The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma

Obstructive sleep apnea(OSA) syndrome is the most common of respiratory disorders

during sleep. OSA in children is considered as one of causes inducing health problem in

children. OSA is common in children from 2 to 8 years old and usually associated with the

development of lymphoid tissue around the upper airway in children. OSA is also frequent

among children with asthma. Recent studies showed that both OSA and asthma have been

involved in inflammatory diseases of the upper and lower respiratory tract. The obstructive

symptoms of these two diseases can be the same, making it difficult to diagnose and treat.

Furthermore, OSA can affect the effectiveness of asthma control, and conversely, the

severity of asthma increases the OSA symptoms. OSA is a comorbid disease and a risk

factor of difficult-to-treat asthma. In children with asthma, clinicians should do early

diagnosis and accurate treatment of OSA when these patients have suspicious symptoms.

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 1

Trang 1

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 2

Trang 2

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 3

Trang 3

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 4

Trang 4

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 5

Trang 5

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 6

Trang 6

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 7

Trang 7

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 8

Trang 8

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 9

Trang 9

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 8360
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma

The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma
 Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
1 
 Overview 
The Overview of Obstructive Sleep Apnea (OSA) Syndrome in 
Children with Asthma 
Duong Quy Sy1*, Nguyen Ngoc Quynh Le2, Nguyen Hoang Yen3, 
Nguyen Thi Thanh Mai4, Le Thi Minh Huong2 
1Lam Dong Medical College, 16 Ngo Quyen, Da Lat, Lam Dong, Vietnam 
2Vietnam National Children’s Hospital, No 18/879 La Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
3Phu Tho General Hospital, D. Tan Dan, Viet Tri City, Phu Tho, Vietnam 
4Hanoi Medical University, No 1, Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
Received 29 November 2020 
Revised 25 December 2020, Accepted 26 December 2020 
Abstract 
Obstructive sleep apnea(OSA) syndrome is the most common of respiratory disorders 
during sleep. OSA in children is considered as one of causes inducing health problem in 
children. OSA is common in children from 2 to 8 years old and usually associated with the 
development of lymphoid tissue around the upper airway in children. OSA is also frequent 
among children with asthma. Recent studies showed that both OSA and asthma have been 
involved in inflammatory diseases of the upper and lower respiratory tract. The obstructive 
symptoms of these two diseases can be the same, making it difficult to diagnose and treat. 
