The model of environmental friendly industrial clusters for hanoi capital region
Thủ đô Hà Nội là thành phố có nhiều cụm công nghiệp phân bố rải rác.
Xuất phát từ truyền thống sản xuất kinh doanh lâu đời đã phát sinh
nhiều bất cập liên quan đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh
những cụm công nghiệp mới được quy hoạch vài chục năm gần đây ở
ngoại thành thì thực tế vẫn còn nhiều cụm công nghiệp nằm ngay trong
các quận nội đô. Chính vì vậy việc giải quyết các vấn đề về môi trường
ở tầm vi mô trong từng doanh nghiệp và tầm vĩ mô trong cả cụm công
nghiệp luôn là vấn đề nhức nhối hiện nay. Dựa trên các lý thuyết về
cụm công nghiệp, cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị tuần hoàn,. dưới
góc độ hoạch định và hình thành chính sách công nghệ, tác giả đề xuất
giải pháp xây dựng mô hình "cụm công nghiệp thân thiện với môi
trường" (Environmental Friendly Industrial Cluster - EFIC) cho vùng
thủ đô Hà Nội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: The model of environmental friendly industrial clusters for hanoi capital region
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 03 - 10 3 Email: jst@tnu.edu.vn THE MODEL OF ENVIRONMENTAL FRIENDLY INDUSTRIAL CLUSTERS FOR HANOI CAPITAL REGION Thieu Thi Thu Thao * VNU - Univesity of Social Sciences Humanities ARTICLE INFO ABSTRACT Received: 26/11/2020 Hanoi capital is a city with many scattered industrial clusters. Stemming from a long tradition of production and business, there have been many shortcomings related to environmental pollution. Besides the industrial clusters which have been planned for a few decades in the suburbs, in fact there are still many industrial clusters located in inner districts. Therefore, solving the micro-scale environmental problems in each enterprise and the macro-level in the industrial cluster is always a painful problem today. Based on theories of industrial clusters, cyclic value chains... under the perspective of planning and formulating technology policies, the author proposes a solution to building the model of Environmental Friendly Industrial Cluster - EFIC for Hanoi capital region. Revised: 14/01/2021 Published: 29/4/2021 KEYWORDS Industrial clusters Environmental friendly Technology connection Urban planning Technology policy MÔ HÌNH CỤM CÔNG NGHIỆP THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG CHO VÙNG THỦ ĐÔ HÀ NỘI Thiều Thị Thu Thảo Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT Ngày nhận bài: 26/11/2020 Thủ đô Hà Nội là thành phố có nhiều cụm công nghiệp phân bố rải rác. Xuất phát từ truyền thống sản xuất kinh doanh lâu đời đã phát sinh nhiều bất cập liên quan đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những cụm công nghiệp mới được quy hoạch vài chục năm gần đây ở ngoại thành thì thực tế vẫn còn nhiều cụm công nghiệp nằm ngay trong các quận nội đô. Chính vì vậy việc giải quyết các vấn đề về môi trường ở tầm vi mô trong từng doanh nghiệp và tầm vĩ mô trong cả cụm công nghiệp luôn là vấn đề nhức nhối hiện nay. Dựa trên các lý thuyết về cụm công nghiệp, cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị tuần hoàn,... dưới góc độ hoạch định và hình thành chính sách công nghệ, tác giả đề xuất giải pháp xây dựng mô hình "cụm công nghiệp thân thiện với môi trường" (Environmental Friendly Industrial Cluster - EFIC) cho vùng thủ đô Hà Nội. Ngày hoàn thiện: 14/01/2021 Ngày đăng: 29/4/2021 TỪ KHÓA Cụm công nghiệp Thân thiện môi trường Liên kết công nghệ Quy hoạch đô thị Chính sách công nghệ DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.3805 * Email: thieuthuthao@gmail.com TNU Journal of Science and Technology 226(08): 03 - 10 4 Email: jst@tnu.edu.vn 1. Đặt vấn đề Việc nghiên cứu và đề xuất xây dựng mô hình cụm công nghiệp thân thiện môi trường