Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam

Hiện nay, nhiều quốc gia thành công trong việc bảo vệ hệ sinh thái biển đặc thù dựa vào các

vùng đặc thù sinh học hoặc sinh thái (EBSA: Ecologically or Biologically Significant Marine Area).

Các tiêu chí đánh giá vùng EBSA: tính đặc hữu, duy nhất; là nơi cư trú của các loài quý hiếm, nguy

cấp; tính đa dạng sinh học cao; tính nguyên sơ ít bị tác động của con người. Việt Nam hiện chưa có

những nghiên cứu về vùng EBSA. Bảo tồn biển và hệ sinh thái đặc thù của Việt Nam dựa vào khoanh

vùng địa lý để thành lập các khu bảo tồn biển. Nội dung bài báo này giới thiệu về lịch sử hình thành,

quy trình xét duyệt, các tiêu chí để xác định vùng EBSA; so sánh các loại hình khu bảo vệ, bảo tồn

biển và thực trạng bảo tồn biển tại Việt Nam, từ đó đề xuất cách tiếp cận và áp dụng vùng EBSA phù

hợp với một số hệ sinh thái biển của Việt Nam.

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 1

Trang 1

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 2

Trang 2

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 3

Trang 3

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 4

Trang 4

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 5

Trang 5

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 6

Trang 6

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 7

Trang 7

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 16460
Bạn đang xem tài liệu "Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam

Thiết lập vùng Ebsa - Cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển Việt Nam
3 
THIẾT LẬP VÙNG EBSA - CÁCH TIẾP CẬN MỚI 
 TRONG BẢO TỒN BIỂN VIỆT NAM 
DƯ VĂN TOÁN, 
 HOÀNG ĐÌNH CHIỀU 
Tóm tắt: Hiện nay, nhiều quốc gia thành công trong việc bảo vệ hệ sinh thái biển đặc thù dựa vào các 
vùng đặc thù sinh học hoặc sinh thái (EBSA: Ecologically or Biologically Significant Marine Area). 
Các tiêu chí đánh giá vùng EBSA: tính đặc hữu, duy nhất; là nơi cư trú của các loài quý hiếm, nguy 
cấp; tính đa dạng sinh học cao; tính nguyên sơ ít bị tác động của con người... Việt Nam hiện chưa có 
những nghiên cứu về vùng EBSA. Bảo tồn biển và hệ sinh thái đặc thù của Việt Nam dựa vào khoanh 
vùng địa lý để thành lập các khu bảo tồn biển. Nội dung bài báo này giới thiệu về lịch sử hình thành, 
quy trình xét duyệt, các tiêu chí để xác định vùng EBSA; so sánh các loại hình khu bảo vệ, bảo tồn 
biển và thực trạng bảo tồn biển tại Việt Nam, từ đó đề xuất cách tiếp cận và áp dụng vùng EBSA phù 
hợp với một số hệ sinh thái biển của Việt Nam. 
Từ khoá: bảo tồn biển, EBSA, đa dạng sinh học, sinh cảnh, sinh thái 
EBSA-A NEW APPROACH FOR MARINE CONSERVATION IN VIETNAM 
Abstract: Nowadays, many countries have succeeded in protecting significant marine ecosystems 
based on specific biological or ecological areas (EBSA: Ecologically or Biologically Significant 
Marine Area). EBSA evaluation criteria include uniqueness or rarity; the habitat of rare and 
endangered species; high biodiversity, and pristine nature with little human impact. Viet Nam has not 
yet undertaken any studies using EBSA principles. At present, marine conservation of specific 
ecosystems in Vietnam is based on geographical zoning to establish marine protected areas. This 
article introduces how the principles were established, the review process and the criteria for 
determining EBSA area. It also considers the types of marine protected areas, marine conservation 
areas, and the current status of marine conservation in Vietnam which may be a valid approach for 
the application of EBSA principles to suitable marine ecosystems of Viet Nam. 
Keywords: Marine conservation, EBSA, biodiversity, habitat, ecology 
1. Đặt vấn đề 
Mỗi quốc gia có những mục đích khác nhau 
trong việc thành lập các khu bảo tồn biển. Tại 
New Zealand, các khu bảo tồn biển tập trung 
nhiều vào bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH); tại 
Canada, các khu bảo tồn biển tập trung vào bảo 
vệ tài nguyên sinh vật phục vụ nghề cá thương 
phẩm [9]; tại Mỹ, giá trị văn hoá và cộng đồng 
được đề cập nhiều trong các khu bảo tồn biển. 
Tại Việt Nam, các khu bảo tồn biển (MPA) tập 
trung vào bảo tồn hệ sinh thái (HST) và tài 
nguyên biển [5]. 
Việt Nam được đánh giá là một trong 10 
trung tâm ĐDSH biển, trong 20 vùng biển có 
nguồn lợi hải sản phong phú trên thế giới. Vùng 
biển Việt Nam đã phát hiện được khoảng 12.000 
loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu HST điển 
hình. Tuy nhiên, các HST và ĐDSH biển đang 
bị ảnh hưởng tiêu cực do biến đổi khí hậu và các 
tác động của con người. 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 
4 
Cách tiếp cận bảo tồn ĐDSH biển của Việt 
Nam dựa nhiều vào khoanh vùng địa lý, từ đó 
hình thành các khu bảo tồn biển cấp tỉnh, liên 
tỉnh hoặc quốc gia. Cách tiếp cận này đơn giản 