Furthermore, OSA can affect the effectiveness of asthma control, and conversely, the 
severity of asthma increases the OSA symptoms. OSA is a comorbid disease and a risk 
factor of difficult-to-treat asthma. In children with asthma, clinicians should do early 
diagnosis and accurate treatment of OSA when these patients have suspicious symptoms. 
Keywords: Obstructive sleep apnea; Asthma; Apnea-Hypopnea 
* 
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: sduongquy.jfvp@gmail.com 
 https://doi.org/10.47973/jprp.v4i6.270 
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
2 
Tổng quan về ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ 
ở trẻ em bị hen phế quản 
Dương Quý Sỹ1*, Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê2, Nguyễn Hoàng Yến3, 
Nguyễn Thị Thanh Mai4, Lê Thị Minh Hương2 
1Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng, 16 Ngô Quyền, Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam 
2Bệnh viện Nhi Trung ương, Số 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
3Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ, Phường Tân Dân, TP. Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ, Việt Nam 
4Đại học Y Hà Nội, Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày29 tháng 11 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày26 tháng 12 năm 2020 
Tóm tắt 
Hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (NTTNKN) là dạng phổ biến nhất của rối loạn hô 
hấp trong khi ngủ. NTTNKN ở trẻ em được coi là một trong những nguyên nhân gây ra 
các vấn đề sức khỏe nghiêm trọngở trẻ em. Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2- 8 tuổi và liên quan 
với sự phát triển của mô bạch huyết quanh đường hô hấp trên ở trẻ em. Đặc biệt NTTNKN 
rất thường gặp ở trẻ em bị hen phế quản (HPQ).Các nghiên cứu gần đây cho thấy HPQ và 
NTTNKN đều là bệnh lý viêm đường hô hấp trên và đường hô hấp dưới. Các triệu chứng 
tắc nghẽn của 2 bệnh này có thể giống nhau gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị. 
Hơn nữa, NTTNKN có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát HPQ, và ngược lại, mức độ 
nặng của hen làm tăng biểu hiện NTTNKN. NTTNKN là bệnh đồng mắc và là yếu tố nguy 
cơ của bệnh hen khó trị. Ở những trẻ HPQ, thầy thuốc lâm sàng cần chẩn đoán sớm 
NTTNKN và điều trị kip thời khi trẻ có những dấu hiệu nghi ngờ. 
Từ khóa: Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ; Hen phế quản; Ngưng thở - giảm thở. 
1. Mở đầu 
Hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ 
(NTTNKN) được định nghĩa là sự lặp đi lặp 
lại hiện tượng tắc nghẽn một phần hay hoàn 
toàn đường hô hấp trên trong khi ngủ dẫn 
đến hậu quả giảm thở hoặc ngưng thở hoàn 
toàn kèm theo những gắng sức hô hấp. 
NTTNKN là dạng phổ biến nhất của rối 
loạn hô hấp trong khi ngủ. Trong những 
năm gần đây NTTNKN ở trẻ em được coi là 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: sduongquy.jfvp@gmail.com 
 https://doi.org/10.47973/jprp.v4i6.270 
một trong những nguyên nhân gây ra các 
vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ 
từ 1- 5% các bệnh gặp ở trẻ em. 
Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2 - 8 tuổi và 
