Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ

Tóm tắt

Một trong những yếu tố nghệ thuật của thi luật trong ca dao - dân ca xứ Nghệ là thể thơ và cách sử

dụng câu chữ. Là sản phẩm của một vùng địa - văn hoá đặc biệt, vùng đất luôn luôn có những va đập

dữ dội và khốc liệt, ca dao - dân ca xứ Nghệ mang một dáng nét có phần khác lạ so với vẻ óng ả, mẫu

mực của ca dao - dân ca đồng bằng Bắc Bộ bởi sự đột phá khi sử dụng thể thơ, sự phóng túng về số

lượng âm tiết. Chính sự phá cách táo bạo đó đã khiến ca dao - dân ca vùng này tuy giống như những

viên đá ong xù xì, ít mượt mà, duyên dáng, ý nhị, nhưng lại có khả năng biểu đạt những xúc cảm mạnh

mẽ nhất.

Từ khóa: Thể thơ, ca dao dân ca, xứ Nghệ

Abstract

One of the artistic elements of the prosody in folk songs - fold ballads of Nghe region is style of

poetry and the usage of words. As a product of a special geo- culture area, which always has fierce

and formidable collisions, folk songs and fold- ballads of Nghe region have an unfamiliar appearance

compared to the shiny, exemplary of folk songs and fold-ballads in the Northern Delta because of a

breakthrough when using a style of poetry, the liberation of the number of syllables. It was the daring

break that made the folk songs - fold ballads of Nghe region have the ability to express the strongest

motion, although they like rough laterite, less smooth, less charming and delicate.

