Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội

Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đề ra. Cơ cấu NSNN

thường được thể hiện ở các góc độ khác nhau như:

Quy mô NSNN, cơ cấu các thành phần của thu, chi

ngân sách theo các tiêu chí nhất định; tương quan thu

– chi ngân sách và cơ cấu ngân sách theo phân cấp. Cơ

cấu NSNN cũng chịu sự chi phối của các nhân tố như:

Trình độ phát triển của đất nước; tổng sản phẩm quốc

nội bình quân đầu người; tỷ suất sinh lời của nền kinh

tế; tiềm năng của đất nước về tài nguyên thiên nhiên;

bộ máy nhà nước; hiệu quả hoạt động của bộ máy

nhà nước; thể chế chính trị; các vấn đề xã hội; giá cả,

lãi suất, tỷ giá hối đoái trong từng thời kỳ.

Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trang 1

Trang 1

Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trang 2

Trang 2

Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trang 3

Trang 3

Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trang 4

Trang 4

Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 8300
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội

Thực trạng cơ cấu ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
6CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH QUỐC GIA
bộ máy nhà nước; hiệu quả hoạt động của bộ máy 
nhà nước; thể chế chính trị; các vấn đề xã hội; giá cả, 
lãi suất, tỷ giá hối đoái trong từng thời kỳ. 
Bước chuyển biến trong cơ cấu thu, 
chi ngân sách nhà nước 
Trong những năm qua, cùng với quá trình đẩy 
mạnh đổi mới nền kinh tế đất nước, công tác quản lý 
thu, chi NSNN và cơ cấu lại ngân sách đã có những 
bước chuyển biến căn bản, hỗ trợ tích cực cho phát 
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu 
phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh hiện nay 
cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại NSNN theo định 
hướng sau:
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, đáp ứng yêu 
cầu đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, thời gian qua, 
công tác quản lý thu ngân sách và cơ cấu ngân sách 
đã được Bộ Tài chính triển khai quyết liệt với những 
bước tiến quan trọng. Cụ thể, giai đoạn 2011 - 2015, 
mặc dù thực hiện cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo 
cam kết hội nhập ASEAN, Liên minh châu Âu (EU), 
Hoa Kỳ, APEC, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), 
nhưng công tác thu vẫn có nhiều chuyển biến quan 
trọng, với việc tăng cường quản lý thu, đẩy mạnh 
chống thất thu, chống chuyển giá, xử lý nợ đọng thuế. 
Đặc biệt, từ năm 2013 đã thực hiện thu cổ tức được 
chia cho phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần 
và lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp 100% vốn nhà 
nước, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nên tổng 
thu NSNN tiếp tục tăng, gấp gần 2 lần so với giai 
đoạn 2006 - 2010, bình quân đạt 22,3% GDP, trong đó 
thu thuế và phí bình quân đạt khoảng 20,8% GDP, 
khá sát với mục tiêu đề ra trong Chiến lược Tài chính 
Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đề ra. Cơ cấu NSNN 
thường được thể hiện ở các góc độ khác nhau như: 
Quy mô NSNN, cơ cấu các thành phần của thu, chi 
ngân sách theo các tiêu chí nhất định; tương quan thu 
– chi ngân sách và cơ cấu ngân sách theo phân cấp. Cơ 
cấu NSNN cũng chịu sự chi phối của các nhân tố như: 
Trình độ phát triển của đất nước; tổng sản phẩm quốc 
nội bình quân đầu người; tỷ suất sinh lời của nền kinh 
tế; tiềm năng của đất nước về tài nguyên thiên nhiên; 
THỰC TRẠNG CƠ CẤU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
ThS. NGUYỄN MINH TÂN - Vụ Ngân sách nhà nước (Bộ Tài chính) *