liên quan với sự phát triển của mô bạch 
huyết quanh đường hô hấp trên ở trẻ em. 
Đặc biệt NTTNKN rất thường gặp ở trẻ em 
bị hen phế quản (HPQ). 
HPQ là một trong những bệnh lý mạn 
tính thường gặp nhất ở cả người lớn và trẻ 
em. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, 
tỷ lệ HPQ ở trẻ em là 10 - 12% và có xu 
hướng gia tăng, đặc biệt tại các nước châu 
Á. Các nghiên cứu gần đây cho thấy HPQ 
và NTTNKN đều là bệnh lý viêm đường hô 
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
3 
hấp trên và đường hô hấp dưới. Các triệu 
chứng tắc nghẽn của 2 bệnh này có thể 
giống nhau gây khó khăn cho việc chẩn 
đoán và điều trị. Hơn nữa, NTTNKN có thể 
ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát HPQ, và 
ngược lại, mức độ nặng của hen làm tăng 
nặng biểu hiện NT ... 
góp phần gây viêm phế quản, tăng đáp ứng 
và tái tạo mạch máu ở những bệnh nhân 
HPQ. 
Leptin 
Leptin là một protein được sản xuất từ 
mô mỡ lưu thông trong hệ mạch máu và 
hoạt động trên vùng dưới đồi để tạo cảm 
giác no và tăng cường trao đổi chất. Nồng 
độ leptin tăng cao ở bệnh nhân NTTNTKN. 
Bên cạnh đó, một số tác giả tìm thấy bằng 
chứng về việc sản xuất leptin cục bộ trên 
đường hô hấp đã hỗ trợ quan điểm cho rằng 
leptin đóng vai trò quan trọng trong quá 
trình hô hấp, phát triển phổi và cơ chế bệnh 
sinh của các bệnh hô hấp khác nhau. 
Sideleva và cộng sự kết luận rằng leptin có 
thể góp phần làm tăng phản ứng của đường 
thở, cùng với sự gia tăng nồng độ leptin 
huyết thanh được quan sát thấy trên bệnh 
nhân NTTNKN, hormon này được gợi ý là 
có liên quan đến các đợt cấp của hen trên 
bệnh nhân NTNTKN [6]. 
NTTNKN- trào ngược dạ dày thực quản 
Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trào 
ngược dạ dày thực quản gặp ở 58 - 62% 
bệnh nhân NTTNKN. Sự gia tăng đáng kể 
áp suất âm do tắc nghẽn đường thở trên có 
thể dẫn đến sự di chuyển ngược của các chất 
chứa trong dạ dày gây trào ngược dạ dày 
thực quản. Trào ngược dạ dày-thực quản 
gây ra do NTTNKN có thể đóng một vai trò 
quan trọng trong các triệu chứng hen. Trào 
ngược dạ dày-thực quản có thể trực tiếp gây 
cơn hen do tổn thương niêm mạc đường hô 
hấp bởi các hạt hơi nước có chứa axit và 
pepsin của dạ dày hoặc axit mật và trypsin 
của tá tràng. Mặt khác, trào ngược dạ dày 
thực quản gián tiếp gây hen thông qua cơ 
chế trung gian mơ hồ hoặc phản xạ co thắt 
phế quản. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hen - 
NTTNKN - trào ngược dạ dày - thực quản ở 
trẻ em vẫn còn phức tạp. 
Ngủ ngáy 
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngáy lặp 
đi lặp lại có thể gây tổn thương mô mềm 
xung quanh đường thở trên và mũi do tần số 
rung của nó và dẫn đến viêm đường thở. 
Ngoài chấn thương cơ học, sự gia tăng âm 
thanh phế vị trong các đợt ngưng thở trong 
NTTNKN sẽ kích hoạt các thụ thể 
muscarinic trong đường thở trung tâm, dẫn 
đến co thắt phế quản và các cơn hen về 
đêm. 
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
8 
Gián đoạn giấc ngủ 
Nhiều tác giả lập luận rằng sự xáo trộn 
trong cấu trúc giấc ngủ có thể góp phần vào 
sự tương tác hai chiều giữa NTTNKN và 
hen. Giấc ngủ bị gián đoạn và thường xuyên 