Keywords: Style of poetry, folksong, Nghe region

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 1

Trang 1

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 2

Trang 2

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 3

Trang 3

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 4

Trang 4

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 5

Trang 5

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 6

Trang 6

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 7

Trang 7

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 11740
Bạn đang xem tài liệu "Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ
 VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
 THỂ THƠ VÀ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG CÂU CHỮ 
 TRONG CA DAO - DÂN CA XỨ NGHỆ
 HỒ THỊ THU HÀ
Tóm tắt
 Một trong những yếu tố nghệ thuật của thi luật trong ca dao - dân ca xứ Nghệ là thể thơ và cách sử 
dụng câu chữ. Là sản phẩm của một vùng địa - văn hoá đặc biệt, vùng đất luôn luôn có những va đập 
dữ dội và khốc liệt, ca dao - dân ca xứ Nghệ mang một dáng nét có phần khác lạ so với vẻ óng ả, mẫu 
mực của ca dao - dân ca đồng bằng Bắc Bộ bởi sự đột phá khi sử dụng thể thơ, sự phóng túng về số 
lượng âm tiết. Chính sự phá cách táo bạo đó đã khiến ca dao - dân ca vùng này tuy giống như những 
viên đá ong xù xì, ít mượt mà, duyên dáng, ý nhị, nhưng lại có khả năng biểu đạt những xúc cảm mạnh 
mẽ nhất. 
Từ khóa: Thể thơ, ca dao dân ca, xứ Nghệ
Abstract
 One of the artistic elements of the prosody in folk songs - fold ballads of Nghe region is style of 
poetry and the usage of words. As a product of a special geo- culture area, which always has fierce 
and formidable collisions, folk songs and fold- ballads of Nghe region have an unfamiliar appearance 
compared to the shiny, exemplary of folk songs and fold-ballads in the Northern Delta because of a 
breakthrough when using a style of poetry, the liberation of the number of syllables. It was the daring 
break that made the folk songs - fold ballads of Nghe region have the ability to express the strongest 
motion, although they like rough laterite, less smooth, less charming and delicate.
Keywords: Style of poetry, folksong, Nghe region
1. Thể thơ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ Kết quả cho thấy: từ Thanh Hoá trở ra, người 
 ũng như ca dao nhiều vùng khác, ca dân ưa dùng lục bát chính thể, trong khi đó 
 dao - dân ca xứ Nghệ sử dụng hầu ca dao - dân ca xứ Nghệ sử dụng lục bát biến 
 Chết các thể thơ dân tộc, từ thể thơ thể khá nhiều, trung bình bốn bài lại có một 
hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, đến thể lục bài biến thể, thơ tự do cũng chiếm tỷ lệ không 
bát, song thất lục bát và thể tự do, trong đó, có nhỏ, (gấp đôi so với Thanh Hoá và Bắc Bộ). Từ 
lẽ ấn tượng nhất là thể thơ năm chữ. Hát Dặm những biểu hiện trên có thể thấy: Sự xuất hiện 
Nghệ - Tĩnh với thể năm chữ (thơ ngũ ngôn) khá đậm nét của lục bát biến thể và thơ tự do 
độc đáo, không chỉ là “đặc sản” của riêng vùng đã khiến cho ca dao - dân ca xứ Nghệ ít nhiều 
Nghệ - Tĩnh, mà còn là hiện tượng “độc nhất vô mang một kiểu dáng mới, ít chuẩn mực, ít trau 
nhị” trong kho tàng ca dao của dân tộc. chuốt mà phần nào đã thiên về sự phóng túng. 
 Chúng tôi đã lập bảng so sánh tỷ lệ phần Đó là một nét khác biệt lớn của ca dao - dân ca 
trăm của việc sử dụng các thể thơ giữa ca dao vùng này so với các tỉnh phía ngoài. Như thế 
- dân ca xứ Nghệ với dân ca Thanh Hoá, Hà Bắc cũng có nghĩa là đối với người xứ Nghệ, cái thể 
