Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai

Kỹ năng thuyết trình là một trong

những kỹ năng rất cần thiết để đem lại

sự thành công cho mỗi người trong

công việc học tập, nghiên cứu cũng như

các hoạt động, giao tiếp xã hội. “Kỹ

năng thuyết trình gây được sự chú ý

trong giáo dục đại học và kinh doanh, vì

nó chính là một trong các năng lực cốt

lõi của một chuyên gia” [1].

Công trình của Lytaeva, M. A., và

Talalakina, E. V. [2] đã chỉ ra rằng kỹ

năng thuyết trình cần có sự kết hợp việc

đọc, viết và trình bày một cách khoa

học. Trước tiên, sinh viên cần phải có

kỹ năng đọc như lựa chọn thông tin và

giải thích thông tin một cách tường

minh. Tiếp theo, khi viết, sinh viên có

kỹ năng xử lý thông tin, ghi chép, tổng

hợp và khái quát. Sau khi làm chủ được

hai giai đoạn đầu tiên, sinh viên có thể

học cách trình bày kết quả bài viết của

mình bằng miệng. Kỹ năng thuyết trình

là sự kết hợp của kỹ năng ngôn ngữ, kỹ

năng lập luận và kỹ năng trình bày. Do

đó, qua việc rèn luyện kỹ năng này sinh

viên sẽ có khả năng tư duy logic, lập

luận chặt chẽ, tổng hợp, khái quát vấn

đề và sáng tạo. Rèn cho sinh viên có

khả năng nói lưu loát, thuyết phục và tự

tin. Công trình của De Grez, L., Valcke,

M., và Roozen, I. [3] nghiên cứu các

cách thức và phương pháp giảng dạy

nhằm phát triển kỹ năng thuyết trình

cho sinh viên bằng cách phát triển các

kỹ năng phản xạ trong môi trường học

tập trực tuyến, thiết kế và phát triển các

bài giảng đa phương tiện chuẩn, các

hoạt động thực tế và các phản hồi của

sinh viên.

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 1

Trang 1

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 2

Trang 2

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 3

Trang 3

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 4

Trang 4

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 5

Trang 5

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 6

Trang 6

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 9680
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai

Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
9 
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH CỦA 
SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI 
Nguyễn Thị Thu Trang1 
TÓM TẮT 
Kỹ năng thuyết trình là một trong những kỹ năng cần thiết của sinh viên nói 
chung và đối với sinh viên sư phạm nói riêng. Theo kết quả điều tra 200 sinh viên 
K42 của khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non trường Đại học Đồng Nai cho thấy kỹ 
năng thuyết trình của sinh viên ở mức độ trung bình và yếu. Nguyên nhân chủ yếu là 
do bản thân sinh viên chưa tích cực, chủ động trong việc rèn luyện kỹ năng này. 
Từ khóa: Sinh viên, thuyết trình, kỹ năng thuyết trình, rèn luyện kỹ năng 
thuyết trình 
1. Đặt vấn đề 
Kỹ năng thuyết trình là một trong 
những kỹ năng rất cần thiết để đem lại 
sự thành công cho mỗi người trong 
công việc học tập, nghiên cứu cũng như 
các hoạt động, giao tiếp xã hội. “Kỹ 
năng thuyết trình gây được sự chú ý 
trong giáo dục đại học và kinh doanh, vì 
nó chính là một trong các năng lực cốt 
lõi của một chuyên gia” [1]. 
Công trình của Lytaeva, M. A., và 
Talalakina, E. V. [2] đã chỉ ra rằng kỹ 
năng thuyết trình cần có sự kết hợp việc 
đọc, viết và trình bày một cách khoa 
học. Trước tiên, sinh viên cần phải có 
kỹ năng đọc như lựa chọn thông tin và 
giải thích thông tin một cách tường 
minh. Tiếp theo, khi viết, sinh viên có 
kỹ năng xử lý thông tin, ghi chép, tổng 
hợp và khái quát. Sau khi làm chủ được 
hai giai đoạn đầu tiên, sinh viên có thể 
học cách trình bày kết quả bài viết của 
mình bằng miệng. Kỹ năng thuyết trình 
là sự kết hợp của kỹ năng ngôn ngữ, kỹ 
năng lập luận và kỹ năng trình bày. Do 
đó, qua việc rèn luyện kỹ năng này sinh 
viên sẽ có khả năng tư duy logic, lập 
luận chặt chẽ, tổng hợp, khái quát vấn 
đề và sáng tạo. Rèn cho sinh viên có 
khả năng nói lưu loát, thuyết phục và tự 
tin. Công trình của De Grez, L., Valcke, 
M., và Roozen, I. [3] nghiên cứu các 
cách thức và phương pháp giảng dạy 
nhằm phát triển kỹ năng thuyết trình 
cho sinh viên bằng cách phát triển các 
kỹ năng phản xạ trong môi trường học 
tập trực tuyến, thiết kế và phát triển các 
bài giảng đa phương tiện chuẩn, các 
hoạt động thực tế và các phản hồi của 
sinh viên. 
Nghiên cứu của Hu nh Văn Sơn 
(2012) [4] đã đề cập đến thực trạng kỹ 
năng mềm của sinh viên đại học sư 
phạm. Nghiên cứu đã chỉ ra 20 kỹ năng 
mềm, như: kỹ năng tự đánh giá, kỹ 
năng hoạch định mục tiêu cuộc đời, kỹ 
năng thuyết trình Kết quả cho thấy 
sinh viên khá thuần thục ở một vài kỹ 
năng nhưng đa phần sinh viên còn khó 
khăn, lúng túng khi thực hành các kỹ 
năng mềm. Nghiên cứu đã chỉ ra kỹ 
năng cần thiết trong quá trình thuyết 
trình đó là kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tổ 
chức: n m rõ cấu trúc của một bài 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: thutrang.everlasting@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
10 
thuyết trình để tổ chức s p xếp một bài 
thuyết trình logic, rõ ràng và mang tính 
thuyết phục cao; tư duy phản biện, khả 
năng thiết kế và sử dụng những dụng cụ 
trực quan hỗ trợ cho bài thuyết trình; 
khả năng sử dụng ngôn ngữ hình thể 
trong khi thuyết trình. Đặc biệt nghiên 
cứu đã chỉ ra những lỗi mà sinh viên 
thường m c phải khi thuyết trình đó là: 
tổ chức một bài thuyết trình; thiết kế và 
sử dụng dụng cụ trực quan hỗ trợ cho 
bài thuyết trình và khả năng sử dụng 
ngôn ngữ hình thể còn rất hạn chế. 
Như vậy, các nghiên cứu trên đã đề 