cho việc quản lý hành chính. Tuy nhiên, Việt 
Nam có đường bờ biển dài, diện tích vùng biển 
rộng, có thể hình thành nhiều vùng đặc thù sinh 
thái khác nhau, do vậy việc khoanh vùng địa lý 
sẽ không thực sự đạt hiệu quả trong bảo vệ vùng 
đặc thù sinh học, vùng sinh thái quan trọng cho 
vòng đời loài di cư, loài đặc hữu. 
Vùng biển đặc thù sinh học hoặc sinh thái (gọi 
tắt là vùng EBSA) đang được tiếp cận và sử dụng 
nhiều trên thế giới. Khái niệm vùng EBSA được 
đưa ra bởi Công ước Liên hợp quốc về ĐDSH 
(Công ước CBD) nhằm bảo tồn ĐDSH và HST ở 
các vùng biển trên thế giới mà không phụ thuộc 
nhiều vào ranh giới quốc gia. Các vùng EBSA 
phải đạt đầy đủ các tiêu chí theo quy định, phù 
hợp với luật pháp quốc tế, luật biển của Liên hợp 
quốc, được các quốc gia hoặc các tổ chức liên 
minh công nhận. Chính vì vậy, các vùng EBSA 
cũng là công cụ bảo tồn có giá trị pháp lý quốc tế 
cao, được sự đồng thuận của các quốc gia. Đồng 
thời, các vùng EBSA cung cấp cơ sở khoa học 
cho các quốc gia trong quy hoạch không gian 
biển hoặc trao đổi hợp tác quản lý, bảo tồn các 
khu vực nằm ngoài vùng tài phán [4]. 
Vùng biển Đông có tính ĐDSH cao, có lợi 
ích chung cho Việt Nam và khu vực nên việc 
hợp tác quản lý, bảo tồn ĐDSH là rất cần thiết. 
Do vùng EBSA chưa được nghiên cứu phổ biến 
ở Việt Nam, nên bài báo này sẽ trình bày, làm rõ 
các nội dung cơ bản về quá trình hình thành, 
trình tự đánh giá và tiêu chí công nhận vùng 
EBSA; kết hợp với phân tích, so sánh giữa các 
loại hình khu bảo vệ, bảo tồn biển và thực trạng 
bảo tồn biển tại Việt Nam để gợi mở cách tiếp 
cận áp dụng vùng EBSA phù hợp với điều kiện 
Việt Nam. 
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên 
cứu 
Bài báo sử dụng các tài liệ ... và tái tạo quần 
đàn các loài suy thoái, nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng; 
- Là khu vực tập trung nhiều loài suy thoái, nguy cấp, có 
nguy cơ tuyệt chủng. 
- Quần xã loài nguy cấp ở 
khu vực đảo san hô vòng 
- Bãi đẻ, bãi giống các 
loài nguy cấp 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 
6 
4. Đặc biệt nhạy cảm và hồi 
phục chậm (Fragility) 
- Là khu vực có chứa tỷ lệ khá cao các sinh cảnh hoặc các 
loài nhạy cảm, dễ bị tổn thương dẫn đến suy thoái, cạn 
kiệt bởi các tác động của con người hoặc thiên tai; 
- Hoặc là khu vực có chứa sinh cảnh, loài có khả năng tái 
tạo, hồi phục rất chậm. 
- Khu vực cho các loài tạo 
ra sinh cảnh (san hô, hải 
miên) 
- Khu vực cho các loài có 
chu kỳ sống dài, sức sinh 
sản thấp (cá mập) 
- Khu vực dễ bị tổn 
thương bởi ô nhiễm 
(vùng băng đá) 
5. Năng suất sinh học cao 
(Productivity) 
Là khu vực có chứa các loài, quần thể, quần xã có năng 
suất sinh học tự nhiên cao (mật độ sinh vật phù du cao, 
giàu dinh dưỡng, Chlorophyll-a). 
- Vùng nước trồi 
- Vùng nước xoáy 
- Vùng núi thủy nhiệt 
- Vùng núi ngầm 
6. Đa dạng sinh học cao 
(Biodiversity) 
Là khu vực có đa dạng HST, đa dạng thành phần loài, đa 
dạng nguồn gen cao. 
- Vùng núi ngầm 
- Vùng nước xoáy 
- Vùng HST san hô nước 
lạnh 
- Vùng HST hải miên biển 
sâu 
7. Tính nguyên sơ, ít bị tác 
động của con người 
(Naturalness) 
- Là khu vực còn khá nguyên sơ, tự nhiên ít bị tác động 
của con người; 
- Hoặc là khu vực sinh thái đã được bảo vệ và phục hồi 
thành công. 
- Vùng HST tự nhiên 
chưa bị khai thác 