(từ các tuyển tập: Kho tàng ca dao xứ Nghệ; thơ lục bát “anh minh” và từng đạt đến vinh 
Dân ca Thanh Hoá; Hát ví đồng bằng Hà Bắc). quang tột đỉnh, tuy vẫn giữ vị trí chủ yếu trong 
 NGHIÊN CỨU
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂ N H ÓA 61
 NGHIÊN CỨU
 VĂ N H ÓA
 sáng tác ca dao, nhưng đã phần nào phải “e dè” âm tiết phải đúng với số lượng âm tiết chuẩn; 
 trước sự công phá khá mạnh mẽ của lục bát 2) Số lượng các câu trong một khuôn khổ cũng 
 biến thể và thơ tự do. phải phù hợp với số lượng các câu trong một 
 Ngoài ra, chúng tôi cũng thấy có hiện tượng khổ chuẩn; 3) Vần phải bảo đảm quy tắc bằng 
 khá đặc biệt với thể song thất lục bát. Nét đặc trắc ở vị trí chuẩn.
 biệt thứ nhất được thể hiện ở việc lấy hai câu Trên các chuẩn đó chúng tôi xem xét biến 
 lục bát của khổ trên nối với hai câu thất của thể những trường hợp sau: 1) Số lượng âm tiết 
 khổ dưới và kết thúc ở đó. Ví dụ: ít hoặc nhiều hơn số lượng âm tiết chuẩn; 2) 
 Đi ra thiên hạ mà coi Câu có thể nhiều hơn hoặc ít hơn số lượng câu 
 Không đâu bằng đất Quỳnh Đôi nữa mà trong một khổ; 3) Vị trí gieo vần không còn ở 
 Trai miệt mài bút nghiên thi cử vị trí chuẩn. 
 Gái quen nghề tơ lụa vá may Vậy, muốn xác định được một bài ca dao là 
 Trong trường hợp này, nếu ta thêm hai câu biến thể của thể thơ nào thì phải căn cứ vào 
 thất vào trên hai câu lục bát và thêm hai câu các dấu hiệu lệch chuẩn. Ví dụ bài ca dao sau 
 lục bát vào dưới hai câu thất, thì ta sẽ có hai đây của xứ Nghệ:
 khổ thơ song thất lục bát hoàn chỉnh. Chúng Đường đi loanh quanh ngoắt ngoéo
 tôi cho rằng kiểu này có thể là một biến thể Đường đi lắt léo chân trâu
 của song thất lục bát, không phải là biến thể Em có chồng rồi anh chẳng dám nhìn lâu
 về số lượng âm tiết mà là biến thể theo cách Anh nhìn qua một tý để bán sầu mua vui
 bỏ hai câu 7 đầu đi, chỉ để lại hai câu lục bát và Trong bài này, tuy câu 1 là 6 chữ, câu 3 là 
 hai câu lục bát này lại nối với hai câu 7 của một 9 chữ, câu 4 là 10 chữ nhưng chúng tôi cho 
 khổ khác, rồi kết thúc ở đó mà lẽ ra sau hai câu rằng đây là biến thể của thể song thất lục bát 
 7 này phải có hai câu lục bát nữa. bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, khổ thơ 4 
 Nét  ... ng túng bậc nhất, bài thì dù là miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, 
nào mà chưa có một vài câu 5 chữ của Dặm thể lục bát cũng vẫn phát huy hết sức mình 
thì dường như là người Nghệ chưa thoả lòng. thoả mãn mọi yêu cầu trong sáng tạo, trong 
Cũng giống như trong bữa ăn của họ, chưa có thưởng thức. Ca dao xứ Nghệ cũng không phải 
món cà mặn, món nhút, chút tương, thì bữa ăn là trường hợp ngoại lệ. Ấn tượng tổng thể thì 
đó như đang còn “thiếu thiếu” một cái gì đó có vẻ không được đặc sắc so với ca dao đồng 
3. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử dụng bằng Bắc Bộ, nhưng trong ca dao Nghệ - Tĩnh 
 cũng không hiếm những câu đã trở nên bất tử. 
câu chữ trong các thể thơ
 Chỉ với hai câu ca dao này thôi: “Thấy anh như 
 Qua việc thống kê, khảo sát, mô tả ở trên, 
 thấy mặt trời/Chói chang khó ngó, trao lời khó 
chúng ta thấy rất rõ là các thi sĩ bình dân xứ trao” cũng đã đủ thấy cái “thẩn” thơ của người 
Nghệ đã thể hiện một cách tài tình khả năng dân xứ Nghệ kỳ diệu đến mức nào, không phải 
sáng tạo những nét độc đáo, khác lạ trên cơ ngẫu nhiên mà bài ca dao này lại có một sức 
sở các thể thơ truyền thống. Yếu tố thi luật này sống, một sức lan tỏa, một sức chinh phục với 
đã trở thành một phương tiện nghệ thuật đắc muôn người đến vậy, đến mức tài thơ Xuân 