bị kích thích do NTNTKN có khả năng gây 
tăng sức cản đường thở và làm giảm phản 
ứng kích thích đối với sự co thắt phế quản. 
Hơn nữa, các nghiên cứu ban đầu về rối 
loạn giấc ngủ đã chứng minh rằng những 
bệnh nhân bị hen thở không đều trong giấc 
ngủ REM (giảm nhịp thở, ngưng thở và tăng 
thở) so với những bệnh nhân không bị hen 
[29]. Điều này có thể liên quan đến sự gia 
tăng hoạt tính phó giao cảm(cholinergic) 
xảy ra trong giấc ngủ REM, từ đó điều 
chỉnh kích thước và phản ứng của đường hô 
hấp dưới. 
4. Mối liên quan về điều trị giữa hen phế 
quản và NTTNKN 
4.1.Thở máy áp lực dương trong điều trị 
NTTNKN 
Thở máy áp lực dương (CPAP) được chỉ 
định trong điều trị NTTNTKN từ những 
năm 1980 của thế kỷ trước. Máy sử dụng áp 
lực dương để duy trì đường thở không bị 
xẹp và làm giảm đáng kể các biến cố hô hấp 
và các hậu quả liên quan của chúng trong 
khi ngủ. Do đó CPAP loại bỏ hoặc làm 
giảm tình trạng thiếu oxy liên tục mãn tính 
và sự phân mảnh giấc ngủ được quan sát 
thấy trong các trường hợp ngưng thở. 
Nghiên cứu gần đây của Kauppi và cộng sự 
khảo sát hiệu quả của CPAP đối với bệnh 
nhân NTTNKN. Trong nghiên cứu trên, các 
tác giả khảo sát thấy tỷ lệ NTNTKN đồng 
mắc hen phế quản là 13%. Sau khi sử dụng 
CPAP để điều trị NTTNKN, mức độ 
nghiêm trọng của hen do bệnh nhân tự báo 
cáo giảm đáng kể từ 48,3 (29,6) xuống 33,1 
(27,4) (p <0,001), và điểm ACT tăng đáng 
kể từ 15,35 (5,3) lên 19,8 (4,6) (p <0,001) 
dù không có sự thay đổi chỉ số khối cơ thể 
(BMI) [31]. Hơn nữa, trong số bệnh nhân 
thở máy CPAP, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng 
thuốc cắt cơn hen giảm từ 36% xuống 8% 
(p <0,001) [7]. Tuy nhiên ở trẻ em việc điều 
trị NTTNKN bằng CPAP chỉ được chỉ định 
trong một số trường hợp đặc biệt vì khả 
năng dung nạp của trẻ rất thấp và thở máy 
CPAP kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát 
triển của hình thể khuôn mặt. 
4.2.Phẫu thuật cắt amidan - nạo VA điều trị 
NTTNKN 
Cắt amidan và nạo VA được coi là 
phương pháp điều trị ưu tiên cho bệnh nhi 
có NTNTKN [8]. Trong 5 năm qua, nhiều 
tác giả đã nghiên cứu xem cắt amidal có thể 
cải thiện các triệu chứng hen ở trẻ em hay 
không. Bhattacharjee và cộng sự đã nghiên 
cứu trên nhóm trẻ em độ tuổi từ 3 đến 17 
tuổi [9]. Tổng số 13.506 trẻ em mắc bệnh 
hen đã trải qua phẫu thuật cắt amidan (AT+) 
được đưa vào nghiên cứu và 27.012 trẻ em 
mắc bệnh hen không cắt amidan (AT-) đưa 
vào nhóm chứng. Khoảng 27% bệnh nhân 
trong nhóm AT + có một số dạng rối loạn 
thở khi ngủ bao gồm ngưng thở khi ngủ, 
ngáy hoặc rối loạn giấc ngủ. Kết quả cho 
thấy nhóm AT+ giảm 30,2% đợt cấp của 
hen phế quản (p <0,0001) và giảm 37,9% 
mức độ nặng của bệnh hen (p <0,0001). 
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng số lần đến 
khám cấp cứu liên quan đến hen và nhập 
viện liên quan đến bệnh hen giảm xuống 
đáng kể lần lượt là 25,6% (p <0,0001) và 
35,8% (p = 0,02) [9]. Ngược lại, không có 
sự khác biệt về hiệu quả điều trị hen trong 
nhóm không cắt amidan (AT-). Tóm lại, cắt 
amidan điều trị NTNTKN sẽ cải thiện kết 
quả điều trị hen và sau đó sẽ giảm việc sử 
