The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma
Obstructive sleep apnea(OSA) syndrome is the most common of respiratory disorders
during sleep. OSA in children is considered as one of causes inducing health problem in
children. OSA is common in children from 2 to 8 years old and usually associated with the
development of lymphoid tissue around the upper airway in children. OSA is also frequent
among children with asthma. Recent studies showed that both OSA and asthma have been
involved in inflammatory diseases of the upper and lower respiratory tract. The obstructive
symptoms of these two diseases can be the same, making it difficult to diagnose and treat.
Furthermore, OSA can affect the effectiveness of asthma control, and conversely, the
severity of asthma increases the OSA symptoms. OSA is a comorbid disease and a risk
factor of difficult-to-treat asthma. In children with asthma, clinicians should do early
diagnosis and accurate treatment of OSA when these patients have suspicious symptoms.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: The overview of obstructive sleep apnea (OSA) syndrome in children with asthma
Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 1 Overview The Overview of Obstructive Sleep Apnea (OSA) Syndrome in Children with Asthma Duong Quy Sy1*, Nguyen Ngoc Quynh Le2, Nguyen Hoang Yen3, Nguyen Thi Thanh Mai4, Le Thi Minh Huong2 1Lam Dong Medical College, 16 Ngo Quyen, Da Lat, Lam Dong, Vietnam 2Vietnam National Children’s Hospital, No 18/879 La Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam 3Phu Tho General Hospital, D. Tan Dan, Viet Tri City, Phu Tho, Vietnam 4Hanoi Medical University, No 1, Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam Received 29 November 2020 Revised 25 December 2020, Accepted 26 December 2020 Abstract Obstructive sleep apnea(OSA) syndrome is the most common of respiratory disorders during sleep. OSA in children is considered as one of causes inducing health problem in children. OSA is common in children from 2 to 8 years old and usually associated with the development of lymphoid tissue around the upper airway in children. OSA is also frequent among children with asthma. Recent studies showed that both OSA and asthma have been involved in inflammatory diseases of the upper and lower respiratory tract. The obstructive symptoms of these two diseases can be the same, making it difficult to diagnose and treat. Furthermore, OSA can affect the effectiveness of asthma control, and conversely, the severity of asthma increases the OSA symptoms. OSA is a comorbid disease and a risk factor of difficult-to-treat asthma. In children with asthma, clinicians should do early diagnosis and accurate treatment of OSA when these patients have suspicious symptoms. Keywords: Obstructive sleep apnea; Asthma; Apnea-Hypopnea * _______ * Corresponding author. E-mail address: sduongquy.jfvp@gmail.com https://doi.org/10.47973/jprp.v4i6.270 D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 2 Tổng quan về ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở trẻ em bị hen phế quản Dương Quý Sỹ1*, Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê2, Nguyễn Hoàng Yến3, Nguyễn Thị Thanh Mai4, Lê Thị Minh Hương2 1Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng, 16 Ngô Quyền, Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam 2Bệnh viện Nhi Trung ương, Số 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 3Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ, Phường Tân Dân, TP. Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ, Việt Nam 4Đại học Y Hà Nội, Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày29 tháng 11 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 25 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày26 tháng 12 năm 2020 Tóm tắt Hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (NTTNKN) là dạng phổ biến nhất của rối loạn hô hấp trong khi ngủ. NTTNKN ở trẻ em được coi là một trong những nguyên nhân gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọngở trẻ em. Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2- 8 tuổi và liên quan với sự phát triển của mô bạch huyết quanh đường hô hấp trên ở trẻ em. Đặc biệt NTTNKN rất thường gặp ở trẻ em bị hen phế quản (HPQ).Các nghiên cứu gần đây cho thấy HPQ và NTTNKN đều là bệnh lý viêm đường hô hấp trên và đường hô hấp dưới. Các triệu chứng tắc nghẽn của 2 bệnh này có thể giống nhau gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị. Hơn nữa, NTTNKN có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát HPQ, và ngược lại, mức độ nặng của hen làm tăng biểu hiện NTTNKN. NTTNKN là bệnh đồng mắc và là yếu tố nguy cơ của bệnh hen khó trị. Ở những trẻ HPQ, thầy thuốc lâm sàng cần chẩn đoán sớm NTTNKN và điều trị kip thời khi trẻ có những dấu hiệu nghi ngờ. Từ khóa: Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ; Hen phế quản; Ngưng thở - giảm thở. 1. Mở đầu Hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (NTTNKN) được định nghĩa là sự lặp đi lặp lại hiện tượng tắc nghẽn một phần hay hoàn toàn đường hô hấp trên trong khi ngủ dẫn đến hậu quả giảm thở hoặc ngưng thở hoàn toàn kèm theo những gắng sức hô hấp. NTTNKN là dạng phổ biến nhất của rối loạn hô hấp trong khi ngủ. Trong những năm gần đây NTTNKN ở trẻ em được coi là * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: sduongquy.jfvp@gmail.com https://doi.org/10.47973/jprp.v4i6.270 một trong những nguyên nhân gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ từ 1- 5% các bệnh gặp ở trẻ em. Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2 - 8 tuổi và liên quan với sự phát triển của mô bạch huyết quanh đường hô hấp trên ở trẻ em. Đặc biệt NTTNKN rất thường gặp ở trẻ em bị hen phế quản (HPQ). HPQ là một trong những bệnh lý mạn tính thường gặp nhất ở cả người lớn và trẻ em. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ HPQ ở trẻ em là 10 - 12% và có xu hướng gia tăng, đặc biệt tại các nước châu Á. Các nghiên cứu gần đây cho thấy HPQ và NTTNKN đều là bệnh lý viêm đường hô D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 3 hấp trên và đường hô hấp dưới. Các triệu chứng tắc nghẽn của 2 bệnh này có thể giống nhau gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị. Hơn nữa, NTTNKN có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát HPQ, và ngược lại, mức độ nặng của hen làm tăng nặng biểu hiện NT ... góp phần gây viêm phế quản, tăng đáp ứng và tái tạo mạch máu ở những bệnh nhân HPQ. Leptin Leptin là một protein được sản xuất từ mô mỡ lưu thông trong hệ mạch máu và hoạt động trên vùng dưới đồi để tạo cảm giác no và tăng cường trao đổi chất. Nồng độ leptin tăng cao ở bệnh nhân NTTNTKN. Bên cạnh đó, một số tác giả tìm thấy bằng chứng về việc sản xuất leptin cục bộ trên đường hô hấp đã hỗ trợ quan điểm cho rằng leptin đóng vai trò quan trọng trong quá trình hô hấp, phát triển phổi và cơ chế bệnh sinh của các bệnh hô hấp khác nhau. Sideleva và cộng sự kết luận