cập đến kỹ năng thuyết trình nhưng 
chưa đưa ra được những tiêu chí cụ thể 
để đánh giá. Trong bài viết này, chúng 
tôi nghiên cứu các tiêu chí trong kỹ 
năng thuyết trình và mức độ đạt được 
các tiêu chí đó ở sinh viên. Mẫu nghiên 
cứu là 200 sinh viên K42 của khoa Sư 
phạm Tiểu học - Mầm non trường Đại 
học Đồng Nai. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy mức độ đạt được các tiêu chí trong 
kỹ năng thuyết trình của sinh viên sư 
phạm trường Đại học Đồng Nai còn 
yếu. Đa phần sinh viên chưa tự tin khi 
thuyết trình. Ngôn ngữ trình bày không 
có điểm nhấn, thiếu tính thuyết phục. 
Trên cơ sở những hạn chế trên, chúng 
tôi đưa ra những biện pháp hợp lý và 
khả thi giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng 
thuyết trình một cách tốt nhất. 
2. Nội dung 
2.1. Nhận thức của sinh viên về 
vai trò của việc rèn luyện kỹ năng 
thuyết trình 
Với nội dung này, sinh viên đã 
nhận thức được ý nghĩa quan trọng và 
cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng 
thuyết trình. Kết quả được thể hiện ở 
bảng 1. 
Bảng 1: Nhận thức của sinh viên về vai trò của việc rèn luyện kỹ năng thuyết trình 
STT Nhận thức của sinh viên về vai 
trò của kỹ năng thuyết trình 
Tổng số 
Số lượng % 
1 Rất cần thiết 160 80 
2 Cần thiết 40 20 
3 Ít cần thiết 0 0 
4 Không cần thiết 0 0 
Qua kết quả ở bảng trên cho thấy: 
Tất cả sinh viên đều nhận thức được sự 
cần thiết của kỹ năng thuyết trình. 
Trong đó có 80% sinh viên cho rằng là 
rất cần thiết, còn lại là 20% sinh viên 
cho rằng cần thiết. Qua trao đổi, sinh 
viên Nguyễn Văn Q. cho biết: “Kỹ năng 
này rất cần thiết với em, vì nếu em có 
được kỹ năng này thì em sẽ tự tin đứng 
trước bạn bè để nói, không còn ngại 
ngùng, xấu hổ nữa”. Còn sinh viên 
Nguyễn Thu L. cho rằng: “Sau này trở 
thành một giáo viên, kỹ năng thuyết 
trình sẽ giúp cho người giáo viên giảng 
bài hay hơn và hấp dẫn hơn”. Như vậy 
sự cần thiết của kỹ năng thuyết trình mà 
sinh viên đưa ra không chỉ giúp cho 
hoạt động giao tiếp mà còn giúp cho 
hoạt động giảng dạy sau này. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
11 
2.2. Mức độ kỹ năng thuyết trình 
của sinh viên trước khi rèn luyện 
Ở nội dung này, chúng tôi cho sinh 
viên tự đánh giá mức độ về kỹ năng 
thuyết trình của bản thân. Ngoài sự tự 
đánh giá của sinh viên, giáo viên đánh 
giá kỹ năng thuyết trình qua sản phẩm 
của sinh viên với các tiêu chí ở bảng 2. 
Bảng 2: Các tiêu chí đánh giá sản phẩm thuyết trình 
STT Nội dung, tiêu chí đánh giá sản phẩm Điểm tối 
đa 
Điểm 
thực tế 
1 Giới thiệu bản thân (họ tên, khóa/đơn vị) và chủ đề bài 
thi nói/thuyết trình 
10 
2 Nội dung bài thi nói/thuyết trình (có tính khoa học, giáo 
dục, cấu trúc logic, lập luận chặt chẽ) 
25 
3 Ngôn ngữ nói/thuyết trình (âm lượng, kiểm soát tốc độ, 
điểm nhấn, phát âm chuẩn) 
30 
4 Trang phục và ngôn ngữ cơ thể (ánh m t, cử chỉ, biểu lộ 
cảm xúc, sự di chuyển) 
25 
5 Phương pháp thuyết trình (kết hợp sử dụng phương tiện, 
hình ảnh...) 
10 
Tổng điểm (tính theo thang điểm 100, lấy tổng số điểm chia 
cho các nội dung và làm tròn đến hai số thập phân) 
100 
Kết quả tự đánh giá của sinh viên và đánh giá của giáo viên về kỹ năng thuyết 
trình được thể hiện ở bảng 3. 
Bảng 3: Mức độ kỹ năng thuyết trình của sinh viên trước khi rèn luyện 
STT Mức độ kỹ năng thuyết trình 
của sinh viên trước khi rèn 
luyện 
Sinh viên tự 
đánh giá 
Đánh giá của giáo 
viên 
SL % SL % 
1 Rất tốt 2 1,0 0 0,0 
2 Tốt 4 2,0 0 0,0 
3 Khá 42 21,0 35 17,5 
4 Trung bình 57 28,5 43 21,5 
