý Thị Phương Hoa, năm 2014). Vì vậy, một trong những chiến lược quan trọng trong phòng SDD là công tác truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm làm chuyển biến tốt kiến thức, thực hành của các bà mẹ về nuôi dưỡng trẻ (Lê Thị Hợp và ctv, 2007). Xã Tân Hội, Huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng là xã nghèo của huyện, có tỷ lệ SDD cao. Người dân trong xã chủ yếu là dân tộc thiểu số (DTTS), do đó nhận thức còn chưa cao, chưa tiếp xúc được với các thông tin xã hội cập nhật. Bên cạnh đó vẫn còn những hủ tục mang tính địa phương như cho trẻ ăn bổ sung sớm trước 6 tháng để cứng cáp hơn, không cho trẻ ra ngoài ánh sáng mặt trời nên công tác chăm sóc cho phụ nữ và trẻ em còn chưa tốt. Người chăm sóc trẻ chính là bà mẹ lại phải dành nhiều thời gian cho việc làm nương rẫy. Thêm vào đó, trẻ em giai đoạn từ 6 đến 24 tháng tuổi là giai đoạn quan trọng vì đây là thời kỳ có nhu cầu dinh dưỡng cao, sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ, là thời kỳ thích ứng với môi trường và rất nhạy cảm với ... 9 63 30,1 1,62 (0,59 - 4,45) 0,89 0,34 Khác 10 58,8 7 41,2 Số con 1 con 74 76,3 23 23,7 1,84 (1,02 - 3,32) 4,19 0,04 2 con trở lên 82 63,6 47 36,4 Tình trạng kinh tế Không nghèo 135 76,3 42 23,7 4,29 (2,20 - 8,32) 20,04 0,001 Nghèo 21 42,9 28 57,1 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 101 Có mối liên quan giữa trình độ học vấn và kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống (CI 95%: 1,16 - 19,71) Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa số con với kiến thức của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể bà mẹ sinh con lần đầu có khả năng có kiến thức đúng hơn gấp 1,84 lần so với bà mẹ sinh con thứ 2 trở lên (CI 95%: 1,02 - 3,32). Có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế với kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể là bà mẹ thuộc diện hộ không nghèo có khả năng có kiến thức đúng gấp 4,29 lần bà mẹ thuộc diện hộ nghèo (CI95%: 2,20 - 8,32). 3.4.2. Các yếu tố liên quan với thực hành Bảng 3.7. Mối liên quan giữa tuổi, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà mẹ với thực hành phòng SDD cho trẻ Nội dung Thực hành của bà mẹ OR (95%CI) χ2 P Đúng Chưa đúng N % n % Dân tộc Khác 73 64 41 36 0,74 (0,42 - 1,29) 1,08 0,29 K’Ho 79 70,5 33 29,5 Tôn giáo Khác 73 64,6 40 35,4 0,79 (0,45 - 1,37) 0,72 0,39 Tin lành 79 69,9 34 30,1 TĐHV ≥ THCS 144 66,4 73 33,6 0,25 (0,03 - 2,01) 1,99 0.27 <THCS 8 88,9 1 11,1 Nghề nghiệp Nông 147 70,3 62 29,7 5,69 (1,92 - 16,83) 11,95 0,001 Khác 5 29,4 12 70,6 Số con 2 con trở lên 94 72,9 35 27,1 1,81 (1,03 - 3,16) 4,29 0,03 1 con 58 59,8 39 40,2 Tình trạng kinh tế gia đình Không nghèo 125 70,6 52 29,4 1,96 (1,02 - 3,75) 4,19 0,04 Nghèo 27 55,1 22 44,9 Có mối liên quan giữa nghề nghiệp và thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ làm nghề nông nghiệp/chăn nuôi có khả năng thực hành đúng cao gấp 5,69 lần so với bà mẹ làm nghề khác (CI95%: 1,92 - 16,83). Có mối liên quan giữa số con và thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ sinh con lần thứ 2 trở lên có thể có khả năng thực hành đúng cao gấp 1,81 lần so với bà mẹ sinh con lần đầu (CI95%: 1,03 - 3,16). TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 102 Có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế gia đình và thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, các bà mẹ thuộc hộ gia đình không nghèo có khả năng thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ đúng cao gấp 1,96 lần so với các bà mẹ thuộc hộ gia đình nghèo (CI95%: 1,02 - 3,75). Bảng 3.8. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của bà mẹ Kiến thức của bà mẹ Thực hành của bà mẹ OR (95%CI) χ2 P Đúng Chưa đúng n % n % Đúng 66 94,3 4 5,7 13,43 (4,66-38,66) 33,64 0,001 Chưa đúng 86 55,1 70 44,9 Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ có kiến thức đúng thì có khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43 lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng (CI95%: 4,46 - 38,66). 4. Bàn luận 4.1. Kiến thức và thực hành phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi 4.1.1. Kiến thức phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi Nghiên cứu này cho kết quả 31% bà mẹ có kiến thức chung chưa đúng về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Tỷ lệ này tương đối cao (chiếm gần 1/3 mẫu nghiên cứu), điều này cho thấy các bà mẹ hiểu biết chưa hoàn toàn đầy đủ về kiến thức phòng suy dinh dưỡng cho trẻ. Đây là điều đáng lưu tâm bởi hiện nay chiến lược về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt, chiến lược này đã đi qua được một nửa thời gian mà việc cải thiện về kiến thức của bà mẹ vẫn chưa có chuyển biến rõ rệt (Nguyễn Thị Ngọc Bảo năm 2007). Đối với vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ, 100% bà mẹ tham gia nghiên cứu cho biết cần phải cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu, có 50,9% bà mẹ biết cần cho trẻ bú theo nhu cầu, nhưng lại chỉ có 38,5% bà mẹ biết rằng phải cai sữa cho trẻ khi trẻ từ 18 đến 24 tháng tuổi. Tỷ lệ này tương đương với nghiên cứu “Thực trạng công tác quản lý phòng SDD và tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng năm 2013 của Nguyễn Văn Thịnh (98,8% bà mẹ biết cần cho con bú trong 6 tháng đầu và 50,8% bà mẹ biết rằng nên cai sữa cho trẻ từ 18 đến 24 tháng tuổi). Điều này cho thấy việc truyền thông về nuôi con bằng sữa mẹ đã đến được với các bà mẹ, tuy nhiên cần nhấn mạnh vấn đề thời gian cai sữa cho trẻ, điều này rất có ý nghĩa với sự tăng trưởng và phát triển của trẻ. 4.1.2. Thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi Theo kết quả thực hành của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi tại xã Tân Hội, có 67,3% bà mẹ thực hành chung đúng. Tỉ lệ này phản ánh đúng về thực trạng thực hành phòng suy dinh dưỡng cho trẻ của bà mẹ ở địa phương và cũng phù hợp với tỉ lệ kiến thức của bà mẹ đã nêu ở trên. Tỉ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại phường Trần Hưng Đạo, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (70,3%). Điều này có thể giải thích do địa điểm nghiên cứu khác nhau, giữa thành thị và nông thôn, khả năng tiếp nhận thông tin cũng như tiếp cận với các dụng cụ chăm sóc trẻ, thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cho trẻ tốt hơn bà mẹ ở miền núi dẫn đến thực hành của bà mẹ cũng thay đổi. Bên cạnh đó, đối tượng của 2 nghiên cứu khác nhau, dẫn đến việc thực hành phòng suy dinh dưỡng cho trẻ của bà mẹ cũng khác nhau. TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 103 Vấn đề thực hành cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu theo kết quả cho biết có 202 bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ là chủ yếu trong 6 tháng đầu chiếm 89,4%. So sánh với nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt về “Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Khánh Hà, Huyện Thường Tín, Hà Nội” thì tỉ lệ này thấp hơn nhưng cũng không đáng kể (91,5%). Tỉ lệ bà mẹ cho trẻ bú thêm ban đêm trong 6 tháng đầu là 82,3%. Tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt, điều này có thể là do địa điểm nghiên cứu khác nhau, xã Khánh Hà huyện Thường Tín, Hà Nội thuộc vùng đồng bằng nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và thực hành đúng hơn so với xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. 4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi 4.2.