Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020

Thói quen ăn uống dường như là một yếu tố quan trọng quyết định đến khẩu phần ăn và

do đó có thể ảnh hưởng đến thừa cân và béo phì. Hiểu được mối quan hệ giữa tình trạng dinh dưỡng

và thói quen ăn uống là cơ sở để đề xuất các biện pháp dự phòng và can thiệp hiệu quả với thừa cân,

béo phì ở vị thành niên. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích phân tích mối liên quan của một

số thói quen ăn uống với thừa cân, béo phì ở học sinh 11 - 14 tuổi tại 9 trường thuộc thành phố Hà

Nội giúp xây dựng mô hình dự đoán thừa cân, béo phì từ thói quen ăn uống. Nghiên cứu bệnh -

chứng thực hiện trên 222 vị thành niên thừa cân, béo phì và 616 vị thành niên có tình trạng dinh

dưỡng bình thường (theo tiêu chuẩn của Tổ chức phòng chống béo phì quốc tế (International Obesity

Taskforce, IOTF). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố bảo vệ bao gồm ăn bữa phụ; ăn bữa

phụ trước hoặc sau bữa chính ít nhất 2 giờ; sử dụng sữa và các sản phẩm từ sữa trong bữa phụ; thích

trái cây. Các yếu tố nguy cơ bao gồm thích thức ăn giàu chất béo, thích thức ăn ngọt, thích thức ăn

nhanh, thích nước ngọt có ga, không ăn sáng, ăn bữa phụ trước khi ngủ. Mô hình dự đoán thừa cân,

béo phì tốt nhất được xây dựng từ phân tích hồi quy logistic gồm 8 trong số các thói quen ăn uống

kể trên với giá trị AUC (Area Under the Curve) là 0,931. Như vậy, thói quen ăn uống có liên quan

chặt chẽ đến tình trạng thừa cân, béo phì ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội.

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 1

Trang 1

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 2

Trang 2

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 3

Trang 3

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 4

Trang 4

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 5

Trang 5

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 6

Trang 6

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 7

Trang 7

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 8

Trang 8

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 9

Trang 9

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang baonam 10680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020

Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: Nghiên cứu bệnh - Chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội năm 2020
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 90-101 
90 
Original Article 
Eating Habits Associated with Overweight and Obesity: 
A Case-control Study of 11-14 Year-old Adolescents in Hanoi 
Nguyen Thi Hong Hanh1,*, Than Thi Thu Hang2, Pham Hoang Lam2, 
 Duong Nam Khanh2, Do Hoang Ngoc Ha2 
1Hanoi National University of Education, 136, Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
2Nguyen Gia Thieu High School, 27 Ngoc Lam, Long Bien, Hanoi, Vietnam 
Received 27 October 2020 
Revised 03 December 2020; Accepted 04 February 2021 
Abtract: This study analyzes the association of eating habits with overweight and obesity among 
adolescents at the age of 11-14 from 9 junior high schools in Hanoi to help design a model for 
predicting overweight and obesity resulted from eating habits. A case-control study was conducted 
on 222 overweight/obese adolescents and 616 normal-weight adolescents (according to the 
International Obesity Taskforce Standards, IOTF). The research results show that protective factors 
of overweight and obesity include snacking (snacking at least 2 hours before or after a main meal), 
consumption of milk and dairy products in snacks, and sensory liking for fruit. Risk factors include 
sensory liking for: fat, sweet, fast food, carbonated soft drinks; skipping breakfast; and snacking 
before bed. The best predictive model of overweight and obesity is built from logistic regression 
analysis including 8 of the above eating habits with AUC (Area under the Curve) value of 0.931. 
The study concludes that eating habits are closely related to overweight and obesity among 11-14 
year-old adolescents in Hanoi. 
Keywords: Eating habits, overweight, obesity, adolescence, risk factor.*
________ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: honghanhnt111@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4280 
N.T.H. Hanh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 90-101 91 
Thói quen ăn uống liên quan đến thừa cân, béo phì: 
nghiên cứu bệnh - chứng ở vị thành niên 11 - 14 tuổi 
tại Hà Nội năm 2020 
Nguyễn Thị Hồng Hạnh1,*, Thân Thị Thu Hằng2, Phạm Hoàng Lâm2, 
Dương Nam Khánh2, Đỗ Hoàng Ngọc Hà2 
1Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 136, Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Gia Thiều, 27 Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 27 tháng 10 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 03 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 04 tháng 02 năm 2021 
Tóm tắt: Thói quen ăn uống dường như là một yếu tố quan trọng quyết định đến khẩu phần ăn và 
do đó có thể ảnh hưởng đến thừa cân và béo phì. Hiểu được mối quan hệ giữa tình trạng dinh dưỡng 
và thói quen ăn uống là cơ sở để đề xuất các biện pháp dự phòng và can thiệp hiệu quả với thừa cân, 