rằng leptin có thể góp phần làm tăng phản ứng của đường thở, cùng với sự gia tăng nồng độ leptin huyết thanh được quan sát thấy trên bệnh nhân NTTNKN, hormon này được gợi ý là có liên quan đến các đợt cấp của hen trên bệnh nhân NTNTKN [6]. NTTNKN- trào ngược dạ dày thực quản Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trào ngược dạ dày thực quản gặp ở 58 - 62% bệnh nhân NTTNKN. Sự gia tăng đáng kể áp suất âm do tắc nghẽn đường thở trên có thể dẫn đến sự di chuyển ngược của các chất chứa trong dạ dày gây trào ngược dạ dày thực quản. Trào ngược dạ dày-thực quản gây ra do NTTNKN có thể đóng một vai trò quan trọng trong các triệu chứng hen. Trào ngược dạ dày-thực quản có thể trực tiếp gây cơn hen do tổn thương niêm mạc đường hô hấp bởi các hạt hơi nước có chứa axit và pepsin của dạ dày hoặc axit mật và trypsin của tá tràng. Mặt khác, trào ngược dạ dày thực quản gián tiếp gây hen thông qua cơ chế trung gian mơ hồ hoặc phản xạ co thắt phế quản. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hen - NTTNKN - trào ngược dạ dày - thực quản ở trẻ em vẫn còn phức tạp. Ngủ ngáy Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngáy lặp đi lặp lại có thể gây tổn thương mô mềm xung quanh đường thở trên và mũi do tần số rung của nó và dẫn đến viêm đường thở. Ngoài chấn thương cơ học, sự gia tăng âm thanh phế vị trong các đợt ngưng thở trong NTTNKN sẽ kích hoạt các thụ thể muscarinic trong đường thở trung tâm, dẫn đến co thắt phế quản và các cơn hen về đêm. D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 8 Gián đoạn giấc ngủ Nhiều tác giả lập luận rằng sự xáo trộn trong cấu trúc giấc ngủ có thể góp phần vào sự tương tác hai chiều giữa NTTNKN và hen. Giấc ngủ bị gián đoạn và thường xuyên bị kích thích do NTNTKN có khả năng gây tăng sức cản đường thở và làm giảm phản ứng kích thích đối với sự co thắt phế quản. Hơn nữa, các nghiên cứu ban đầu về rối loạn giấc ngủ đã chứng minh rằng những bệnh nhân bị hen thở không đều trong giấc ngủ REM (giảm nhịp thở, ngưng thở và tăng thở) so với những bệnh nhân không bị hen [29]. Điều này có thể liên quan đến sự gia tăng hoạt tính phó giao cảm(cholinergic) xảy ra trong giấc ngủ REM, từ đó điều chỉnh kích thước và phản ứng của đường hô hấp dưới. 4. Mối liên quan về điều trị giữa hen phế quản và NTTNKN 4.1.Thở máy áp lực dương trong điều trị NTTNKN Thở máy áp lực dương (CPAP) được chỉ định trong điều trị NTTNTKN từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Máy sử dụng áp lực dương để duy trì đường thở không bị xẹp và làm giảm đáng kể các biến cố hô hấp và các hậu quả liên quan của chúng trong khi ngủ. Do đó CPAP loại bỏ hoặc làm giảm tình trạng thiếu oxy liên tục mãn tính và sự phân mảnh giấc ngủ được quan sát thấy trong các trường hợp ngưng thở. Nghiên cứu gần đây của Kauppi và cộng sự khảo sát hiệu quả của CPAP đối với bệnh nhân NTTNKN. Trong nghiên cứu trên, các tác giả khảo sát thấy tỷ lệ NTNTKN đồng mắc hen phế quản là 13%. Sau khi sử dụng CPAP để điều trị NTTNKN, mức độ nghiêm trọng của hen do bệnh nhân tự báo cáo giảm đáng kể từ 48,3 (29,6) xuống 33,1 (27,4) (p <0,001), và điểm ACT tăng đáng kể từ 15,35 (5,3) lên 19,8 (4,6) (p <0,001) dù không có sự thay đổi chỉ số khối cơ thể (BMI) [31]. Hơn nữa, trong số bệnh nhân thở máy CPAP, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng thuốc cắt cơn hen giảm từ 36% xuống 8% (p <0,001) [7]. Tuy nhiên ở trẻ em việc điều trị NTTNKN bằng CPAP chỉ được chỉ định trong một số trường hợp đặc biệt vì khả năng dung