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa học vấn của bà mẹ và kiến thức phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống. Điều này hoàn toàn hợp lý, khi bà mẹ có trình độ học vấn cao thì có thể tiếp cận đến các nguồn thông tin tốt hơn và dễ dàng hơn so với bà mẹ có trình độ học vấn thấp hơn. Nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại phường Trần Hưng Đạo, Tp. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho thấy có mối liên quan giữa trình độ học vấn của bà mẹ với kiến thức phòng chống SDD cho trẻ (p = 0,03). Kết quả này cũng cho thấy để chương trình phòng suy dinh dưỡng cho trẻ em ngày càng hiệu quả hơn ở địa phương, các đối tượng bà mẹ trình độ học vấn thấp dưới THCS nên được quan tâm sâu sát hơn. 4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến thực hành của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố nghề nghiệp của bà mẹ, số con, tình trạng kinh tế gia đình và kiến thức với thực hành phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi Đối với mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về phòng suy dinh dưỡng, kết quả phân tích số liệu cho thấy có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ có kiến thức đúng thì có khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43 lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, khi bà mẹ có kiến thức đúng dẫn đến thực hành đúng. Từ những kiến thức bà mẹ đã chuẩn bị sẵn cho quá trình chăm sóc trẻ, áp dụng vào thực tế sẽ có hiệu quả hơn so với các bà mẹ có kiến thức thấp hơn. So sánh với nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến thức và thực hành của bà mẹ phòng chống SDD cho trẻ dưới 5 tuổi, có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành (p=0,01). Điều này lý giải, kiến thức phòng SDD cho trẻ là nền tảng dẫn đến hành vi của bà mẹ, kiến thức đúng càng cao thì thực hành phòng SDD đúng càng cao và ngược lại. 5. Kết luận 5.1. Kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 69% bà mẹ có kiến thức chung đúng về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 104 5.2. Về thực hành của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi Tổng hợp điểm thực hành có 67,3% bà mẹ thực hành đúng về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. 5.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành của bà mẹ 5.3.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ Bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống. Bà mẹ sinh con đầu có khả năng có kiến thức đúng hơn gấp 1,85 lần so với bà mẹ sinh con thứ 2 trở lên. Bà mẹ thuộc diện hộ không nghèo có khả năng có kiến thức đúng gấp 4,29 lần bà mẹ thuộc diện hộ nghèo. 5.3.2.Một số yếu tố liên quan đến thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ Bà mẹ thuộc hộ gia đình không nghèo có khả năng thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ đúng cao gấp 1,96 lần so với các bà mẹ thuộc hộ gia đình nghèo. Bà mẹ sinh con lần thứ 2 trở lên có khả năng thực hành đúng cao gấp 1,81 lần so với bà mẹ sinh con lần đầu. Đồng thời, bà mẹ có kiến thức đúng thì có khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43 lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng. 6. Khuyến nghị 6.1. Đối với ngành y tế địa phương/ trạm y tế 6.1.1. Bổ sung kiến thức phòng suy dinh dưỡng cho bà mẹ Có kế hoạch truyền thông cho việc triển khai hoạt động tại các xã về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ em, nâng cao kiến thức phòng suy dinh dưỡng cho bà mẹ. Đặc biệt chú ý đến bà mẹ có trình độ học vấn thấp dưới THCS. Tăng thêm nội dung về cách cho trẻ ăn khi trẻ bệnh tiêu chảy. Tổ chức những chương trình nói chuyện chuyên đề về chăm sóc trẻ bệnh tiêu chảy bằng