dụng các thuốc điều trị hen ở trẻ em. 
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
9 
Trong nghiên cứu khác của Kheirandish-
Gozal và cộng sự trên 92 trẻ em hen phế 
quản từ 3 đến 10 tuổi có kết quả kiểm soát 
kém với tần suất cơn hen cấp trung bình mỗi 
năm là 3,4 ± 0,4 cơn/ năm đi đo đa ký giấc 
ngủ [10]. Kết quả cho thấy 58 trẻ hen có 
NTTNKN (với AHI > 5 lần/ giờ) chiếm tỷ 
lệ 63% [10]. Ba mươi lăm trẻ NTTNKN 
đồng mắc hen phế quản đã được cắt amidan 
(AT+) và các tác giả tiến hành so sánh hiệu 
quả kiểm soát hen trước và 1 năm sau cắt 
amidan. Số liệu cho thấy tần suất cơn hen 
cấp giảm rõ rệt ở nhóm cắt amidan từ 4,1 ± 
1,3 cơn/năm xuống 1,8 ± 1,4 cơn/năm (p 
<0,0001). Tuy nhiên, không có thay đổi nào 
về hiệu quả kiểm soát hen trong nhóm 
không có NTTNKN. Tác giả kết luận rằng 
điều trị NTTNKN cải thiện đáng kể về mức 
độ nghiêm trọng của bệnh hen ở trẻ 
NTTNKN đồng mắc hen phế quản [10]. 
4.3.Liệu pháp chống viêm 
Các nghiên cứu trên trẻ em mắc 
NTNTKN cho thấy NTNTKN có liên quan 
đến các phản ứng viêm toàn thân và viêm 
khu trú tại đường thở trên. Phản ứng viêm 
hệ thống do NTNTKN biểu hiện bởi tăng 
tình trạng CRP trong huyết tương, tăng số 
lượng bạch cầu trung tính trong đờm, tăng 
nồng độ cysteinyl leukotrien trong nước tiểu 
và tăng mức độ leukotrien và prostaglandin 
trong khí thở ra ở trẻ em mắc NTNTKN 
[11]. Phản ứng viêm tại chỗ trên đường hô 
hấp trên ở trẻ em mắc NTTNKN biểu hiện 
bằng tăng cytokin tiền viêm TNF-αIL-6, IL-
1α và tăng tế bào T và giảm tế bào B trong 
mô amiđan, tăng biểu hiện các thụ thể với 
leukotrien trong amidan, tăng biểu hiện các 
thụ thể với cysteinyl leukotrien trên tế bào T 
được sản xuất từ amidan và tăng điều hòa 
các thụ thể với glucocorticoid trong amidan. 
Các liệu pháp chống viêm nhằm làm 
giảm phì đại VA - amidan và giảm viêm 
đường hô hấp trên đã được dùng để điều trị 
NTTNKN ở trẻ em. Steroid toàn thân ngắn 
ngày không có tác dụng điều trị NTTNKN 
và steroid toàn thân kéo dài gây nhiều tác 
dụng phụ toàn thân. Do đó steroid dạng xịt 
tại mũi và thuốc đối kháng thụ thể 
leukotriene đã được lựa chọn và có hiệu quả 
trong điều trị NTTNKN mức độ nhẹ đến 
trung bình. 
4.4.Corticosteroid dạng xịt tại mũi 
Trong thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu 
cho thấy corticosteroid dạng xịt tại mũi có 
hiệu quả trong việc làm giảm các triệu 
chứng của NTNTKN và giảm kích thước 
của amidan. Mặt khác, corticosteroid xịt tại 
mũi còn có hiệu quả làm các tắc nghẽn do 
viêm mũi dị ứng; giảm tình trạng ngứa mũi 
thường gặp ở trẻ ngủ ngáy. Corticosteroid 
xịt tại mũi cũng được chứng minh là làm 
giảm kích thước amidan, không phụ thuộc 
vào cơ địa dị ứng của từng cá nhân. Một 
nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi trên 62 trẻ 
em mắc NTNTKN mức độ nhẹ chẩn đoán 
bằng đa ký giấc ngủ được điều trị bằng 
budesonide xịt mũi. Các bệnh nhân được đo 
đa ký giấc ngủ và chụp X-quang đánh giá 
kích thước của amidal. Kết quả cho thấy 
điều trị 6 tuần với budesonide tại mũi làm 
giảm mức độ nghiêm trọng của NTNTKN 
và giảm mức độ phì đại amidan. Tác dụng 
này vẫn tồn tại ít nhất 8 tuần sau khi ngừng 