nạp của trẻ rất thấp và thở máy CPAP kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của hình thể khuôn mặt. 4.2.Phẫu thuật cắt amidan - nạo VA điều trị NTTNKN Cắt amidan và nạo VA được coi là phương pháp điều trị ưu tiên cho bệnh nhi có NTNTKN [8]. Trong 5 năm qua, nhiều tác giả đã nghiên cứu xem cắt amidal có thể cải thiện các triệu chứng hen ở trẻ em hay không. Bhattacharjee và cộng sự đã nghiên cứu trên nhóm trẻ em độ tuổi từ 3 đến 17 tuổi [9]. Tổng số 13.506 trẻ em mắc bệnh hen đã trải qua phẫu thuật cắt amidan (AT+) được đưa vào nghiên cứu và 27.012 trẻ em mắc bệnh hen không cắt amidan (AT-) đưa vào nhóm chứng. Khoảng 27% bệnh nhân trong nhóm AT + có một số dạng rối loạn thở khi ngủ bao gồm ngưng thở khi ngủ, ngáy hoặc rối loạn giấc ngủ. Kết quả cho thấy nhóm AT+ giảm 30,2% đợt cấp của hen phế quản (p <0,0001) và giảm 37,9% mức độ nặng của bệnh hen (p <0,0001). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng số lần đến khám cấp cứu liên quan đến hen và nhập viện liên quan đến bệnh hen giảm xuống đáng kể lần lượt là 25,6% (p <0,0001) và 35,8% (p = 0,02) [9]. Ngược lại, không có sự khác biệt về hiệu quả điều trị hen trong nhóm không cắt amidan (AT-). Tóm lại, cắt amidan điều trị NTNTKN sẽ cải thiện kết quả điều trị hen và sau đó sẽ giảm việc sử dụng các thuốc điều trị hen ở trẻ em. D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 9 Trong nghiên cứu khác của Kheirandish- Gozal và cộng sự trên 92 trẻ em hen phế quản từ 3 đến 10 tuổi có kết quả kiểm soát kém với tần suất cơn hen cấp trung bình mỗi năm là 3,4 ± 0,4 cơn/ năm đi đo đa ký giấc ngủ [10]. Kết quả cho thấy 58 trẻ hen có NTTNKN (với AHI > 5 lần/ giờ) chiếm tỷ lệ 63% [10]. Ba mươi lăm trẻ NTTNKN đồng mắc hen phế quản đã được cắt amidan (AT+) và các tác giả tiến hành so sánh hiệu quả kiểm soát hen trước và 1 năm sau cắt amidan. Số liệu cho thấy tần suất cơn hen cấp giảm rõ rệt ở nhóm cắt amidan từ 4,1 ± 1,3 cơn/năm xuống 1,8 ± 1,4 cơn/năm (p <0,0001). Tuy nhiên, không có thay đổi nào về hiệu quả kiểm soát hen trong nhóm không có NTTNKN. Tác giả kết luận rằng điều trị NTTNKN cải thiện đáng kể về mức độ nghiêm trọng của bệnh hen ở trẻ NTTNKN đồng mắc hen phế quản [10]. 4.3.Liệu pháp chống viêm Các nghiên cứu trên trẻ em mắc NTNTKN cho thấy NTNTKN có liên quan đến các phản ứng viêm toàn thân và viêm khu trú tại đường thở trên. Phản ứng viêm hệ thống do NTNTKN biểu hiện bởi tăng tình trạng CRP trong huyết tương, tăng số lượng bạch cầu trung tính trong đờm, tăng nồng độ cysteinyl leukotrien trong nước tiểu và tăng mức độ leukotrien và prostaglandin trong khí thở ra ở trẻ em mắc NTNTKN [11]. Phản ứng viêm tại chỗ trên đường hô hấp trên ở trẻ em mắc NTTNKN biểu hiện bằng tăng cytokin tiền viêm TNF-αIL-6, IL- 1α và tăng tế bào T và giảm tế bào B trong mô amiđan, tăng biểu hiện các thụ thể với leukotrien trong amidan, tăng biểu hiện các thụ thể với cysteinyl leukotrien trên tế bào T được sản xuất từ amidan và tăng điều hòa các thụ thể với glucocorticoid trong amidan. Các liệu pháp chống viêm nhằm làm giảm phì đại VA - amidan và giảm viêm đường hô hấp trên đã được dùng để điều trị NTTNKN ở trẻ em. Steroid toàn thân ngắn ngày không có tác dụng điều trị NTTNKN và steroid toàn thân kéo dài gây nhiều tác dụng phụ toàn thân. Do đó steroid dạng xịt tại mũi và thuốc đối kháng thụ thể leukotriene đã được lựa chọn và có hiệu quả trong điều trị NTTNKN mức độ nhẹ đến trung bình. 4.4.Corticosteroid dạng xịt tại mũi Trong thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu cho thấy corticosteroid dạng xịt tại mũi có hiệu quả trong việc làm giảm các triệu chứng của NTNTKN và giảm kích thước của amidan. Mặt khác, corticosteroid xịt tại mũi còn có hiệu quả làm các tắc nghẽn do viêm mũi dị ứng; giảm tình trạng ngứa mũi thường gặp ở trẻ ngủ ngáy. Corticosteroid xịt tại mũi cũng được chứng minh là làm giảm kích thước amidan, không phụ thuộc vào cơ địa dị ứng của từng cá nhân. Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi trên 62 trẻ em mắc NTNTKN mức độ nhẹ chẩn đoán bằng đa ký giấc ngủ được điều trị bằng budesonide xịt mũi. Các bệnh nhân được đo đa ký giấc ngủ và chụp X-quang đánh giá kích thước của amidal. Kết quả cho thấy điều trị 6 tuần với budesonide tại mũi làm giảm mức độ nghiêm trọng của NTNTKN và giảm mức độ phì đại amidan. Tác dụng này vẫn tồn tại ít nhất 8 tuần sau khi ngừng điều trị [12]. Một nghiên cứu khác đánh giá hiệu quả của liệu pháp corticosteroid đường mũi đối với các tế bào Tregs và các cytokin gây viêm khác trong mô amidal ở trẻ em mắc NTNTKN [13].Các bệnh nhân được điều trị bằng fluticasone furoate xịt mũi 2 tuần trước khi cắt amidan. Kết quả cho thấy các tế bào được phân lập từ mô amidan của những bệnh nhân được điều trị bằng fluticasone giải phóng IL-6 ít hơn đáng kể so với những bệnh nhân không được điều trị. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về số lượng tế bào CD4 / FOXP3-, CD25 D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 10 / FOXP3- hoặc tế bào có TGF-β dương tính [13]. 4.5.Thuốc đối kháng Leukotrien Leukotrien là các chất trung gian gây viêm của đường hô hấp. Những chất hòa tan lipid này có liên quan đến sinh bệnh học của cả bệnh hen và dị ứng. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu vai trò của leukotriene trong sinh lý bệnh của phì đại VA-amiđan và NTTNKN, chúng đóng vai trò là chất trung gian gây viêm tại chỗ và toàn thân ở trẻ bị NTTNKN. Do đó, các thuốc chống viêm có thể dùng để điều trị và thay thế phẫu thuật cắt amidan trong điều trị NTTNKN trẻ em. Các nghiên cứu cho thấy điều trị bằng các thuốc ức chế thụ thể leukotrien như montelukast có hiệu quả làm giảm kích thước amidan, giảm chỉ số ngưng thở và các rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ ở trẻ mắc NTNTKN mức độ nhẹ. Trong một nghiên cứu mù đôi có đối chứng giả dược, 46 trẻ em (tuổi trung bình: 4,8 tuổi) được chẩn đoán với NTNTKN được điều trị bằng montelukast uống hàng ngày hoặc giả dược trong 12 tuần [14].Kết quả cho thấy những đứa trẻ dùng montelukast có chỉ số ngưng thở AHI giảm đáng kể. Một nghiên cứu khác của tác giả Kheirandish L và cộng sự về hiệu quả của liệu pháp kết hợp steroid xịt tại mũi với thuốc kháng leukotrien đường uống ở trẻ em còn NTTNKN tồn lưu sau phẫu thuật cắt amidan [15]. 22 bệnh nhân (tuổi trung bình 6,3 tuổi) còn chỉ số ngưng thở AHI trong khoảng 1- 5 lần/ giờ 10- 14 tuần sau cắt amidan được đưa vào nghiên cứu. Nhóm trẻ được sử dụng budesonide xịt mũi và montelukast đường uống trong 12 tuần. 14 trẻ khác đáp ứng các tiêu chí như trên sử dụng giả dược để làm nhóm chứng. Sau 12 tuần, nhóm điều trị có cải thiện đáng kể về chỉ số AHI so với nhóm sử dụng giả dược. Do đó, thuốc xịt mũi corticosteroid và thuốc ức chế leukotrien ở trẻ em được khuyến cáo điều trị cho trẻ NTTNKN, đặc biệt ở những trẻ NTTNKN mức độ nhẹ và dai dẳng sau khi đã cắt amidan. Tài liệu tham khảo [1] Yen NH, Thuy NTD, Sy DQ. Study of the clinical and functional characteristics of asthmatic children with