béo phì ở vị thành niên. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích phân tích mối liên quan của một 
số thói quen ăn uống với thừa cân, béo phì ở học sinh 11 - 14 tuổi tại 9 trường thuộc thành phố Hà 
Nội giúp xây dựng mô hình dự đoán thừa cân, béo phì từ thói quen ăn uống. Nghiên cứu bệnh - 
chứng thực hiện trên 222 vị thành niên thừa cân, béo phì và 616 vị thành niên có tình trạng dinh 
dưỡng bình thường (theo tiêu chuẩn của Tổ chức phòng chống béo phì quốc tế (International Obesity 
Taskforce, IOTF). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố bảo vệ bao gồm ăn bữa phụ; ăn bữa 
phụ trước hoặc sau bữa chính ít nhất 2 giờ; sử dụng sữa và các sản phẩm từ sữa trong bữa phụ; thích 
trái cây. Các yếu tố nguy cơ bao gồm thích thức ăn giàu chất béo, thích thức ăn ngọt, thích thức ăn 
nhanh, thích nước ngọt có ga, không ăn sáng, ăn bữa phụ trước khi ngủ. Mô hình dự đoán thừa cân, 
béo phì tốt nhất được xây dựng từ phân tích hồi quy logistic gồm 8 trong số các thói quen ăn uống 
kể trên với giá trị AUC (Area Under the Curve) là 0,931. Như vậy, thói quen ăn uống có liên quan 
chặt chẽ đến tình trạng thừa cân, béo phì ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội. 
Từ khóa: thói quen ăn uống, thừa cân, béo phì, vị thành niên, yếu tố nguy cơ. 
1. Mở đầu* 
Tình trạng thừa cân, béo phì ở lứa tuổi vị 
thành niên ngày một tăng nhanh dẫn đến những 
hậu quả nghiêm trọng về cả thể chất và tinh thần, 
tạo nên gánh nặng cho ngành y tế và xã hội [1]. 
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (World 
Health Organization, WHO) thì các chi phí trực 
tiếp cho điều trị béo phì chiếm tới 6,8% (hay 70 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: honghanhnt111@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4280 
tỉ đô la Mỹ) trong tổng chi phí cho chăm sóc sức 
khoẻ [2]. Béo phì làm tăng nguy cơ mắc các bệnh 
mạn tính không lây nguy hiểm như bệnh nội tiết, 
tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, tim mạch, ung 
thư, viêm xương khớp,... [3]. Bên cạnh đó, béo 
phì còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến 
dậy thì sớm, làm ngừng tăng trưởng chiều cao 
sớm đồng thời còn gây ra những ảnh hưởng nặng 
nề về tâm lý ở trẻ như tự ti, nhút nhát,  ...  0,931 
Chú thích: AUC: Area under the curve; X: Có 
Hình 2. Mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến các yếu tố liên quan đến thừa cân, béo phì ở vị thành niên 11 
- 14 tuổi tại Hà Nội sử dụng phương pháp backward liên tục. 
Hình 3. Biểu đồ đường cong ROC của mô hình dự đoán thừa cân, béo phì ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội. 
N.T.H. Hanh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 90-101 
98 
3.4.2. Mô hình dự đoán thừa cân, béo phì ở 
vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội 
Mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến 
theo phương pháp backward liên tục và biểu đồ 