Trong những năm qua, cùng với quá trình đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế đất nước, công tác quản 
lý thu, chi ngân sách nhà nước và cơ cấu lại ngân sách đã có những bước chuyển biến căn bản, hỗ 
trợ tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết đánh giá thực trạng cơ cấu lại ngân sách nhà 
nước ở Việt Nam thời gian qua, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cơ cấu ngân sách nhà 
nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội.
Từ khóa: Cơ cấu ngân sách nhà nước, kinh tế - xã hội, kiểm soát chi, nợ công, ổn định vĩ mô
THE SITUATION OF STATE BUDGET STRUCTURE FOR 
ECONOMIC AND SOCIAL DEVELOPMENT
Nguyen Minh Tan - Vice Director of State Budget 
Department (MOF)
In the process of contemporary post-crisis and 
comprehensive integration, restructuring state 
budget for social and economic development 
has become essential not only to ensure state 
revenue and expenditure, rational state budget 
balancing, macroeconomic stability but also 
to create powerful fiscal policy to direct the 
economy. This paper evaluates the practice of 
state budget restructure and the initial results as 
well as suggests solutions to strengthen budget 
structure for social and economic development.
Keywords: State budget structure, social and economic, 
expenditure control, public debt, macroeconomic stability
Ngày nhận bài: 8/2/2019 
Ngày hoàn thiện biên tập: 28/2/2019
Ngày duyệt đăng: 4/3/2019 
Email: nguyenminhtan@mof.gov.vn
TÀI CHÍNH - Tháng 03/2019
7
(không quá 22-23% GDP). 
Thu NSNN năm 2016-2017 bình quân đạt trên 22% 
GDP, trong đó thu từ thuế, phí đạt trên 20% GDP. 
Năm 2018, thu cân đối NSNN ước đạt 1.422,7 nghìn 
tỷ đồng, vượt 103,5 nghìn tỷ đồng (+7,8%) so với dự 
toán, tăng 64,3 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc 
hội, tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 25,7% GDP, riêng 
thuế, phí là 21,1% GDP (mục tiêu giai đoạn 2016-2020 
tương ứng là 23,5% GDP và 21% GDP).
 Thực tế số thu NSNN qua các năm cho thấy, cơ 
cấu thu ngân sách ngày càng vững chắc hơn, phù 
hợp với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội 
nhập; tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN ngày 
càng cao; tỷ trọng thuế gián thu trong tổng số thu thuế 
và phí ngày càng tăng, tỷ trọng thuế trực thu (chủ 
yếu gồm thuế thu nhập doanh nghiệp và thu nhập cá 
nhân) giảm dần, phù hợp với chủ trương giảm động 
viên, tăng tích tụ vốn; tỷ trọng các sắc thuế, khoản thu 
thường xuyên ngày càng tăng, trong khi đó các khoản 
thu một lần giảm. Xét theo phân cấp ngân sách, thu 
ngân sách địa phương (NSĐP) có xu hướng tăng cả 
về quy mô và tỷ trọng, vai trò chủ đạ ... lạm phát. Trên cơ sở đó, cơ cấu chi NSNN chuyển 
dịch bám sát chủ trương, định hướng tái cơ cấu nền 
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giảm tỷ 
trọng chi đầu tư phát triển, tăng chi con người, chi 
phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y 
HÌNH 1: THU, CHI NSNN VÀ TỐC ĐỘ TĂNG THU, CHI NSNN 
GIAI ĐOẠN 2012-2017
Nguồn: Bộ Tài chính
HÌNH 2: QUY MÔ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC/GDP 
(theo giá hiện hành)
Nguồn: Bộ Tài chính
Bộ Tài chính đã thực hiện tái cấu trúc một bước 
chi ngân sách tăng hợp lý chi đầu tư. Cụ thể, 
giai đoạn 2016-2018 tăng tỷ trọng chi đầu tư 
phát triển (dự toán đã tăng trên 26%, thực hiện 
đạt 27 - 28%), giảm tỷ trọng chi thường xuyên 
(dự toán khoảng 64%, thực hiện đạt 62 - 63%).
8CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH QUỐC GIA
tế, bảo vệ môi trường... 
Bên cạnh đó, tỷ trọng chi đầu tư phát triển bố trí 