ngôn ngữ dân tộc K’ho, Chu Ru, Chú trọng nội dung tuyên truyền, tư vấn, hướng dẫn kiến thức liên quan cho các bà mẹ nhất là các kiến thức mà các bà mẹ còn đạt tỷ lệ đúng thấp như: Thời gian cho trẻ ăn bổ sung, chăm sóc trẻ bệnh tiêu chảy. 6.1.2. Bổ sung thực hành đúng về phòng suy dinh dưỡng cho bà mẹ Tổ chức thực hiện hướng dẫn tô màu bát bột cho bà mẹ 6 tháng/lần, kết hợp sử dụng thức ăn tại vườn nhà, thức ăn có sẵn tại địa phương. Tổ chức và hướng dẫn cách cho trẻ bú đúng, cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh và kéo dài 18-24 tháng tuổi. Hướng dẫn và làm mẫu việc chọn thực phẩm cho trẻ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm: Chọn thực phẩm tươi, hạn chế cho trẻ dùng thực phẩm chế biến sẵn, đảm bảo ăn chín uống sôi. Tổ chức hướng dẫn bà mẹ khi trẻ bị bệnh hoặc có triệu chứng nặng cần đưa trẻ đến trạm y tế ngay. Thực hành phòng ngừa và điều trị triệt để các bệnh nhiễm trùng, chăm sóc đảm bảo đủ chất dinh dưỡng trong thời gian trẻ bị bệnh và phục hồi dinh dưỡng sau thời gian bị bệnh 6.2. Đối với bà mẹ Khuyến khích bà mẹ tìm hiểu thông tin về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi trên tivi, báo đài, loa phát thanh xã hoặc nhân viên y tế. Chú ý việc cân trẻ hàng tháng để theo dõi sự phát triển thể chất của trẻ. Khi trẻ bệnh tiêu chảy cho trẻ ăn uống đúng hoặc tham khảo ý kiến nhân viên y tế Tăng cường học tập, tranh thủ sắp xếp thời gian tham dự các buổi tư vấn do trạm y tế tổ chức để lắng nghe kiến thức về phòng SDD cho trẻ. TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tập 5 (8/2019) 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Ngọc Bảo (2007), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em dưới 5 tuổi ở nông thôn, Tạp chí Y dược số 4/2007, tr.4. Bộ Y tế (2012), Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội. Bộ Y tế, Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em tại gia đình, NXB. Y học, tr. 7-12, 93-119. Lý Thị Phương Hoa (2014), Kiến thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại phường Trần Hưng Đạo, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm 2012, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 10 - số 3 (2014). Lê Thị Hợp và ctv (2007), Mười lời khuyên dinh dưỡng hợp lý, Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm 3, tr.106-113. Hà Huy Khôi (2004), Dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm, nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2004, tr.10-12. Trần Thị Phúc Nguyệt (2014), Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Khánh Hà, Huyện Thường Tín, Hà Nội, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 10 - Số 3 (2014). Nguyễn Xuân Ninh, Hoàng Khải Lập và cộng sự (2004), Hiệu quả bổ sung bột dinh dưỡng - giàu vi chất trên trẻ nhỏ, Đề tài nhánh cấp nhà nước KC -10.05 giai đoạn 2000 - 2004, Viện Dinh dưỡng Hà Nội. Nguyễn Văn Thịnh (2013), Thực trạng công tác quản lý phòng chống SDD và tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng năm 2013, Luận văn Chuyên khoa II y học dự phòng, trường Đại học Y Hà Nội. Tổng cục Dân số- KHHGĐ (2006), Một số vấn đề sức khỏe ở Tây Nguyên năm 2006. Tạp chí số 7 (tr. 28). Lê Danh Tuyên (2005), Đặc điểm dịch tể học và một số yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng thể thấp còi dưới 5 tuổi ở một số vùng sinh thái khác nhau ở nước ta hiện nay, Luận văn tiến sỹ khoa học chuyên ngành dịch tễ học, Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương. UNICEF (2010), Tracking progress on child and maternal nutrition. Viện Dinh dưỡng quốc gia (2012), Báo cáo tóm tắt tổng điều tra dinh dưỡng 2009- 2010, Hà Nội.
File đính kèm:
- thuc_trang_phong_suy_dinh_duong_cho_tre_tu_6_den_24_thang_cu.pdf