đường cong ROC các yếu tố liên quan đến thừa 
cân, béo phì ở trẻ thể hiện ở Hình 2 và Hình 3. 
Khi đưa các biến liên quan đến thiếu cân vào mô 
hình backward liên tục, có 5 mô hình được lựa 
chọn để dự đoán nguy cơ thừa cân, béo phì ở trẻ 
với giá trị AUC dao động từ 0,931 - 0,935 với 
khả năng dự đoán ở mức rất tốt. Trong đó, mô 
hình thứ 5 có ít yếu tố nhất nhưng có giá trị AUC 
tương đương với các mô hình còn lại nên được 
chọn làm mô hình dự đoán thừa cân, béo phì từ 
yếu tố thói quen ăn uống và hoạt động thể lực ở 
trẻ 11 - 14 tuổi tại Hà Nội. 
4. Thảo luận 
Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng, ăn bữa 
phụ cũng như thời điểm và loại thực phẩm sử 
dụng trong bữa phụ có liên quan chặt chẽ đến 
thừa cân, béo phì ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại 
Hà Nội. Bữa phụ là cách gọi để phân biệt với 3 
bữa ăn chính trong ngày (bữa sáng, bữa trưa và 
bữa tối). Dù được gọi là bữa ăn phụ nhưng vai 
trò của các bữa ăn này có vai trò quan trọng đối 
với sự phát triển của trẻ em và vị thành niên. Vị 
thành niên có nhu cầu năng lượng xấp xỉ so với 
người lớn nhưng dung tích dạ dày lại nhỏ hơn. 
nên không thể ăn đủ lượng thức ăn so với nhu 
cầu năng lượng chỉ bằng 3 bữa ăn chính như 
người lớn. Đối với trẻ lứa tuổi học đường, ngoài 
3 bữa chính ăn trên lớp và cùng gia đình thì được 
khuyến nghị nên cho ăn thêm 1 - 2 bữa phụ/ngày 
giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. 
Bên cạnh đó, bữa ăn phụ không những giúp đa 
dạng hóa khẩu phần ăn, đảm bảo nguồn dinh 
dưỡng dồi dào cho trẻ mà còn tạo ra sự khác biệt 
về khẩu vị làm trẻ thấy ngon miệng. Một số 
nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc ăn thêm bữa phụ 
làm giảm nguy cơ mắc béo phì ở trẻ [13]. 
Bên cạnh đó, theo các chuyên gia dinh 
dưỡng, thời gian xen kẽ giữa các bữa chính và 
bữa phụ nên cách nhau khoảng 2 giờ [13]. Một 
số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thời điểm ăn, phân 
bổ thời gian cho các bữa ăn có liên quan chặt chẽ 
đến việc giảm cân nặng. Nghiên cứu trên 8.153 
người từ 40 - 54 tuổi cho thấy, ăn trước khi ngủ 
làm tăng nguy cơ béo phì lên 2,11 lần (95%CI = 
1,42-3,15) ở nam và 3,02 lần (95%CI = 1,72-
5,29) ở nữ [14]. 
Bữa phụ cần đảm bảo cân đối giữa 3 nhóm 
chất dinh dưỡng chính bao gồm đạm, béo, đường 
bột, đồng thời cần bổ sung vitamin và khoáng 
chất. Ngược lại, nếu cho trẻ ăn thêm bữa phụ 
không đúng cách như cho trẻ ăn quá nhiều thức 
ăn trong bữa phụ dẫn đến dư thừa năng lượng, 
cho trẻ ăn những thực phẩm ăn nhanh, thực phẩm 
chiên rán, sẽ làm tăng nguy cơ mắc béo phì 
[13]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò 
của sữa trong chế độ ăn giúp phát triển chiều cao 
và kiểm soát cân nặng, đặc biệt là đối với trẻ vị 
thành niên [15]. Nghiên cứu thuần tập (nghiên 
cứu theo thời gian) trên 50 trẻ không uống sữa 
và 200 trẻ uống sữa cho thấy, những trẻ không 
uống sữa có chiều cao thấp hơn, khung xương 