dụng, có ý nghĩa to lớn trong việc phô diễn Diệu cũng phải ngẩn ngơ, luận bàn... 
những tư tưởng, tình cảm cũng như tính cách 
 Nhưng có lẽ, nét khác biệt của ca dao - dân 
ít nhiều riêng biệt của người Nghệ - Tĩnh.
 ca xứ Nghệ đối với ca dao - dân ca đồng bằng 
 3.1. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử Bắc Bộ là ở tính chất không ổn định về thể thơ 
dụng câu chữ trong thể 5 chữ hát Dặm và câu chữ. Sự hiện diện của các biến thể trong 
 Có thể thấy sự “xâm lược” của văn xuôi, của ca dao - dân ca vùng này đã khiến cho các thể 
yếu tố cốt truyện vào hát Dặm là rất rõ. Vì thế thơ truyền thống bị phá vỡ, và sự phá vỡ về thể 
trong hát Dặm, phẩm chất nổi bật của nó là thơ đã dẫn đến sự phá bung về câu chữ. Tính 
tính tự sự. Kể lể khuyên răn, phân trần bày giải, chất phóng túng này được thể hiện ở tất cả các 
nói kỹ từng việc, từng hành động, cả trình tự thể thơ: từ thể Dặm, đến lục bát, song thất lục 
diễn biến của không gian và thời gian, giống bát và thể tự do, nhưng đậm nét nhất vẫn là ở 
như tô màu một bức tranh, cứ tô thêm, tô đậm lục bát biến thể. Những kết quả thu được từ 
thêm mãi Tính chất này thấm đẫm trong quá trình khảo sát về các thể thơ trong ca dao 
hầu như tất cả các bài hát Dặm, nhất là đối với - dân ca xứ Nghệ đã cho thấy những nhận định 
những bài dài dằng dặc có nhiều khổ thơ, có trên của chúng tôi là có cơ sở thực tế. Có lẽ, để 
sự biến thể thừa về số dòng trong một khổ giải đáp cho câu hỏi vì sao ca dao xứ Nghệ lại 
cũng như số lượng âm tiết trong một dòng có hiện tượng này, chúng tôi cho rằng không 
 NGHIÊN CỨU
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂ N H ÓA 65
 NGHIÊN CỨU
 VĂ N H ÓA
 thể không xem xét đến nguyên nhân điều kiện Trong ca dao xứ Nghệ, sự phá bung khuôn 
 địa lý, khí chất tâm hồn của những con người khổ thơ lục bát và song thất lục bát không 
 sống trên mảnh đất này. những có giá trị “tạo dáng” cho câu thơ thêm 
 Tuy “tố chất vùng” hay “khí chất con người” phần khác lạ, mà nó còn đem lại những hiệu 
 ở một vùng lãnh thổ chỉ là một nhân tố phụ, quả thẩm mỹ mới mẻ. Thơ, dĩ nhiên, là thể cô 
 nhưng nó cũng góp phần không nhỏ để bổ đọng nhất của văn chương. “Thơ phải được ý ở 
 sung và tô thêm những đường nét cụ thể trên ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là 
 diện mạo một nhân cách sáng tạo, một tập thể tôn chỉ của người làm thơ” (Ngô Lôi Pháp). Vậy 
 sáng tạo. Người Nghệ nói riêng và người Việt tại sao người xứ Nghệ lại cứ ưa lối kéo dài câu 
 miền Trung nói chung, cùng huyết thống với thơ ra? Câu thơ lục bát của họ, đặc biệt là câu 
 bát, có khi lên tới 16 âm tiết trải dài, thật sự đã 
 dân cư đồng bằng sông Hồng, cùng một dòng 
 không bình thường nữa. Có lẽ cái ý thích “nói 
 văn hoá lịch sử với cộng đồng người Việt. Có 
 cái gì cũng phải nói đến tận cùng, cho đã đời” 
 điều, cái làm nên những khác biệt là ở tính chất 
 của người xứ Nghệ đã ảnh hưởng đến điều 
 ít nhiều riêng biệt của người dân vùng này, do 
 này. Cũng có lẽ, những cam go, khắc nghiệt 
 cuộc sống lịch sử thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia 
 trong cuộc sống đã biến thành những tấn bi 
 phải luôn luôn ở vào thế đối chọi. Sống, với họ, 
 kịch trong tâm hồn, cho nên, họ đã xem nghệ 
 thực sự là một cuộc đấu tranh không ngừng. 
 thuật như là một sự cứu rỗi có thể giúp họ giải 
 Cho nên điều dễ dàng nhận thấy trong thực 
 tỏa những uất ức, những thống khổ trong 
 tế là người vùng này riết róng, quyết liệt, táo 
 lòng. Và, để thực hiện được nhu cầu hóa giải 
 bạo và cực đoan hơn hẳn dân xứ Bắc. Và chính 