trong dự toán chi NSNN giai đoạn 2011 - 2015 giảm, 
bình quân khoảng 18% tổng dự toán chi NSNN, thấp 
hơn so với 24,4% của giai đoạn 2006 - 2010; tỷ trọng 
chi thường xuyên đã tăng và tập trung nhiều hơn cho 
phát triển con người, nhất là phát triển hệ thống an 
sinh xã hội. 
Với chủ trương cơ cấu lại ngân sách, tăng hợp lý 
chi đầu tư. Bộ Tài chính đã thực hiện tái cấu trúc một 
bước chi ngân sách. Cụ thể, giai đoạn 2016-2018 tăng 
tỷ trọng chi đầu tư phát triển (dự toán đã tăng trên 
26%, thực hiện đạt 27 - 28%), giảm tỷ trọng chi thường 
xuyên (dự toán khoảng 64%, thực hiện đạt 62 - 63%); 
thực hiện cải cách tiền lương hàng năm tăng 7%/năm 
theo nghị quyết của Quốc hội; bảo đảm các nhiệm vụ 
chi quốc phòng - an ninh, an sinh xã hội...
Việc đẩy mạnh phân cấp chi ngân sách trong thời 
gian qua góp phần tích cực vào các mục tiêu phát 
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với cơ chế trao cho 
địa phương quyền phân cấp trên địa bàn, phân bổ chi 
ngân sách, triển khai các nhiệm vụ chi ngân sách gắn 
với nhu cầu công chúng trên địa bàn cũng đã từng 
bước tăng cường hiệu quả, hiệu lực chi ngân sách gắn 
với đặc thù kinh tế - xã hội địa bàn, tạo động lực để 
thực hiện công khai, minh bạch và giám sát ngân sách 
của các tổ chức, cộng đồng địa phương; nâng cao hiệu 
quả chi ngân sách. Tỷ trọng chi ngân sách địa phương 
cũng đã tăng từ 49,2% bình quân giai đoạn 2006 - 
2010 lên 54,1% bình quân giai đoạn 2011-2015 và tiếp 
tục tăng lên 54,2% vào năm 2016.
Những vấn đề đặt ra 
đối với cơ cấu lại ngân sách nhà nước
Bên cạnh những kết quả đạt được trong cơ cấu 
NSNN, thực tế cho thấy, vấn đề cơ cấu NSNN vẫn 
còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, cơ cấu NSNN thời gian qua là một trong 
những yếu tố dẫn tới hạn chế về năng lực cạnh tranh 
quốc gia.
Báo cáo thường niên về năng lực cạnh tranh toàn 
cầu (2017 - 2018) được công bố tại Diễn đàn Kinh tế 
Thế giới (WEF) , mặc dù vị thế của Việt Nam đã có 
nhiều cải thiện, nhưng so về mức độ và thứ hạng 
cải thiện thì Việt Nam chỉ trên Lào, Campuchia và 
Philippines. Môi trường kinh doanh của Việt Nam 
còn nhiều hạn chế, chủ yếu là: Tiếp cận tài chính; Chất 
lượng nguồn nhân lực, vấn đề tham nhũng, đạo đức 
nghề nghiệp, quy định về thuế, cơ sở hạ tầng
Thứ hai, cơ cấu NSNN tác động tiêu cực tới phát 
triển kinh tế - xã hội. 
Cơ cấu thu mặc dù đã hoàn thiện đáng kể, tuy nhiên 
trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, 
các hạn chế ngày càng bộc lộ và tác động không nhỏ 
tới phát triển kinh tế - xã hội. Quy mô thu ngân sách có 
xu hướng giảm dần, trong khi nhu cầu chi vẫn rất lớn, 
dẫn tới cân đối thu - chi NSNN ngày càng căng thẳng.
Mặc dù, cơ cấu thu ngân sách được đa dạng hóa, 
nhưng còn thiếu một số khoản thu quan trọng trong 
hệ thống thu như: Thuế tài sản, các khoản phí dịch 
vụ đô thị, các khoản thu do chênh lệch giá gắn với 
phát triển hạ tầng... Thêm vào đó, cơ cấu thu theo 
phân cấp còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, 
chưa gắn được quyền hạn với trách nhiệm của cấp 
chính quyền địa phương (theo nguyên tác nên gắn 
thu trên địa bàn với chi trên địa bàn để tăng cường 
trách nhiệm giải trình, hiệu qủa, hiệu lực của các 
quyết định thu – chi). 
Thứ ba, cơ cấu chi ngân sách theo phân cấp quản 
lý còn bất cập.
Tỷ trọng các khoản chi trực tiếp của NSTW có xu 
hướng giảm nhanh, ảnh hưởng tới nguyên tắc hiến 
định về vai trò chủ đạo của NSTW. Đây cũng là một 
nguyên nhân dẫn đến đầu tư phân tán, hiệu quả chưa 
cao; hạn chế khả năng đầu tư dứt điểm các công 
trình trọng yếu. Bên cạnh đó, tăng cường tỷ trọng chi 