5 Yếu 95 47,5 122 61,0 
Kết quả bảng 3 cho thấy, kỹ năng 
thuyết trình của sinh viên là chưa tốt. 
Tuy nhiên đánh giá về kỹ năng thuyết 
trình của sinh viên cao hơn so với đánh 
giá của giáo viên. Cụ thể: sinh viên tự 
đánh giá ở mức Rất tốt là 1,0%, còn 
giáo viên đánh giá là 0%; sinh viên tự 
đánh giá ở mức Tốt là 2,0%, còn giáo 
viên đánh giá là 0%; mức độ Khá sinh 
viên tự đánh giá là 21%, trong khi đó 
giáo viên đánh giá các em đạt ở mức 
này là 17,5%; đánh giá ở mức độ Trung 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
12 
bình thì sinh viên tự đánh giá là 28,5%, 
giáo viên đánh giá là 21,5%; và ở mức 
độ Yếu thì sinh viên tự đánh giá là 
47,5%, trong khi đó con số này ở giáo 
viên là khá cao 61,0%. Qua quan sát các 
em thuyết trình, chúng tôi nhận thấy đa 
phần các em còn yếu kỹ năng này. Nội 
dung thuyết trình thiếu sâu s c, khả 
năng lập luận chưa chặt chẽ và không 
gây ấn tượng, bài viết lan man, không 
có trọng tâm. Phong cách trình bày thì 
lúng túng, cứng nh c, thiếu tự tin. Ngôn 
ngữ chưa lưu loát, thiếu ngữ điệu, giọng 
đều đều, không có điểm nhấn. Thậm chí 
có em khi đứng lên thuyết trình chỉ đọc. 
Qua trao đổi, sinh viên Trần Ngọc H. 
cho biết: “Em chưa bao giờ đứng lên 
trước lớp để thuyết trình nên em run 
l m, không biết phải thể hiện như thế 
nào nữa”. Qua đây cho thấy, kỹ năng 
này của các em còn rất hạn chế. 
2.3. Mức độ biểu hiện các kỹ năng 
thuyết trình của sinh viên 
2.3.1. Mức độ đạt được các tiêu chí 
trong kỹ năng thuyết trình của sinh viên 
Ở nội dung này, chúng tôi đánh giá 
kỹ năng thuyết trình của sinh viên theo 
những tiêu chí như: nội dung thuyết 
trình, ngôn ngữ khi thuyết trình và 
phong cách khi thuyết trình. Kết quả 
được thể hiện ở bảng 4. 
Bảng 4: Mức độ đạt được các tiêu chí trong kỹ năng thuyết trình của sinh viên 
STT Các tiêu chí Mức độ 
Trung bình Thứ bậc 
1 Nội dung bài thuyết trình 2,61 2 
2 Ngôn ngữ thuyết trình 2,83 1 
3 Ngôn ngữ cơ thể 2,42 3 
4 Phương pháp và phương tiện 
thuyết trình 
2,38 4 
Kết quả bảng 4 cho thấy, mức độ 
đạt được các tiêu chí trong kỹ năng 
thuyết trình của sinh viên chỉ ở mức 
trung bình, xếp vị trí thứ 1 là Ngôn ngữ 
thuyết trình là cao hơn cả (ĐTB = 2,83), 
tiếp đó đến tiêu chí Nội dung bài thuyết 
trình với ĐTB = 2,61, xếp ở vị trí thứ 3 
là Ngôn ngữ cơ thể với điểm TB = 2,42 
và cuối cùng là Phương pháp và phương 
tiện thuyết trình với ĐTB = 2,38. Như 
vậy, với mức độ các tiêu chí của kỹ 
năng thuyết trình ở trên sinh viên cần 
phải tích cực rèn luyện mới có thể viết 
tốt và nói thuyết phục được. 
2.3.2. Mức độ biểu hiện các tiêu chí 
trong kỹ năng thuyết trình của sinh viên 
Ở nội dung này, chúng tôi đánh giá 
các mức độ biểu hiện về kỹ năng thuyết 
trình trong từng tiêu chí. Kết quả được 
thể hiện ở bảng 5. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
13 
Bảng 5: Mức độ biểu hiện các tiêu chí trong kỹ năng thuyết trình của sinh viên 
 Mức độ 
Các biểu hiện 
Mức độ 
Tổng 
điểm 
Trung 
bình 
Thứ 
bậc 
1. Nội dung bài thuyết trình 
1.1. Chủ đề phù hợp, mang tính thực tiễn cao 300 3,00 1 
1.2. Đặt vấn đề hay, hấp dẫn, gây ấn tượng 232 2,32 16 
1.3. Lập luận chặt chẽ, logic 251 2,51 9 
1.4. Phong phú, sáng tạo 252 2,52 8 
1.5. Thể hiện tính giáo dục 258 2,58 5 
1.6. Đưa ra được nhiều minh hoạ thuyết phục 293 2,93 2 
1.7. Đưa ra được thông điệp của chủ đề 255 2,55 6 
2. Ngôn ngữ thuyết trình 
2.1. Phát âm chuẩn 347 3,47 11 
2.2. Rõ ràng, lưu loát 348 3,48 10 
2.3. Ngữ điệu trầm bổng theo nội dung thuyết trình 232 2,32 16 