nhỏ hơn, hàm lượng khoáng chất trong xương 
thấp hơn và mật độ xương thấp hơn so với những 
trẻ cùng tuổi và giới tính trong cùng cộng đồng. 
Hơn nữa, những người trẻ không uống sữa có chỉ 
số BMI cao hơn [16]. 
Kết quả của ghiên cứu này còn tìm thấy mối 
liên quan mạnh giữa việc không ăn sáng với 
nguy cơ mắc thừa cân, béo phì ở vị thành niên. 
Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày 
do bữa sáng cung cấp năng lượng và những 
dưỡng chất cần thiết cho cơ thể sau khoảng thời 
gian dài (qua đêm), tạo năng lượng cho cơ thể 
hoạt động. Việc bỏ bữa sáng có thể làm giảm 
năng lượng cung cấp cho cơ thể trong ngày. Tuy 
nhiên, nếu bỏ bữa sáng nhưng tăng khẩu phần ăn 
của bữa trưa thì có thể làm tăng năng lượng cung 
cấp cho cơ thể. Theo nghiên cứu của Junior và cs 
(2012) trên trẻ 6 - 16 tuổi thừa cân béo phì, việc 
ăn đầy đủ bữa sáng làm giảm nguy cơ béo phì và 
rối loạn lipid máu [17]. 
Kết quả của nghiên cứu cũng đã chỉ ra sở 
thích ăn uống có liên quan đến thừa cân, béo phì 
ở vị thành niên 11 - 14 tuổi tại Hà Nội. Đặc điểm 
thích thức ăn nhanh, thức ăn giàu chất béo, thức 
ăn ngọt, nước ngọt có ga làm tăng nguy cơ thừa 
cân, béo phì. Thức ăn nhanh, thức ăn giàu chất 
N.T.H. Hanh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 90-101 
99 
béo, thức ăn ngọt chứa hàm lượng chất béo, 
đường cao, làm tăng cân. Đồng thời, chất béo 
(acid béo no) trong thức ăn nhanh còn nguy hại 
cho trẻ em và vị thành niên vì quy trình chế biến 
đồ ăn nhanh luôn thực hiện ở nhiệt độ cao khiến 
dầu chiên bị hydro hóa, sản sinh ra acid béo có 
hại. Phân tích tổng hợp từ 16 nghiên cứu (6 
nghiên cứu cắt ngang, 7 nghiên cứu thuần tập và 
3 thử nghiệm) đã chỉ ra tác động của việc tiêu thụ 
thức ăn nhanh ở vị thành niên làm tăng nguy cơ 
béo phì [18]. Nghiên cứu thuần tập trên 24.776 
người trưởng thành Pháp cũng cho thấy sở thích chất 
béo làm tăng nguy cơ béo phì (p < 0,001) ở cả hai 
giới trong khi cảm giác thích ăn ngọt làm giảm nguy 
cơ béo phì [19]. Các nghiên cứu thực nghiệm đã báo 
cáo không có sự khác biệt về mức độ thích thức 
ăn ngọt trên BMI hoặc thậm chí là mức độ thích 
thức ăn ngọt thấp hơn ở những người béo phì 
[7,15,18,19] và một nghiên cứu đã báo cáo mức 
độ thích thức ăn ngọt cao ở những người gầy 
nhưng không thích ở những người béo phì [20]. 
Các nghiên cứu về mối liên quan giữa sở thích 
ăn ngọt và béo phì vẫn còn nhiều tranh cãi. Sự 
khác biệt trong kết qủa có thể là do cảm giác 
thích ngọt thường thay đổi theo các kích thích 
nên các kiểu phản ứng liên quan đến thích ngọt 
riêng biệt được xác định ở những cá nhân khác 
nhau [20]. 
Bên cạnh đó, sở thích uống nước có ga làm 
tăng nguy cơ thừa cân, béo phì lên 1,5 lần (p = 
0,019). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh mối 
tương quan giữa sự gia tăng béo phì và việc tiêu 
thụ nước ngọt có ga. Nghiên cứu trên chuột đã 
chỉ ra rằng, những con chuột tiêu thụ đồ uống có 
ga trong 1 năm sẽ tăng cân với tốc độ nhanh hơn 