NSNN cho địa phương, đặc biệt là chi đầu tư cũng 
tiềm ẩn những tác động không thuận tới tính ổn định, 
bền vững của NSNN và hiệu quả điều tiết vĩ mô. 
Phân cấp chi ngân sách còn có tính chất phân chia 
đồng đều nhiệm vụ giữa các địa phương có quy mô, 
đặc thù kinh tế - chính trị - xã hội rất khác nhau, dẫn 
tới phân tán nguồn ngân sách, hạn chế hiệu quả chi 
ngân sách và cũng là một trong những nguyên nhân 
HÌNH 3: DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2019 
Nguồn: Nghị quyết số 70/2018/QH14
TÀI CHÍNH - Tháng 03/2019
9
dẫn tới các quyết định chi tiêu có tính chất phong trào 
thời gian qua.
Tổng chi ngân sách 2 năm (2016 - 2017) đạt khoảng 
35 - 36% kế hoạch, đây cũng là mức tương đối thấp. 
Trong khi, bội chi NSNN bình quân 2 năm 2016 và 
2017 là trên 4,2% GDP, nên cần phải giảm dần bội 
trong những năm tới để thực hiện mục tiêu bình quân 
của giai đoạn là 3,9%, dẫn tới khả năng tăng chi để hỗ 
trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu chi đầu tư – thường xuyên còn bất cập. 
Xét theo nội dung, thì chi lương, các khoản có tính 
chất lương và chi thực hiện chính sách an sinh xã hội 
chiếm trên 60% tổng chi thường xuyên, bình quân 
khoảng 35-37% tổng chi ngân sách giai đoạn 2011-
2015. Đây là con số khá cao so với mức bình quân 
chung so với các nền kinh tế mới nổi (chi lương của 
các nước này năm 2015 bình quân chiếm 27,2% tổng 
chi ngân sách). 
Mặt khác, xét theo lĩnh vực cho thấy, chi các lĩnh 
vực giáo dục - đào tạo (khoảng 20-21%); chi lĩnh vực 
y tế và đảm chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Tài 
chính tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế tài chính 
ngân sách theo cơ chế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa; thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tự chủ đối 
với các đơn vị sự nghiệp công lập theo lộ trình tính 
đúng, tính đủ chi phí vào giá, phí dịch vụ sự nghiệp 
công; đổi mới kiểm soát chi, đơn giản hóa hồ sơ, rút 
ngắn thời gian xử lý, mở rộng thanh toán không dùng 
tiền mặt; triển khai các kế hoạch tài chính 5 năm, kế 
hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm và các kế hoạch 
tài chính - ngân sách 3 năm nhằm từng bước kiểm 
soát nhu cầu chi trong phạm vi khả năng nguồn lực 
của nền kinh tế, chủ động kiểm soát bội chi, thực hiện 
việc phân bổ ngân sách gắn với các ưu tiên trung 
hạn của nền kinh tế; từng bước nghiên cứu triển khai 
quản lý ngân sách theo kết quả nhiệm vụ...
Tình trạng phân bổ, giao vốn chậm, giải ngân 
không đạt dự toán, dẫn tới chuyển nguồn lớn; 
đầu tư phân tán, kéo dài, không dứt điểm vẫn diễn 
ra; số vốn bố trí đầu tư cho các công trình trọng 
điểm quốc gia, chương trình mục tiêu (là đối tượng 
ưu tiên) vẫn còn thấp. Kinh phí trung hạn bố trí cho 
các chương trình mục tiêu bình quân chỉ khoảng 
57% mức quy định tại Nghị quyết số 73/NQ-CP của 
Chính phủ và trong 03 năm (2016-2018), ngân sách 
trung ương mới bố trí được khoảng 35% mức kinh 
phí theo các quyết định phê duyệt của Thủ tướng 
Chính phủ và 27,7% theo Nghị quyết số 73/NQ-CP...
Thứ tư, cơ cấu NSNN tác động tiêu cực tới an ninh, 
an toàn tài chính quốc gia.
Mặc dù, các giới hạn nợ công nằm trong ngưỡng 
quy định, tuy nhiên, thị trường vốn trong nước chưa 
phát triển, ổn định vĩ mô chưa chắc chắn, sự phối hợp 
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chưa hiệu 
quả... Tình trạng này làm cho nợ công tăng nhanh, 
yêu cầu huy động vốn một số thời điểm đã vượt quá 
khả năng tác động tiêu cực tới việc huy động vốn của 
khu vực kinh tế, mặt bằng lãi suất, chi phí vốn của 
nền kinh tế. 
Thực tế trên, tiềm ẩn các nguy cơ tăng mạnh nợ 