điều trị [12]. Một nghiên cứu khác đánh giá 
hiệu quả của liệu pháp corticosteroid đường 
mũi đối với các tế bào Tregs và các cytokin 
gây viêm khác trong mô amidal ở trẻ em 
mắc NTNTKN [13].Các bệnh nhân được 
điều trị bằng fluticasone furoate xịt mũi 2 
tuần trước khi cắt amidan. Kết quả cho thấy 
các tế bào được phân lập từ mô amidan của 
những bệnh nhân được điều trị bằng 
fluticasone giải phóng IL-6 ít hơn đáng kể 
so với những bệnh nhân không được điều 
trị. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng 
kể về số lượng tế bào CD4 / FOXP3-, CD25 
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
10 
/ FOXP3- hoặc tế bào có TGF-β dương tính 
[13]. 
4.5.Thuốc đối kháng Leukotrien 
Leukotrien là các chất trung gian gây 
viêm của đường hô hấp. Những chất hòa 
tan lipid này có liên quan đến sinh bệnh 
học của cả bệnh hen và dị ứng. Gần đây, các 
nhà nghiên cứu đã nghiên cứu vai trò của 
leukotriene trong sinh lý bệnh của phì đại 
VA-amiđan và NTTNKN, chúng đóng vai trò 
là chất trung gian gây viêm tại chỗ và toàn 
thân ở trẻ bị NTTNKN. Do đó, các thuốc 
chống viêm có thể dùng để điều trị và thay 
thế phẫu thuật cắt amidan trong điều trị 
NTTNKN trẻ em. 
Các nghiên cứu cho thấy điều trị bằng 
các thuốc ức chế thụ thể leukotrien như 
montelukast có hiệu quả làm giảm kích 
thước amidan, giảm chỉ số ngưng thở và các 
rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ ở trẻ 
mắc NTNTKN mức độ nhẹ. Trong một 
nghiên cứu mù đôi có đối chứng giả dược, 
46 trẻ em (tuổi trung bình: 4,8 tuổi) được 
chẩn đoán với NTNTKN được điều trị bằng 
montelukast uống hàng ngày hoặc giả dược 
trong 12 tuần [14].Kết quả cho thấy những 
đứa trẻ dùng montelukast có chỉ số ngưng 
thở AHI giảm đáng kể. Một nghiên cứu 
khác của tác giả Kheirandish L và cộng sự 
về hiệu quả của liệu pháp kết hợp steroid xịt 
tại mũi với thuốc kháng leukotrien đường 
uống ở trẻ em còn NTTNKN tồn lưu sau 
phẫu thuật cắt amidan [15]. 22 bệnh nhân 
(tuổi trung bình 6,3 tuổi) còn chỉ số ngưng 
thở AHI trong khoảng 1- 5 lần/ giờ 10- 14 
tuần sau cắt amidan được đưa vào nghiên 
cứu. Nhóm trẻ được sử dụng budesonide xịt 
mũi và montelukast đường uống trong 12 
tuần. 14 trẻ khác đáp ứng các tiêu chí như 
trên sử dụng giả dược để làm nhóm chứng. 
Sau 12 tuần, nhóm điều trị có cải thiện đáng 
kể về chỉ số AHI so với nhóm sử dụng giả 
dược. 
Do đó, thuốc xịt mũi corticosteroid và 
thuốc ức chế leukotrien ở trẻ em được 
khuyến cáo điều trị cho trẻ NTTNKN, đặc 
biệt ở những trẻ NTTNKN mức độ nhẹ và 
dai dẳng sau khi đã cắt amidan. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Yen NH, Thuy NTD, Sy DQ. Study of the 
clinical and functional characteristics of 
asthmatic children with obstructive sleep 
apnea. J Asthma Allergy 2017;10:285-292. 
https://doi.org/10.2147/JAA.S147005. 
[2] Togias A. Rhinitis and asthma: evidence for 
respiratory system integration. The Journal 
of allergy and clinical immunology 
2003;111(6):1171-1183. 
https://doi.org/10.1067/mai.2003.1592. 
[3] Peppard PE, Young T, Palta M et al. 
Longitudinal study of moderate weight 
change and sleep-disordered breathing. 
Jama 2000;284(23):3015-3021. 