so với những con chuột uống nước máy thông 
thường. Điều này là do đồ uống có ga làm mức 
độ hormone ghrelin tăng cao (gấp hơn 20 lần) và 
do đó lượng thức ăn tiêu thụ ở chuột uống đồ 
uống này nhiều hơn so với chuột đối chứng [21]. 
Ngược lại, kết quả của nghiên cứu cho thấy 
những trẻ thích ăn trái cây có xu hướng giảm 
nguy cơ mắc thừa cân, béo phì. Trong trái cây có 
chứa lượng lớn chất xơ (polysaccharide). 
Polysaccharide hoạt động trong đường ruột làm 
giảm cholesterol máu bằng cách giảm hấp thu 
cholesterol, acid béo hoặc giảm hấp thu muối 
mật và acid mật, do đó làm giảm béo phì. Bên 
cạnh đó, hoa quả còn bổ sung vitamin, khoáng 
chất, acid folic, pectin, acid acetic có lợi cho sức 
khỏe giúp phòng chống nguy cơ mắc bệnh tim 
mạch. Theo nghiên cứu của Hung và cs (2004), 
ăn hoa quả làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch 
với OR = 0,87 (0,80 - 0,94). Trẻ thường xuyên 
ăn đồ ăn chiên rán và chế biến sẵn có nồng độ 
LDL-C và TG cao hơn so với những trẻ có chế 
độ ăn hợp lý, nhiều chất xơ, ít chất béo [20]. 
Từ những yếu tố này, mô hình dự đoán thừa 
cân, béo phì đã được xây dựng, sử dụng kĩ thuật 
ROC - là kĩ thuật được sử dụng rộng rãi trong 
các thử nghiệm chẩn đoán y sinh [10] nói chung 
và trong xây dựng mô hình dự đoán béo phì nói 
riêng [22]. Tuy nhiên, các biến đưa vào mô hình 
dự đoán còn ít, mới chỉ dừng lại ở phân tích các 
yếu tố về thói quen ăn uống. Do vậy, trong tương 
lai, nghiên cứu cần phân tích thêm các yếu tố 
hoạt động thể chất và lối sống để xây dựng các 
mô hình dự đoán thừa cân, béo phì ở vị thành 
niên chính xác hơn. 
5. Kết luận 
Các thói quen ăn uống liên quan đến thừa 
cân, béo phì bao gồm: 
- Các yếu tố bảo vệ: ăn bữa phụ; ăn bữa phụ 
trước hoặc sau bữa chính ít nhất 2 giờ; sử dụng 
sữa và các sản phẩm từ sữa trong bữa phụ; thích 
trái cây. 
- Các yếu tố nguy cơ: thích thức ăn giàu chất 
béo, thích thức ăn ngọt, thích thức ăn nhanh, 
thích nước ngọt có ga, không ăn sáng, ăn bữa phụ 
trước khi ngủ. 
Mô hình dự đoán thừa cân, béo phì gồm: 
thích thức ăn ngọt, thích thức ăn nhanh, thích ăn 
trái cây, không ăn sáng, có ăn bữa phụ, ăn bữa 
phụ trước khi ngủ, sử dụng sữa và các sản phẩm 
từ sữa trong bữa phụ với giá trị AUC là 0,931. 
Lời cảm ơn 
Đề tài được sự hỗ trợ của quý đồng nghiệp 
tại Viện Dinh dưỡng Quốc gia, giáo viên, phụ 
N.T.H. Hanh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 90-101 
100 
huynh và học sinh các trường THCS tham gia 
vào nghiên cứu. 
Tài liệu tham khảo 
[1] A.S. French, M. Story and C.L. Perry, Self-esteem 
and obesity in children and adolescents: a literature 
review, Obesity Research 3 (1995) 479-490. 
https://doi.org/10.1002/j.1550-8528.1995.tb00179.x 
[2] E.A. Finkelstein, C.J. Ruhm, and K.M. Kosa, 
Economic causes and consequences of obesity, 
Annual Review of Public Health 26 (2005) 239-257. 
https://doi.org/10.1146/annurev.publhealth.26.021
304.144628 
 