2.4. Biết nhấn mạnh những điểm quan trọng 240 2,40 15 
2.5. Âm lượng phù hợp với nội dung thuyết trình 269 2,69 3 
2.6. Tốc độ nói phù hợp 341 3,41 15 
3. Ngôn ngữ cơ thể 
3.1. Ánh m t bao quát khán giả tốt 253 2,53 7 
3.2. Sử dụng cử chỉ tay, chân hợp lý 252 2,52 8 
3.3. Sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp 244 2,44 12 
3.4. Khuôn mặt tươi t n khi thuyết trình 236 2,36 13 
3.5. Cảm xúc phù hợp với nội dung thuyết trình 241 2,41 14 
3.6. Linh hoạt di chuyển khi thuyết trình 224 2,24 18 
4. Phương pháp và phương tiện thuyết trình 
4.1. Tự tin khi thuyết trình 236 2,36 13 
4.2. Phối hợp linh hoạt giữa ngôn ngữ nói và phi ngôn ngữ 228 2,28 17 
4.3. Biết tương tác với người nghe bằng những câu hỏi 261 2,61 4 
4.4. Phối hợp linh hoạt các phương pháp và phương tiện 228 2,28 17 
Về nội dung thuyết trình, kết quả ở 
bảng 5 cho thấy: Thứ nhất, việc chọn 
chủ đề thuyết trình đối với sinh viên là 
không khó (ĐTB = 3,0), đa phần sinh 
viên lựa chọn những vấn đề mang tính 
thời sự, nóng hổi hoặc những chủ đề 
g n liền với niềm đam mê, yêu thích 
của các em như: Bạo lực học đường, 
tình yêu tuổi học trò, bệnh vô cảm 
Thứ hai, khả năng đặt vấn đề của 
sinh viên không tốt, không gây được ấn 
tượng, không gây được sự chú ý của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
14 
người nghe (ĐTB=2,33). Có những sinh 
viên lúng túng không biết đặt vấn đề 
như thế nào, chỉ viết đúng được một câu 
về chủ đề cần trình bày, mở bài chưa 
thâu tóm được nội dung bài. 
Thứ ba, khả năng lập luận, giải 
quyết vấn đề thiếu tính logic, chặt chẽ 
(ĐTB=2,51). Qua quá trình quan sát, 
chúng tôi nhận thấy sinh viên nghĩ được 
câu gì thì viết câu đó, chưa biết cách 
viết và giải quyết một vấn đề như thế 
nào cho phù hợp. Nội dung bài thuyết 
trình thường thiếu tính chặt chẽ và 
thuyết phục. Sinh viên thường không 
biết viết ý khái quát, mổ xẻ những ý 
nhỏ và phân tích sâu s c vấn đề. 
Thứ tư, yêu cầu về sự phong phú, 
sáng tạo của nội dung (ĐTB=,93). Một 
bài viết vừa ng n gọn, vừa đầy đủ về 
nội dung lại còn phải sáng tạo thì điều 
này rất khó đối với sinh viên, chính vì 
yêu cầu như vậy nên đa phần sinh viên 
không đáp ứng được yêu cầu này. 
Phần kết cũng có tầm quan trọng 
không kém, một bài thuyết trình hay và 
hấp dẫn được thể hiện từ lúc mở đầu 
cho đến kết luận. Dù nội dung hay đến 
đâu mà phần kết không gây được ấn 
tượng thì toàn bộ bài viết sẽ trở nên vô 
nghĩa. Chúng tôi thường yêu cầu các em 
đưa ra thông điệp cuối cùng cho chủ đề, 
tuy nhiên hầu hết sinh viên chưa làm 
được, các em chỉ viết được một vài câu 
kết luận. Như vậy, có thể thấy rằng khả 
năng viết của sinh viên còn rất hạn chế. 
Qua quan sát quá trình rèn kỹ năng 
thuyết trình cho sinh viên, qua những 
nội dung mà các em đã viết, chúng tôi 
nhận thấy rằng hiểu biết về xã hội của 
các em còn rất nhiều hạn chế. 
Về ngôn ngữ trình bày, kết quả ở 
bảng 5 cho thấy, ngoài việc phát âm 
chuẩn, âm lượng đạt ở mức độ trên 
trung bình, còn lại các biểu hiện khác 
đều ở mức độ thấp. Cụ thể như sau: 
Phát âm chuẩn (ĐTB = 3,47), ở 
biểu hiện này thì đa phần sinh viên phát 
âm đúng, tuy nhiên vẫn có một số em 
nói ngọng đặc biệt là ngọng giữa “n” và 
“l”, một số em phát âm theo vùng, miền 
nên đôi khi tiếng không tròn, không rõ. 
Âm lượng phù hợp (ĐTB= 2,69), 
hơn một nửa sinh viên được điều tra đã 
đạt được mức độ phù hợp, không to quá 
mà cũng không nhỏ quá. Số sinh viên 
còn lại thì thuyết trình với giọng nói 
nhỏ. Qua quan sát và rèn luyện cho sinh 
viên, chúng tôi thấy có những em nói 