- Vùng bảo tồn biển đã 
phục hồi HST thành công 
Nguồn: Hội nghị các bên COP 9/20 [2] 
Hình 2. Đánh giá vai trò (theo tỷ lệ %) của các tiêu chí lựa chọn vùng EBSA 
Nguồn: Nicholas J. Bax, 2015 [6] 
Trong 7 tiêu chí lựa chọn vùng EBSA, tiêu 
chí tính nguyên sơ ít bị tác động của con người 
được đánh giá thấp nhất (31%) so với các tiêu 
chí khác (51-70%), hai tiêu chí tính đặc hữu và 
tính liên quan đến vòng đời của loài được đánh 
giá cao nhất (Hình 2). Như vậy có thể nhận thấy, 
các vùng EBSA tập trung nhiều vào những sinh 
cảnh đặc thù liên quan đến vòng đời của các loài 
Dư Văn Toán, Hoàng Đình Chiều - Thiết lập vùng EBSA - Cách tiếp cận mới  
7 
và nơi cư trú quan trọng của các loài quý hiếm, 
nguy cấp. 
3.2. So sánh tiêu chí đánh giá các khu bảo 
vệ, bảo tồn sinh thái biển 
Trên thế giới có nhiều mô hình bảo tồn biển do 
các tổ chức đề xuất theo các tiêu chí khác nhau. 
Các khu vực bảo vệ, bảo tồn sinh thái biển đang 
được thế giới áp dụng nhiều là: Khu đặc thù sinh 
học hoặc sinh thái (EBSA) của Công ước CBD; 
Khu bảo tồn biển (MPA - Marine Protected Area) 
của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN); 
Khu đặc biệt nhạy cảm (PSSA - Particularly 
Sensitive Sea Area) của Tổ chức Hàng hải quốc tế 
(IMO); Khu di sản thế giới (WHS - World 
Heritage Site) của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và 
Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO). 
Trong các khu bảo tồn, khu di sản thế giới 
(WHS) là khác biệt nhất, phải đáp ứng những 
tiêu chuẩn quốc tế, đặc trưng cho lịch sử phát 
triển trái đất, liên quan đến các quá trình diễn 
biến sinh thái học. Các vùng EBSA, MPA, 
PSSA khá tương đồng về các tiêu chí (Bảng 2). 
Trong đó, vùng EBSA tập trung nhiều vào sinh 
cảnh quan trọng, đặc thù cho chu kỳ sống của 
loài hoặc những HST dễ bị tổn thương, khả năng 
phục hồi chậm, có năng suất sinh học cao. Khu 
MPA thường tập trung nhiều vào ĐDSH và 
khoanh vùng địa lý, lãnh thổ cụ thể. Khu PSSA 
tập trung nhiều vào những khu vực đặc biệt nhạy 
cảm sinh thái có liên quan nhiều đến các hoạt 
động kinh tế - xã hội, thường đại diện cho vùng 
địa lý, lãnh thổ cụ thể nào đó. 
Bảng 2. So sánh tiêu chí đánh giá các khu bảo vệ, bảo tồn sinh thái biển 
STT EBSA (của CBD) MPA (của IUCN) PSSA (của IMO) WHS (của UNESCO) 
1 
Đặc hữu, duy nhất (tập trung vào các 
cấp độ: loài, quần thể, quần xã, sinh 
cảnh, HST, đặc điểm hải dương học, 
địa mạo học). 
Tập trung vào vùng 
địa lý đặc thù và sinh 
cảnh đặc hữu, duy 
nhất. 
Tập trung vào phạm 
vi vùng biển đặc hữu, 
duy nhất. 
Đáp ứng giá trị tiêu 
chuẩn ở phạm vi thế 
giới (độc nhất, quan 
trọng nhất, khác biệt 
nhất). 
2 -- -- -- 
Phải là khu vực điển 
hình thể hiện các giai 
đoạn chính của lịch sử 
trái đất. 
3 
Đặc biệt quan trọng cho vòng đời 
các loài (tập trung nhiều vào bãi đẻ, 
bãi giống, sinh thái của con non, sinh 
thái của các loài di cư). 
Yêu cầu có bãi giống, 
khu vực con non, 
vùng kiếm ăn, vùng 
sinh sản. 
Bãi giống, bãi đẻ, bãi 
ương, con đường di 
cư, sinh cảnh quan 
trọng cho các quần 
thể cá. 
Quá trình tiếp diễn 
của sinh thái học trong 
sự tiến hóa và phát 
triển của HST, loài. 
4 
Nơi cư trú quan trọng của các loài 
quý hiếm, nguy cấp (sinh cảnh cho 
sự sống và tái tạo quần đàn các loài 
đang suy thoái, nguy cấp, có nguy cơ 
tuyệt chủng). 
Có xuất hiện sinh 