[3] N.T.H. Hanh, L.T. Tuyet, D.T.A. Dao, Y. Tao, and 
D.T. Chu, Childhood obesity is a high-risk factor 
for hypertriglyceridemia: a case-control study in 
Vietnam, Osong public health and research 
perspectives 8 (2017) 138-146. 
https://doi.org/10.24171/j.phrp.2017.8.2.06 
[4] J.K. Dibaise, and A.E. Foxx-Orenstein, Role of the 
gastroenterologist in managing obesity, Expert 
Review of Gastroenterology & Hepatology 
(Review) 7 (2013) 439-451 
https://doi.org/10.1586/17474124.2013.811061 
[5] P.V.N. Nguyen, T.K. Hong, T. Hoang, and A.R. 
Robert, High prevalence of overweight among 
adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam, BMC 
Public Health 13 (2013) 141-147. 
https://doi.org/10.1186/1471-2458-13-141 
[6] T.T.P. Pham, Y. Matsushita, L.T.K. Dinh, T.V. Do, 
T.T.T. Nguyen, A.T. Bui, A.Q. Nguyen, and H. 
Kajio, Prevalence and associated factors of 
overweight and obesity among schoolchildren in 
Hanoi, Vietnam, BMC public health 19 (2019) 1478-
1488. https://doi.org/10.1186/s12889-019-7823-9 
[7] H.D. Phan, T.N.P. Nguyen, P.L. Bui, T.T. Pham, T.V. 
Doan, D.T. Nguyen, and H.V. Minh, Overweight and 
obesity among Vietnamese school-aged children: 
National prevalence estimates based on the World 
Health Organization and International Obesity Task 
Force definition, PloS one 15 (2020) e0240459-
e0240478. 
https://doi.org/10.1371/journal.pone.0240459 
[8] M. Zalewska, and E. Maciorkowska, Selected 
nutritional habits of teenagers associated with 
overweight and obesity, PeerJ 5 (2017) e3681-
e3693. https://doi.org/10.7717/peerj.3681 
[9] K. Sygit, W. Kollataj, M. Gozdziewska, M. Sygit, 
B. Kollataj, and I.D. Karwat, Lifestyle as an 
important factor in control of overweight and 
obesity among schoolchildren from the rural 
environment, Annals of Agricultural and 
Environmental Medicine 19 (2012) 557-561. 
PMID: 23020056. 
https://journals.indexcopernicus.com/search/articl
e?articleId=2116928 
[10] N.V. Tuan, Evidence-Based Medicine, Medical 
publisher, Hanoi, 2008 (in Vietnamese). 
[11] T.J. Cole, M.C. Bellizzi, K.M. Flegal, and W.H. 
Dietz, Establishing a standard definition for child 
overweight and obesity worldwide: international 
survey, Bmj 320 (2000) 1240-1245. 
https://doi.org/10.1136/bmj.320.7244.1240 
[12] L.T. Hop và Huynh Phuong Nam, Assessment of 
nutritional status using anthropometric variables, 
Journal of Food and Nutrition Sciences 7 (2011) 1-
7 (in Vietnamese). 
[13] X. Guo, L. Zheng, Y. Li Y, S. Yu, G. Sun, H. Yang, 
X. Zhou, X. Zhang, Z. Sun, and Y. Sun, 
Differences in lifestyle behaviors, dietary habits, 
and familial factors among normal-weight, 
overweight, and obese Chinese children and 
adolescents, International Journal of Behavioral 
Nutrition and Physical Activity 9 (2012) 120-128. 
https://doi.org/10.1186/1479-5868-9-120 
[14] J. Yoshida, E. Eguchi, K. Nagaoka, T. Ito, and K. 
Ogino, Association of night eating habits with 
metabolic syndrome and its components: a 
longitudinal study, BMC Public Health 18 (2018) 
1366-1379. https://doi.org/10.1186/s12889-018-
6262-3 
[15] L.A. Spence, C.J Cifelli, and G.D. Miller, The role 
of dairy products in healthy weight and body 
composition in children and adolescents, Current 
Nutrition & Food Science 7 (2011) 40-49. 
https://doi.org/10.2174/157340111794941111 
[16] R.E. Black, S.M. Williams, I.E. Jones, and A. 
Goulding, Children who avoid drinking cow milk 
have low dietary calcium intakes and poor bone 
health, The American journal of clinical 
nutrition 76 (2002) 675-680. 
https://doi.org/10.1093/ajcn/76.3.675 
[17] I.F.F. Júnior, D.G. Christofaro, J.S. Codogno, P.A. 
Monteiro, L.S. Silveira, and R.A. Fernandes, The 
association between skipping breakfast and 
biochemical variables in sedentary obese children 
and adolescents, The Journal of pediatrics 161 
(2012) 871-874. 
https://doi.org/10.1016/j.jpeds.2012.04.055 
[18] R. Rosenheck, Fast food consumption and 
increased caloric intake: a systematic review of a 
trajectory towards weight gain and obesity risk, 
Obesity reviews 9 (2008) 535-547. 
https://doi.org/10.1111/j.1467-789X.2008.00477.x 
N.T.H. Hanh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 90-101 
101 
[19] A. Lampuré, K. Castetbon, A. Deglaire, P. Schlich, 
S. Péneau, S. Hercberg, and C. Méjean, 
Associations between liking for fat, sweet or salt 
and obesity risk in French adults: a prospective 
cohort study. International Journal of Behavioral 
Nutrition and Physical Activity 13 (2016) 74-88. 
https://doi.org/10.1186/s12966-016-0406-6 
[20] H.C. Hung, K.J. Joshipura, E. Jiang, F.B. Hu, D. 
Hunter, S.A. Smith-Warner, G.A. Colditz, B. 
Rosner, D. Spiegelman, and W.C. Willett, Fruit 
and vegetable intake and risk of major chronic 
disease, Journal of the National Cancer Institute 96 
(2004) 1577-1584. 
https://doi.org/10.1093/jnci/djh296 
[21] D.S. Eweis, F. Abed, and J. Stiban, Carbon dioxide 
in carbonated beverages induces ghrelin release 
and increased food consumption in male rats: 
implications on the onset of obesity, Obesity 
research & clinical practice 11 (2017) 534. 
https://doi.org/10.1016/j.orcp.2017.02.001 
[22] M.K. Siddiqui, R. Morales-Menendez, and S. 
Ahmad, Application of receiver operating 
characteristics (ROC) on the prediction of obesity, 
Brazilian Archives of Biology and Technology 63 
(2020) e20190736-e20190749. 

File đính kèm:

  • pdfthoi_quen_an_uong_lien_quan_den_thua_can_beo_phi_nghien_cuu.pdf