obstructive sleep apnea. J Asthma Allergy 2017;10:285-292. https://doi.org/10.2147/JAA.S147005. [2] Togias A. Rhinitis and asthma: evidence for respiratory system integration. The Journal of allergy and clinical immunology 2003;111(6):1171-1183. https://doi.org/10.1067/mai.2003.1592. [3] Peppard PE, Young T, Palta M et al. Longitudinal study of moderate weight change and sleep-disordered breathing. Jama 2000;284(23):3015-3021. https://doi.org/10.1001/jama.284.23.3015. [4] Yigla M, Tov N, Solomonov A et al. Difficult-to-control asthma and obstructive sleep apnea. The Journal of asthma: official journal of the Association for the Care of Asthma 2003;40(8):865-871. https://doi.org/10.1081/jas-120023577. [5] Nadeem R, Molnar J, Madbouly EM et al. Serum inflammatory markers in obstructive sleep apnea: a meta-analysis. J Clin Sleep Med 2013;9(10):1003-1012. https://doi.org/10.5664/jcsm.3070. [6] Sideleva O, Suratt BT, Black KE et al. Obesity and asthma: an inflammatory disease of adipose tissue not the airway. American journal of respiratory and critical care medicine 2012; 186(7):598-605. https://doi.org/10.1164/rccm.201203- 0573OC. [7] Kauppi P, Bachour P, Maasilta P et al. Long-term CPAP treatment improves asthma control in patients with asthma and obstructive sleep apnoea. Sleep Breath 2016;20(4):1217-1224. https://doi.org/ 10.1007/s11325-016-1340-1. D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11 11 [8] Friedman M, Wilson M, Lin HC et al. Updated systematic review of tonsillectomy and adenoidectomy for treatment of pediatric obstructive sleep apnea/hypopnea syndrome. Otolaryngology-head and neck surgery official journal of American Academy of Otolaryngology-Head and Neck Surgery 2009;140(6):800-808. https://doi.org/ 10.1016/j.otohns.2009.01.043. [9] Bhattacharjee R, Choi BH, Gozal D et al. Association of adenotonsillectomy with asthma outcomes in children: a longitudinal database analysis. PLoS medicine 2014;11(11):e1001753. https://doi.org/10.1371/journal.pmed.10017 53. [10] Kheirandish-Gozal L, Dayyat EA, Eid NS et al. Obstructive sleep apnea in poorly controlled asthmatic children: effect of adenotonsillectomy. Pediatric pulmonology 2011;46(9):913-918. https://doi.org/10.1002/ppul.21451 [11] Kaditis AG, Alexopoulos E, Chaidas K et al. Urine concentrations of cysteinyl leukotrienes in children with obstructive sleep-disordered breathing. Chest 2009;135(6):1496–1501. https://doi.org/10.1378/chest.08-2295. [12] Kheirandish-Gozal L, Gozal D. Intranasal budesonide treatment for children with mild obstructive sleep apnea syndrome. Pediatrics 2008;122(1),e149–155. https://doi.org/10.1542/peds.2007-3398. [13] Esteitie R, Emani J, Sharma S et al. Effect of fluticasone furoate on interleukin 6 secretion from adenoid tissues in children with obstructive sleep apnea. Arch Otolaryngol Head Neck Surg 2011;137(6): 576–582. https://doi.org/10.1001/archoto .2011.86. [14] Goldbart AD, Greenberg- Dotan S, Tal A. Montelukast for children with obstructive sleep apnea: a double-blind, placebo- controlled study. Pediatrics 2012;130(3):e575–580. https://doi.org/10.1542/peds.2012-0310. [15] Kheirandish L, Goldbart AD, Gozal D. Intranasal steroids and oral leukotriene modifier therapy in residual sleep- disordered breathing after tonsillectomy and adenoidectomy in children. Pediatrics 2006;117(1):e61–66. https://doi.org/10.15 42/peds.2005-0795.
File đính kèm:
- the_overview_of_obstructive_sleep_apnea_osa_syndrome_in_chil.pdf