https://doi.org/10.1001/jama.284.23.3015. 
[4] Yigla M, Tov N, Solomonov A et al. 
Difficult-to-control asthma and obstructive 
sleep apnea. The Journal of asthma: official 
journal of the Association for the Care of 
Asthma 2003;40(8):865-871. 
https://doi.org/10.1081/jas-120023577. 
[5] Nadeem R, Molnar J, Madbouly EM et al. 
Serum inflammatory markers in obstructive 
sleep apnea: a meta-analysis. J Clin Sleep Med 
2013;9(10):1003-1012. 
https://doi.org/10.5664/jcsm.3070. 
[6] Sideleva O, Suratt BT, Black KE et al. 
Obesity and asthma: an inflammatory 
disease of adipose tissue not the airway. 
American journal of respiratory and critical 
care medicine 2012; 186(7):598-605. 
https://doi.org/10.1164/rccm.201203-
0573OC. 
[7] Kauppi P, Bachour P, Maasilta P et al. 
Long-term CPAP treatment improves 
asthma control in patients with asthma and 
obstructive sleep apnoea. Sleep Breath 
2016;20(4):1217-1224. https://doi.org/ 
10.1007/s11325-016-1340-1. 
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 
11 
[8] Friedman M, Wilson M, Lin HC et al. 
Updated systematic review of 
tonsillectomy and adenoidectomy for 
treatment of pediatric obstructive sleep 
apnea/hypopnea syndrome. 
Otolaryngology-head and neck surgery 
official journal of American Academy of 
Otolaryngology-Head and Neck Surgery 
2009;140(6):800-808. https://doi.org/ 
10.1016/j.otohns.2009.01.043. 
[9] Bhattacharjee R, Choi BH, Gozal D et al. 
Association of adenotonsillectomy with 
asthma outcomes in children: a longitudinal 
database analysis. PLoS medicine 
2014;11(11):e1001753. 
https://doi.org/10.1371/journal.pmed.10017
53. 
[10] Kheirandish-Gozal L, Dayyat EA, Eid NS 
et al. Obstructive sleep apnea in poorly 
controlled asthmatic children: effect of 
adenotonsillectomy. Pediatric pulmonology 
2011;46(9):913-918. 
https://doi.org/10.1002/ppul.21451 
[11] Kaditis AG, Alexopoulos E, Chaidas K et 
al. Urine concentrations of cysteinyl 
leukotrienes in children with obstructive 
sleep-disordered breathing. Chest 
2009;135(6):1496–1501. 
https://doi.org/10.1378/chest.08-2295. 
[12] Kheirandish-Gozal L, Gozal D. Intranasal 
budesonide treatment for children with 
mild obstructive sleep apnea syndrome. 
Pediatrics 2008;122(1),e149–155. 
https://doi.org/10.1542/peds.2007-3398. 
[13] Esteitie R, Emani J, Sharma S et al. Effect 
of fluticasone furoate on interleukin 6 
secretion from adenoid tissues in children 
with obstructive sleep apnea. Arch 
Otolaryngol Head Neck Surg 2011;137(6): 
576–582. https://doi.org/10.1001/archoto 
.2011.86. 
[14] Goldbart AD, Greenberg- Dotan S, Tal A. 
Montelukast for children with obstructive 
sleep apnea: a double-blind, placebo-
controlled study. Pediatrics 
2012;130(3):e575–580. 
https://doi.org/10.1542/peds.2012-0310. 
[15] Kheirandish L, Goldbart AD, Gozal D. 
Intranasal steroids and oral leukotriene 
modifier therapy in residual sleep-
disordered breathing after tonsillectomy 
and adenoidectomy in children. Pediatrics 
2006;117(1):e61–66. https://doi.org/10.15 
42/peds.2005-0795.

File đính kèm:

  • pdfthe_overview_of_obstructive_sleep_apnea_osa_syndrome_in_chil.pdf