cảnh cho loài quý 
hiếm và nguy cấp. 
Xuất hiện sinh cảnh 
cho loài quý hiếm và 
nguy cấp. 
Chứa những sinh cảnh 
thiên nhiên nhất, 
quan trọng nhất cho 
bảo tồn nguyên vị 
ĐDSH. 
5 
Đặc biệt nhạy cảm và hồi phục chậm 
(các sinh cảnh hoặc các loài nhạy 
cảm, dễ bị tổn thương dẫn đến suy 
thoái, cạn kiệt và khả năng tái tạo, hồi 
phục rất chậm). 
-- 
Tính dễ bị tổn 
thương. 
-- 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 
8 
6 
Năng suất sinh học cao (mật độ sinh 
vật phù du cao, giàu dinh dưỡng, 
Chlorophyll-a). 
Quan tâm quá trình 
sinh học, sinh thái. 
Có quan tâm đến 
năng suất sinh học. 
-- 
7 
Đa dạng sinh học (đa dạng HST, đa 
dạng thành phần loài, đa dạng nguồn 
gen). 
Đa dạng HST, đa 
dạng loài, đa dạng 
nguồn gen. 
Nhắc chung đến 
ĐDSH. 
-- 
8 
Tính nguyên sơ, ít bị tác động của 
con người (khu vực còn khá nguyên 
sơ hoặc đã được bảo vệ, phục hồi 
thành công). 
Có quan tâm đến 
tính nguyên sơ. 
Có quan tâm đến tính 
nguyên sơ. 
Khu vực hoàn toàn tự 
nhiên, cảnh quan đẹp 
và tính nghệ thuật 
thiên nhiên cao. 
9 -- 
Thường là một đơn 
vị chức năng sinh 
học, thực thể sinh 
thái ở một vùng địa 
lý rõ ràng. 
Thường là một đơn vị 
chức năng sinh học, 
thực thể sinh thái ở 
một vùng địa lý rõ 
ràng. 
Thường là một đơn vị 
chức năng sinh học, 
thực thể sinh thái ở 
một vùng địa lý rõ 
ràng. 
10 -- -- 
Tính phụ thuộc (phụ 
thuộc nhiều vào hoạt 
động KT-XH và tác 
động của con người). 
-- 
11 -- 
Đại diện cho vùng 
địa sinh học cụ thể. 
Đại diện cho vùng địa 
sinh học cụ thể. 
-- 
Nguồn: Adrian P., 1999 [1]; Dearden P., 2005 [3]; UNESCO, 2008 [8] 
3.3. Thực trạng các khu bảo tồn biển ở Việt 
Nam 
Hoạt động phục hồi sinh thái biển, nguồn lợi 
biển và bảo vệ các loài quý hiếm ở Việt Nam 
chủ yếu dựa vào việc thành lập các khu bảo tồn 
biển, trong đó tập trung vào mục tiêu bảo tồn 
ĐDSH biển và ít quan tâm đến các tiêu chí khác. 
Thực hiện Quy hoạch tổng thể hệ thống khu 
bảo tồn biển Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn đã thành lập 10 khu bảo tồn biển, 
dự kiến thành lập thêm 6 khu bảo tồn biển trong 
thời gian tới (Bảng 3). 
Bảng 3. Danh sách các khu bảo tồn biển Việt Nam 
STT Tên gọi khu bảo tồn biển/tỉnh 
Diện tích (ha) 
Năm thành lập 
Tổng Biển 
1 Đảo Trần/Quảng Ninh 4.200 3.900 2020 
2 Cô Tô/Quảng Ninh 7.850 4.000 2020 
3 Bạch Long Vĩ/Hải Phòng 20.700 10.900 2013 
4 Cát Bà/Hải Phòng 20.700 10.900 2010 
5 Hòn Mê/Thanh Hoá 6.700 6.200 Chưa 
6 Cồn Cỏ/Quảng Trị 2.490 2.140 2010 
7 Hải Vân - Sơn Chà/TT Huế - Đà Nẵng 17.039 7.626 Chưa 
8 Cù Lao Chàm/Quảng Nam 8.265 6.716 2005 
9 Lý Sơn/Quảng Ngãi 7.925 7.113 2016 
10 Nam Yết/Khánh Hoà 35.000 20.000 Chưa 
11 Vịnh Nha Trang/Khánh Hoà 15.000 12.000 2001 
12 Núi Chúa/Ninh Thuận 29.865 7.352 2015 
Dư Văn Toán, Hoàng Đình Chiều - Thiết lập vùng EBSA - Cách tiếp cận mới  
9 
13 Phú Quý/Bình Thuận 18.980 16.680 Chưa 
14 Hòn Cau/Bình Thuận 12.500 12.390 2011 
15 Côn Đảo/Bà Rịa - Vũng Tàu 29.400 23.000 2002 
16 Phú Quốc/Kiên Giang 33.657 18.700 2007 
Nguồn: Quyết định 742, 2010 [7] 
Đến năm 2020, một số khu bảo tồn biển đã đi 
vào hoạt động được 20 năm (ví dụ Vịnh Nha 
Trang) và đã trải qua 10 năm triển khai thực hiện 
Quy hoạch tổng thể các khu bảo tồn biển Việt 
Nam. Tuy nhiên, hiện nay chưa có những nghiên 
cứu nào đánh giá tổng thể, rà soát lại thực trạng 