 đó, bao giờ mà chẳng dẫn đến hiện tượng “lắm 
 cái tính cách táo bạo, cực đoan ấy lại rất cần 
 lời”. “Nói cho đã” chính là phương sách để có 
 thiết cho sáng tạo thơ ca. Khuôn khổ lục bát 14 
 thể vơi đi những niềm bức xúc, để cất đi những 
 chữ mang tính chất vĩnh hằng trong lục bát và 
 nỗi buồn đè nặng tâm tư. Chính vì vậy khuôn 
 song thất lục bát đã không còn là một khuôn mẫu cổ điển của thơ lục bát và song thất lục 
 khổ tuyệt đối ưu việt đối với người xứ Nghệ. bát dường như trở nên quá tù túng, không đủ 
 Sự phá vỡ khuôn mẫu cổ điển của thơ lục bát để giãi bày tình cảm, và người xứ Nghệ thấy 
 và song thất lục bát chính là một sự sáng tạo, rằng cần phải phá bung nó ra.
 một sự đột phá của các thi sĩ bình dân xứ Nghệ 
 Thoạt nhìn, cái yêu cầu hàm súc của thơ có 
 trong lĩnh vực thơ ca. Đối với người dân Bắc 
 vẻ trái ngược với sự kéo dài số lượng âm tiết 
 Bộ, đời sống của họ có phần ổn định hơn, dễ 
 trong thơ lục bát. Nhưng thực ra, đây lại là một 
 chịu hơn, cho nên nếp cảm, nếp nghĩ cũng ít bị 
 mâu thuẫn biện chứng. Vì rằng ý tình mà người 
 biến động. Điều đó phần nào đã chi phối đến 
 Nghệ muốn nói cho cạn kiệt mà vẫn tuân thủ 
 lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật của họ: nề nếp 
 thể lục bát chuẩn mực thì tất yếu phải “làm 
 hơn, và dường như cũng bảo thủ hơn.
 thêm” một số cặp lục bát nữa. Để giải quyết 
 Tất nhiên, khi xem xét hiện tượng kéo dài cái mâu thuẫn giữa ý nhiều và lời ít, người xứ 
 âm tiết trong câu thơ của ca dao - dân ca xứ Nghệ đã chọn giải pháp dồn ý vào một hoặc hai 
 Nghệ, chúng ta cũng không thể không xét đến cặp lục bát là cùng. Đã dồn ý, muốn cho đủ ý 
 sự chi phối của giai điệu âm nhạc đối với lời thì tất yếu phải thêm từ, thêm âm tiết. Thành 
 của bài ca. Trong hát Ví Nghệ - Tĩnh, giai điệu ra ca dao lục bát Nghệ - Tĩnh tuy dài nhưng rất 
 bài hát thường có tính chất đay, da diết, sâu hàm súc, một sự hàm súc đặc biệt. Nghe, đọc 
 lắng. Câu thơ trong ca dao xứ Nghệ thường những câu lục bát dôi âm tiết trong ca dao xứ 
 được mở rộng lượng âm tiết, rất có thể là để Nghệ, chúng ta vẫn cảm nhận một sự cô đúc, 
 uốn theo giai điệu trong hát Ví Nghệ - Tĩnh. một trạng thái tâm hồn dồn nén đến bức xúc. 
 (Nguyên nhân này đúng với những bài lục bát Trong những câu lục bát biến thể không có một 
 biến thể thuộc về hát Ví). từ nào thừa, “ký sinh”. Nói cách khác, thơ lục bát 
66 Số 28 - Tháng 6 - 2019
 VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
biến thể của xứ Nghệ đã co rút nhiều câu lục bát Nghệ rõ ràng có một sức tác động mạnh hơn 
vào hai hoặc bốn câu, co rút các ý tình lẽ ra phải so với bài ca dao xứ Bắc. Với câu thơ lục bát 
được thể hiện bằng hàng loạt từ ngữ vào một trải dài, ca dao Nghệ - Tĩnh đã tạo thêm cho ý 
vài từ (có khi ở ngay sự ngưng nghỉ bất thường thơ những chiều kích mới: chiều dài của thời 
trong trường hợp thiếu vắng một hoặc hai âm gian, chiều sâu của tâm tư và dàn trải trong 
tiết trong những câu biến thể). chiều rộng nhập nhoè của ngữ nghĩa. Chính 
 Bài ca dao xứ Nghệ sau đây: điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm lâu 
 bền cho bài ca dao. Ở đây, chúng ta bắt gặp 
 Muối ba năm muối đang còn mặn
 hiện tượng sáng tạo lại các thi liệu vay mượn. 
 Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
 Ca dao Nghệ - Tĩnh đã sáng tạo lại các thi liệu 
 Đôi ta tình nghĩa nặng dày
 “gừng cay”, “muối mặn” của ca dao Bắc Bộ theo 
 Dù có xa nhau đi chăng nữa thì ba vạn sáu 
 cách thức của riêng mình. 
 ngàn ngày cũng nỏ xa