nhỏ, giáo viên thường xuyên phải nh c 
là cần phải nói to lên. Qua giọng nói 
cũng biết được mức độ tự tin của các 
em. Những em nói nhỏ là những em 
thiếu tự tin vào chính bản thân mình, 
vào bài thuyết trình của mình. 
Tốc độ nói phù hợp (ĐTB= 3,41). 
Đa phần sinh viên thực hiện tốc độ nói 
phù hợp, số sinh viên còn lại thường nói 
chậm, giống như giảng bài. Mặc dù vậy 
sinh viên chưa biết tốc độ chuẩn khi 
thuyết trình là như thế nào. Các em 
thường thuyết trình theo thói quen của 
bản thân, nói như thế nào thì thuyết 
trình như vậy. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
15 
Ngữ điệu trầm bổng (ĐTB=2,32), 
thể hiện sự lên cao hay xuống thấp của 
giọng nói. Khi sinh viên đứng lên 
thuyết trình, đa phần các em đọc hoặc 
học thuộc nội dung đã viết để trình bày 
lại nội dung đã nhớ được chứ không 
phải là thuyết trình. Giọng đều đều, 
những nội dung vui hoặc buồn hoặc thể 
hiện sự cấp thiết thì các em không thể 
hiện được thông qua giọng nói. 
Biết nhấn mạnh những điểm quan 
trọng (ĐTB=2,40). Như đã phân tích ở 
trên, sinh viên thể hiện bài thuyết trình 
với giọng đều đều, những nội dung nổi 
bật hoặc quan trọng thì sinh viên không 
diễn đạt được bằng ngôn ngữ của mình 
để người nghe thấy được tầm quan 
trọng của vấn đề. 
Thực trạng trên cho thấy sinh viên 
khi thuyết trình thiếu cảm xúc, do vậy 
không đem lại cảm hứng cho người 
nghe. Như vậy, ngôn ngữ nói có vai trò 
cực k quan trọng, là công cụ truyển tải 
thông tin, đồng thời là công cụ biểu 
cảm, gợi cảm. Sau này, các sinh viên sư 
phạm sẽ trở thành giáo viên, nếu sử 
dụng ngôn ngữ nói có hồn thì sẽ đem lại 
hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy. 
Về ngôn ngữ cử chỉ, hành vi, kết 
quả ở bảng 5 cho thấy, khả năng thể 
hiện cử chỉ phi ngôn ngữ của sinh viên 
còn rất hạn chế. Khả năng thể hiện cảm 
xúc, thái độ, phong thái khi thuyết trình 
còn ở mức độ thấp. Cụ thể: 
Ánh m t bao quát khán giả ở mức 
độ trung bình (ĐTB=2,53). Qua quan 
sát cho thấy, đa phần sinh viên khi đứng 
lên thuyết trình đều nhìn vào một điểm, 
ít có sự di chuyển ánh m t từ chỗ này 
sang chỗ khác. Có sinh viên khi thuyết 
trình thì cứ nhìn ra ngoài cửa sổ, do vậy 
không làm cho người nghe hứng thú. 
Sử dụng cử chỉ tay, chân (ĐTB=2,52) 
cũng ở mức độ trung bình. Khi thuyết 
trình, sinh viên đứng im một chỗ, từ lúc 
b t đầu cho đến khi kết thúc bài thuyết 
trình, tay buông thõng, hoặc lúng túng, 
không biểu đạt được nội dung thuyết 
trình. Sinh viên không biểu đạt được 
khi nào cần đưa tay lên cao hoặc hạ tay 
xuống hoặc di chuyển bước chân từ trái 
sang phải như thế nào cho hợp lý. Điều 
này cho thấy dù bài thuyết trình có hay 
đến mấy mà không thể hiện được qua 
ngôn ngữ cử chi thì cũng không hấp dẫn 
người nghe. 
Bên cạnh đó, s c thái khuôn mặt 
cũng rất quan trọng. Khi thuyết trình 
phải thể hiện được sự tươi t n trên 
khuôn mặt. Thể hiện được sự tự tin, bộc 
lộ được cảm xúc thông qua từng nội 
dung của bài thuyết trình. Tuy nhiên 
trong quá trình quan sát, chúng tôi nhận 
thấy sinh viên rất căng thẳng khi thuyết 
trình, vẻ mặt lo l ng, lúng túng. Khuôn 
mặt của sinh viên thể hiện sự căng 
thẳng, do vậy các em không thể hiện 
được những cảm xúc vui, buồn trong 
nội dung bài nói, bài thuyết trình thiếu 
sự sống động. 
Về phương pháp và phương tiện khi 
thuyết trình, sự thể hiện của sinh viên 
cũng chỉ ở mức độ thấp hoặc trung 
bình. Cụ thể: 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ky_nang_thuyet_trinh_cua_sinh_vien_su_pham_truong.pdf