của các khu bảo tồn biển đã thành lập trong việc 
bảo vệ sinh thái, nguồn lợi biển, sinh kế của 
cộng đồng dân cư và hiệu quả của công tác quản 
lý các khu bảo tồn biển. 
Ngoài các khu bảo tồn biển, Việt Nam có một 
khu di sản thiên nhiên thế giới (WHS) liên quan 
đến tài nguyên biển là Vịnh Hạ Long; có một 
vùng EBSA được công nhận là quần thể khu vực 
Cát Bà - Hạ Long; chưa có khu vực đặc biệt 
nhạy cảm (PSSA) được công nhận. 
Như vậy, có thể nhận thấy Việt Nam đã tiếp 
cận tập trung bảo tồn ĐDSH theo vùng địa lý 
ven bờ hoặc ven đảo cụ thể, không căn cứ quá 
nhiều vào đặc trưng sinh học, sinh thái. Vì vậy, 
việc nghiên cứu khoanh vùng EBSA có thể là 
một hướng tiếp cận bảo tồn hiệu quả, hỗ trợ cho 
các khu bảo tồn biển hình thành các mạng lưới 
dựa trên đặc thù sinh thái học. Đặc biệt, vùng 
EBSA có thể tiếp cận bảo tồn theo vùng rộng 
lớn hoặc theo đặc thù sinh cảnh ở khu vực nào 
đó (như khu bãi cạn, gò đồi ngầm ở Trường Sa). 
3.4. Tiếp cận bảo tồn biển dựa vào vùng 
EBSA ở Việt Nam 
Trên cơ sở phân tích các tiêu chí công nhận 
vùng EBSA, kết hợp đánh giá thực trạng bảo tồn 
biển Việt Nam, xin đề xuất một số gợi mở cách 
tiếp cận bảo tồn biển dựa vào vùng EBSA phù 
hợp với điều kiện Việt Nam như sau: 
- Vùng Cát Bà - Hạ Long: Đây là khu vực đã 
được công nhận vùng EBSA do nằm trong vùng 
biển di sản thiên nhiên thế giới. Tuy nhiên, các 
hoạt động du lịch, tàu thuyền qua lại nhiều có 
thể ảnh hưởng xấu đến HST biển khu vực này. 
Đồng thời, các quy hoạch vùng nuôi, không gian 
biển chưa khoa học có thể gây ô nhiễm môi 
trường, mất cân bằng sinh thái. Để duy trì và 
phát triển khu EBSA này cần có những định 
hướng phát triển kinh tế biển xanh, quản lý tốt 
các hoạt động du lịch, hạn chế hoạt động nuôi 
trồng ven bờ, ven rạn san hô và tiến tới nuôi biển 
ngoài khơi. 
- Các HST ven bờ, ven đảo và HST hang 
ngầm: Hiện tại các HST ven bờ, ven đảo đã được 
tiếp cận theo MPA. Các HST hang ngầm chưa 
được nghiên cứu sâu và có thể là tiềm năng của 
vùng EBSA do còn giữ được tính nguyên sơ, ít 
bị tác động của con người, có thể chứa những 
loài đặc hữu, duy nhất. 
- Vùng bãi đẻ, bãi giống phân bố ở khu vực 
rộng lớn: Đây là bãi đẻ, bãi giống của nhiều loài 
quý hiếm đặc thù, kéo dài theo vùng sinh thái và 
không tập trung tại một vùng địa lý hẹp. Những 
vùng này sẽ không phù hợp cho việc khoanh khu 
MPA. Chính vì vậy, cần tiếp cận bảo tồn theo 
hướng khoanh vùng EBSA tiềm năng (như vùng 
biển Côn Đảo, Phú Quốc - Nam Du). 
- Các HST bãi cạn, gò đồi ngầm hoặc HST 
biển sâu: Đây là khu vực chưa được nghiên cứu 
nhiều và không quá phù hợp với việc thành lập 
các khu MPA. Khu vực này là những vùng rất 
tiềm năng để đề xuất công nhận vùng EBSA do 
hầu như chưa bị tác động của con người, giữ 
được tính nguyên sơ. Đặc biệt ở đây có nhiều 
HST đặc thù (như HST san hô vùng nước lạnh, 
HST thảm bọt biển) và nhiều loài mới chưa được 
ghi nhận trên thế giới. Mới đây, Thủ tướng 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 
10 
Chính phủ đã phê duyệt Chương trình nghiên 
cứu bãi cạn, gò đồi ngầm và biển sâu trong giai 
đoạn 2020 - 2025 (Quyết định số 28/QĐ-TTg 
ngày 07/01/2020). Đây là cơ hội để thu thập đầy 
đủ cơ sở khoa học cho việc đề xuất các vùng 
EBSA ở Việt Nam (như các gò đồi ngầm ở vùng 
biển Trường Sa). 
- Các vùng nước lịch sử hoặc khu vực nằm 