 So với bài ca dao Bắc Bộ: 3.3. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử 
 Tay bưng đĩa muối chén gừng dụng câu chữ trong thể tự do
 Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau Bên cạnh những ưu điểm, thơ lục bát có 
 Có thể thấy, câu Ví xứ Nghệ dường như đã những hạn chế nhất định trong việc biểu 
mượn ý của câu này mà dàn trải ra. Chính sự hiện cái quyết liệt sôi nổi của hiện thực khách 
dàn trải đó đã mang đến cho người đọc cái ấn quan. Cuộc sống với tất cả những sự kiện bề 
tượng không thể quên được. Là vì ở câu ca dao bộn, những chất liệu phong phú và sắc thái đa 
Bắc Bộ có nói đến vị mặn của muối, vị cay của dạng nhất cũng gặp khó khăn khi đưa vào thể 
gừng, nhưng nói như vậy là để dặn dò nhau lục bát hay song thất lục bát. Chính vì vậy mà 
phải chung thuỷ dù có trải qua bao nhiêu nỗi có sự xuất hiện của thể thơ tự do trong thơ ca. 
cay đắng của cuộc đời. Ca dao xứ Nghệ không So với các thể thơ truyền thống, thơ tự do có 
chỉ nói thuộc tính của gừng là cay, của muối là điều kiện thuận lợi và khả năng để bảo lãnh 
mặn, mà cái độ bền của cay mặn mới là điều họ cảm hứng và chất liệu thi ca nói trên hơn. Và 
cần nói, để từ đó mà nói lên chuyện quên hay các tác giả bình dân xứ Nghệ đã tận dụng tính 
không quên phải phụ thuộc vào sự thử thách ưu việt này để sáng tạo những bài thơ mang 
của thời gian. Cái nội dung độ dài của thời gian phong cách phóng túng. Chẳng hạn như bài 
mới là điều cần thiết. Và người xứ Nghệ phải ca dao sau đây:
tìm hết cách để đưa cái độ dài thử thách đó Cha mẹ có cản đường bắc
vào ca dao của mình. Sự dồn lời ở câu tám cuối Thì ta rẽ ngoặt đường nam
cùng là kết quả của sự “đẻ đau” những tình ý Cha mẹ có cản đường nam
chất chứa trong lòng những kẻ say nhau. Bởi Thì ta rẽ sang đường bắc
vậy, câu bát trải dài đến 16 chữ khiến cho bài Ví dù có trục trặc cả đường bắc lẫn đường nam
thơ có một sự vang vọng, khiến cho tình ý như Thì xúm tay ta nhen lửa đốt cả xóm làng ta đi.
được xoáy sâu hơn, tha thiết, diết da vô chừng. Tình yêu, nếu thuận buồm xuôi gió thì có 
Lối diễn đạt kéo dài “dù có xa nhau đi chăng lẽ khó thành thơ, hoặc chỉ thành thơ khi đôi 
nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày” sau khi gây lứa chưa thành gia thất. Tình yêu trắc trở với 
được cảm giác rất xa lại được phủ nhận bằng những vò xé con tim mới đem lại cho nhân loại 
một kết luận đột ngột: “cũng nỏ xa” đã khiến những bài ca vĩnh hằng. Ca dao xứ Nghệ cũng 
cho ý nghĩa khẳng định được tăng lên, nhờ đó vậy, những câu ca dao hay nhất là những câu 
mà tấm chân tình sắt son kia dường như trở nói lên tâm trạng của những người đang yêu 
thành bất tử... trước những cản trở trên đường tình của họ. 
 Như vậy, cùng sử dụng những biểu tượng Đôi lứa trong bài ca dao này đang gặp trở ngại 
nghệ thuật truyền thống “muối mặn”, “gừng và là những trở ngại vô cùng to lớn. Thể tự do 
cay”, nhưng cách diễn đạt của bài ca dao xứ với 4 câu 6 chữ chia thành hai cặp, mỗi cặp nêu 
 NGHIÊN CỨU
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂ N H ÓA 67
 NGHIÊN CỨU
 VĂ N H ÓA
 lên một khó khăn và một cách vượt qua khó đó đã nói rằng: “Thơ như thỏi nước đá chạm 
 khăn: “cản đường bắc/ngoặt đường nam; cản vào ngũ quan của độc giả”. Ca dao - dân ca xứ 
 đường nam/sang đường bắc”, hai trở ngại và Nghệ cũng có thể ví như vậy bởi ấn tượng mà 
 hai cách khắc phục này không đi sâu vào tiểu nó đem lại cho cảm giác của chúng ta là rất 
 tiết, đều tương đương về cường độ. Mỗi trở đặc biệt. Cái xù xì, gân guốc, rắn rỏi, mạnh 
 ngại dường như đang còn một lối thoát và đôi mẽ của câu chữ (và cả của những yếu tố thi 