công, gâp áp lực bội chi. Thu NSNN, đặc biệt là thu 
NSTW gặp khó khăn, trong khi nhu cầu chi ngày càng 
lớn; các khoản vay lại của Chính phủ và vay được 
Chính phủ bảo lãnh không hiệu quả, tạo gánh nặng 
chi trả nợ của Chính phủ... Ngoài ra, việc tốt nghiệp 
các khoản vay ưu đãi từ IDA cũng dẫn đến tình thế 
phải tăng huy động vốn vay thương mại theo điều 
kiện thị trường, theo đó rủi ro về tỷ giá và lãi suất 
cũng sẽ tăng lên. 
Giải pháp cơ cấu lại ngân sách hỗ trợ tăng trưởng, 
đảm bảo an ninh tài chính quốc gia
Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị 
quết số 07-NQ/TW về chủ chương, giải pháp cơ cấu 
lại ngân sách, nợ công; Quốc hội cũng đã ban hành 
Nghị quyết số 25/2016/QH14 về Kế hoạch tài chính 
05 năm quốc gia 2016 -2020 và Nghị quyết số 26/2016/
QH14 về Kế hoạch đầu tư công trung hạn 05 năm 
2016-2020, một mặt lành mạnh hóa nền tài chính quốc 
gia, mặt khác hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển 
kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020.
Thực tế cho thấy, việc thực hiện các mục tiêu trong 
2 năm 2016 - 2017 còn tương đối hạn chế so với các 
kế hoạch 5 năm. Vì vậy, hướng tới cơ cấu NSNN hiện 
đại, bền vững, cần đẩy mạnh các giải pháp thực hiện 
có hiệu quả các mục tiêu cơ cấu lại ngân sách giai 
đoạn 2016-2020. Nhằm tăng cường tính chủ động, 
linh hoạt của công cụ tài khóa, nâng cao năng lực 
cạnh tranh đẩy mạnh tái cơ cấu NSNN hướng đến 
bảo đảm an ninh tài chính quốc gia cần chú trọng 
những giải pháp sau:
HÌNH 4: QUY MÔ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC/GDP
Nguồn: Bộ Tài chính
10
CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH QUỐC GIA
Thứ nhất, về thu NSNN.
Khẩn trương hoàn thiện chính sách thu; mở rộng 
cơ sở thu ngân sách, tăng cường quản lý thu phù hợp; 
Tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách, đảm bảo việc 
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; Từng 
bước phát triển các nguồn thu phân cấp cho địa phương 
phù hợp với thông lệ, tăng cường gắn kết các nguồn thu 
phát sinh gắn với trách nhiệm chi của địa phương.
Thứ hai, điều chỉnh thuế suất.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các sắc thuế như: thuế 
giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu 
nhập doanh nghiệp. Cụ thể, về thuế GTGT, cần thu hẹp 
diện chịu thuế suất thuế GTGT 5%, để bảo đảm minh 
bạch, bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp và bình 
đẳng trong kinh doanh; Tiếp tục thu hẹp diện chịu thuế 
suất thuế GTGT 5%; Điều chỉnh tăng mức thuế suất 
thuế GTGT 10% phù hợp với thông lệ quốc tế.
Về thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt, cần điều chỉnh 
tăng đối với những mặt hàng không khuyến khích sử 
dụng như: Thuốc lá, rượu, bia. Về thuế suất thuế thu 
nhập doanh nghiệp (DN), cũng như nhiều quốc gia 
khác, tại Việt Nam, DN nhỏ và vừa (DNNVV) đóng 
vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội 
và chiếm tỷ lệ cao trong tổng số DN (97%-98%) và 
được xác định là “động lực tăng trưởng” và là “xương 
sống” của nền kinh tế. 
Thứ ba, về công tác quản lý thuế.
Thực hiện hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý 
thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính 
theo chuẩn mực quốc tế; ứng dụng công nghệ thông 
tin và áp dụng thuế điện tử để nâng cao hiệu lực, hiệu 
quả công tác quản lý thuế. Tăng cường công tác tuyên 
truyền, hỗ trợ và cung cấp dịch vụ cho đối tượng nộp 
thuế. Nâng cao năng lực hoạt động thanh tra, kiểm tra, 
giám sát tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế... 
Thứ tư, đổi mới quản lý chi NSNN. 
Đổi mới quản lý chi ngân sách theo cơ chế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu 