ngoài vùng tài phán: Những khu vực này có thể 
rất phù hợp cho việc thiết lập vùng EBSA để trao 
đổi hợp tác quản lý, bảo tồn ĐDSH và sinh thái 
giữa các quốc gia, mang lại lợi ích chung cho 
các thế hệ tương lai. 
4. Kết luận và kiến nghị 
Vùng EBSA sẽ là công cụ hiệu quả cho việc 
bảo vệ các HST đặc thù, sinh cảnh quan trọng. 
Đặc biệt, đây là cách tiếp cận bảo vệ những vùng 
sinh cảnh còn nguyên sơ, chưa chịu tác động 
nhiều từ các hoạt động của con người. 
Việt Nam có một vùng EBSA được công 
nhận là quần thể Cát Bà - Hạ Long. Một số vùng 
biển ở Việt Nam phù hợp nhất với việc khoanh 
vùng EBSA tiềm năng như HST ven bờ, ven 
đảo, HST hang ngầm, HST khu vực bãi đẻ, bãi 
giống vùng biển Côn Đảo, Phú Quốc - Nam Du, 
HST bãi cạn, gò đồi ngầm ở vùng biển Trường 
Sa, HST biển sâu ở biển Đông và vùng nước lịch 
sử hoặc khu vực nằm ngoài vùng tài phán. 
Cơ quan quản lý cần định hướng tiếp cận bảo 
tồn biển, kết hợp giữa khu bảo tồn biển và khu 
đặc thù sinh học, sinh thái, từ đó hình thành 
mạng lưới sinh thái hỗ trợ lẫn nhau bảo tồn 
ĐDSH và tài nguyên biển trong và ngoài vùng 
tài phán quốc gia. 
Đối với các đơn vị nghiên cứu, cần tiếp cận 
nghiên cứu thu thập cơ sở khoa học các khu vực 
đáp ứng đủ các tiêu chí của vùng EBSA, đề xuất 
công nhận để hoạt động bảo tồn, duy trì phát 
triển lâu dài. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adrian Phillips (1999), Guidelines for Marine Protected Areas. World Commission on Protected Areas of IUCN – The 
World Conservation Union, Black Bear Press Ltd., Cambridge, ISBN: 2-8317-0505-3, 127 p. 
2. COP 9/20 (2008), Ninth meeting of the Conference of the Parties to the Convention on Biological Diversity, 19 -30 
May, 2008 at Bonn, Germany. 
3. Dearden P. and Topelko K. N. (2005), Establishing criteria for the identification of ecologically and biologically 
significant areas on the high seas, Fisheries and Oceans Canada, 31 p. 
4. Dunn D. C. et al. (2014), The Convention on Biological Diversity’s ecologically or biologically significant areas: origins, 
development, and current status, Marine Policy, 49: p.137–145. 
5. Luật Thuỷ sản số 18/2017/QH14 ngày 21/11/2017. 
6. Nicholas J. Bax et al. (2015), Results of efforts by the Convention on Biological Diversity to describe ecologically or 
biologically significant marine areas, Conservation Biology Journal, Vol. 30, No.3, p.571-581. 
7. Quyết định số 742/QĐ-TTG ngày 26/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn 
biển Việt Nam đến năm 2020. 
8. UNESCO (2008), Operational Guidelines for the Implementation of the World Heritage Convention, United Nations 
Educational - Scientific amd Cultural Organisation, Intergovernmental Committee for the protection of the world cultural and 
natural heritage, 173 p. 
9. Vu Hai Dang (2014), Marine Protected Areas Network in the South China Sea: Charting a Course for Future Co-operation, 
Martinus Nijhoff Publisher, p.11. 
 Thông tin tác giả: 
Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo 
Hoàng Đình Chiều, Viện Nghiên cứu Hải sản 
Email: dvtoan@monre.gov.vn; duvantoan@gmail.com; Điện thoại: 0372.886686 
Địa chỉ liên hệ: 67 Chiến Thắng Str, Hà Đông, Hà Nội, Viet Nam 
Nhật ký tòa soạn 
Ngày nhận bài: 18/1/2021 
Biên tập: 5/2021 

File đính kèm:

  • pdfthiet_lap_vung_ebsa_cach_tiep_can_moi_trong_bao_ton_bien_vie.pdf