 trai gái sẽ tìm được cách thoát bằng lối thoát luật khác nữa như vần, nhịp) đã khiến cho 
 còn lại đó. Đến khi không còn một lối thoát sự phô diễn của người xứ Nghệ có thể không 
 nào nữa, tình thế dường như đã bế tắc hoàn được khéo léo, có thể thô, cứng, nhưng nó lại 
 toàn, tác giả đã phải mượn đến biến thể dôi đạt tới sự xúc cảm nhanh nhất, mạnh nhất. 
 từ ở câu 6: “Ví dù có trục trặc cả đường bắc lẫn Dáng nét đặc biệt đó, chỉ có thể là sản phẩm 
 đường nam” để nói cho hết, cho rõ mức độ của của một vùng đất luôn có những va đập dữ 
 sự bế tắc. Trước tình thế không còn lối thoát dội và khốc liệt, buộc con người luôn phải 
 đó có lẽ nhiều người đã phải đành khoanh tay kiên cường, quyết liệt vươn lên.
 “chịu trận”, nhưng người con trai và người con H.T.T.H
 gái được sinh ra trên mảnh đất xứ Nghệ này sẽ (ThS., Khoa Du lịch, Trường ĐHVHHN) 
 phá bung tất cả, đạp lên tất cả để đến bằng 
 được với nhau. Và, họ đã mượn đến dạng biến Tài liệu tham khảo
 thể dôi âm tiết của câu bát để nói lên cái quyết 
 1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ 
 liệt của mình.
 Tĩnh, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội.
 Bài ca dao đã thể hiện tình trạng bế tắc và 
 2. Nguyễn Nhã Bản (1993), “Bàn thêm về hình 
 cái quyết tâm vượt trở ngại theo mức độ tăng thức của hát Dặm Nghệ Tĩnh”, Tạp chí Văn hóa dân 
 tiến. Số lượng âm tiết trong bài ca cũng được gian, số 1, tr.41-44.
 tăng lên theo mức độ của trở ngại và quyết 
 3. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (1962), 
 tâm; phối hợp với các vần trắc, phối hợp với 
 Hát Dặm Nghệ Tĩnh, tập 1 - 2, Nxb. Khoa học xã 
 nét cường độ của từ ngữ (cản, cản, trục trặc; hội, Hà Nội.
 đường bắc, đường nam, cả đường bắc đường 
 4. Ninh Viết Giao và tập thể tác giả (1996), Kho 
 nam; rẽ ngoặt, rẽ sang, nhen lửa đốt cả xóm 
 tàng ca dao xứ Nghệ, Nxb. Nghệ An, Nghệ An.
 làng; ta, ta, xúm tay ta) phù hợp với sự tăng 
 tiến của mức độ quyết tâm, bài ca dao với thể 5. Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bưu (1976), 
 Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty Văn hoá Hà Bắc.
 tự do này đã nói lên được tính quyết liệt rất 
 đặc trưng cho con người của xứ miền Trung 6. Vĩnh Long (1984), “Hát Dặm Nghệ Tĩnh”, Tạp 
 khắc nghiệt. chí Văn hóa dân gian, số 4, tr.38-43.
 Kết luận 7. Đặng Văn Lung, Vương Anh (1988), Đẻ đất 
 đẻ nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
 Tuy chỉ khảo sát và phân tích trong một 
 8. Lạc Nam (1996), Tìm hiểu các thể thơ, Nxb. 
 phạm vi hạn hẹp, nhưng ít nhiều đã cho thấy 
 Văn học, Hà Nội.
 được phong cách nghệ thuật của người dân 
 xứ Nghệ trong sáng tạo thơ ca. Đó là sự đột 9. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các 
 phá khi sử dụng thể thơ, sự biến đổi khá sinh thể thơ và sự phát triển của hình thức thơ ca trong 
 văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
 động về số lượng âm tiết. Nhìn chung, hình 
 thức câu thơ của ca dao - dân ca xứ Nghệ tỏ 10. Nhóm Lam Sơn (1963), Dân ca Thanh Hoá, 
 ra phóng túng hơn hẳn so với ca dao - dân Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
 ca đồng bằng Bắc Bộ. Tuy óng ả, mẫu mực, Ngày nhận bài: 16 - 4 - 2019
 nhưng do ít có sự biến động về thể thơ, câu 
 chữ, cho nên thơ ca bình dân đồng bằng Bắc Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 6 - 2019
 Bộ ít nhiều giảm thiểu khả năng tạo sinh. Ai Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019
68 Số 28 - Tháng 6 - 2019

File đính kèm:

  • pdfthe_tho_va_nghe_thuat_su_dung_cau_chu_trong_ca_dao_dan_ca_xu.pdf