quả phân bổ, sử dụng NSNN thực hiện các ưu tiên 
chiến lược của nền kinh tế, cải thiện cân đối NSNN, 
giảm dần bội chi. Phân định rõ nội dung, phạm vi của 
Nhà nước và thị trường; giới hạn phạm vi chi NSNN 
ở các nội dung thị trường không hoạt động hoặc hoạt 
động không hiệu quả; rà soát lại phân cấp đầu tư giữa 
trung ương và địa phương đảm bảo phù hợp với các 
mục tiêu cơ cấu lại NSNN. 
Tăng quyền hạn, trách nhiệm trong công tác lập 
dự toán, quản lý và sử dụng NSNN của các cấp, các 
đơn vị sử dụng NSNN; đồng thời, với việc thúc đẩy 
công khai, minh bạch ngân sách, tăng cường trách 
nhiệm giải trình; mở rộng khoán chi, đặc biệt với cơ 
quan hành chính nhà nước, tạo áp lực thực hiện có 
hiệu quả kế hoạch tinh giản biên chế, hoàn thiện bộ 
máy, sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách; từng bước 
thực hiện quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện 
nhiệm vụ song song với tăng cường quản lý chuẩn 
mực, chất lượng dịch vụ.
Quản lý thống nhất lĩnh vực chi NSNN giữa chi 
đầu tư và chi thường xuyên ở các cấp ngân sách làm 
nền tảng gắn kết chi thường xuyên, chi đầu tư; cải 
thiện hiệu quả, hiệu lực phân bổ, sử dụng NSNN. 
Cùng với đó, nâng cao vai trò định hướng của nguồn 
lực tài chính nhà nước trong nền kinh tế, thu hút các 
nguồn vốn đầu tư của xã hội phù hợp với mục tiêu, 
định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, cơ cấu lại chi NSNN. 
Thực hiện cơ cấu lại chi NSNN theo hướng giảm 
tỷ trọng chi thường xuyên, tăng tỷ trọng chi đầu tư; tái 
cơ cấu chi đầu tư, chi thường xuyên gắn với việc nâng 
cao hiệu lực, hiệu quả chi tiêu ngân sách trong thực 
hiện chủ trương, định hướng, các mục tiêu phát triển 
kinh tế - xã hội; rà soát, hoàn thiện hệ thống an sinh xã 
hội, thực hiện lồng ghép giảm thiểu trùng lặp, chồng 
chéo, lãng phí, tăng cường minh bạch, hiệu quả; xây 
dựng lộ trình, quy mô phù hợp đối với từng nhóm 
chính sách để thực hiện cho giai đoạn 2016-2020... 
Ngoài việc cơ cấu lại quy mô chi thường xuyên của 
từng lĩnh vực, cần thực hiện cơ cấu lại nội bộ từng 
lĩnh vực, tập trung vào những khâu, dịch vụ trọng 
yếu; mở rộng xã hội hóa các khâu, dịch vụ còn lại. 
Chi lĩnh vực hành chính gắn với việc triển khai thực 
hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về sắp xếp lại bộ máy 
nhà nước, tính giản biên chế và Nghị quyết số 19-NQ/
TW về đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập; tăng cường 
hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà nước. 
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp tái cấu trúc 
NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững;
2. Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm 
2016 – 2020;
3. Nghị quyết số 51/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của 
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về chủ trương, 
giải pháp tái cấu trúc NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia 
an toàn, bền vững;
4. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược Tài chính đến năm 2020;
5. Thủ tướng Chính phủ (2011), Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 
2011 – 2020;
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Tài liệu Hội thảo “Giới và việc thực hiện các Mục 
tiêu phát triển thiên niên kỷ tại Việt Nam”;
7. Bộ Tài chính, số liệu quyết toán NSNN các năm 2006 – 2016;
8. Luật NSNN 2002, 2015 và các văn bản hướng dẫn;
9. Ngân hàng Thế giới (2016), các báo cáo đánh giá chi tiêu công Việt Nam 
năm 2016.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_co_cau_ngan_sach_nha_nuoc_ho_tro_phat_trien_kinh.pdf