là rất quan trọng hiện nay đối với các cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây là mô hình phù hợp với tính chất, quy mô doanh nghiệp và quỹ đất dành cho doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn thành phố. Trong giai đoạn từ 2010-2020, cùng với xu thế cạnh tranh phát triển và thương mại hóa các công nghệ thân thiện với môi trường, cómột số nghiên cứu của các học giả trong nước đã đề cập đến các nội dung liên quan như: Khu công nghiệp thân thiện môi trường (CNTTMT), khu công nghiệp sinh thái của nhóm các tác giả Đại học Văn Lang [1], [2]; CNTTMT của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam [3]; Xây dựng khu công nghiệp thân thiện môi trường, Hoài Nguyên (2019) đăng trên báo Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế [4]... Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào bàn về xây dựng mô hình “cụm công nghiệp thân thiện môi trường”, đặc biệt dành riêng cho thủ đô Hà Nội. Trong khi với đặc trưng riêng của vùng thủ đô Hà Nội có tới 26/70 cụm công nghiệp đủ ngành nghề đang hoạt động thì việc lựa chọn xây dựng các cụm công nghiệp theo mô hình Cụm CNTTMT là rất cấp thiết và phù hợp hiện nay. Do đó, xuất phát từ các lý thuyết về cụm công nghiệp, lý thuyết về chuỗi giá trị vật liệu tuần hoàn 6R (Reduce-Reused-Recycle-Refuse-Rethink-Responsibility), (Giảm thiểu-Sử dụng lại-Tái chế-Từ chối-Tư duy lại-Trách nhiệm cá nhân trước cộng đồng) [5], bài viết sẽ tập trung vào việc xây dựng mô hình Cụm công nghiệp thân thiện môi trường cho vùng thủ đô Hà Nội. 2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phân tích các công trình khoa học trong nước và quốc tế liên quan đến việc chuyển đổi các cụm CNTTMT cũng như các chính sách phát triển công nghệ thân thiện môi trường ở một số quốc gia. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Nhằm làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng khung chính sách phù hợp với thực tế của Việt Nam nói chung và khu vực thành phố Hà Nội nói riêng trong việc xây dựng mô hình cụm CNTTMT. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: - Danh sách điều tra được lập trước khi phát phiếu trưng cầu ý kiến - Thực hiện yếu tố khuyết danh khi trưng cầu ý kiến để kết quả trả lời được khách quan - Số lượng phát phiếu: 160 ... lại đã giảm. Céline Bak, chủ tịch của Analytica Advisors, cho biết các quốc gia công nghệ thân thiện môi trường hàng đầu đang theo đuổi một cách tiếp cận toàn diện hơn ngoài việc tài trợ cho các công ty khởi nghiệp. Chính vì vậy việc cạnh tranh trong thương mại công nghệ thân thiện môi trường đã cao hơn rất nhiều so với trước đây [13]. Các chính sách về công nghệ thân thiện môi trường, công nghệ sạch được nhắc đến trong chính sách chung về phát triển khoa học và công nghệ, hiện nay nổi bật là Quyết định số 1292/QĐ-UBND phê duyệt Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp thành phố Hà Nội đến năm 2020, có xét đến năm 2030. Theo khảo sát của tác giả với nhóm đối tượng là các bộ hành chính trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, tác giả lập phiếu bảng hỏi liên quan đến chính sách phát triển lĩnh vực CNTTMT nói chung và việc quy hoạch thành Cụm CNTTMT nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tác giả gửi 120 phiếu, thu lại 89 phiếu trả lời hợp lệ. Sau khi xử lý số liệu và tạo bảng tổng hợp theo tỉ lệ phần trăm, tác giả đưa ra được kết quả khảo sát như hình 2, cụ thể như sau: “Cần thiết phải xây dựng các quy định riêng nhằm mục tiêu tập trung phát triển mạnh các công nghệ thân thiện môi trường trong doanh nghiệp cũng như các cụm công nghiệp hay không?” Có đến 56,3% cho rằng cần thiết có một chính sách nhà nước cụ thể, dành riêng để tập trung phát triển cho công nghệ thân thiện môi trường; 37,5% cho rằng có thể dùng chung với các chính sách công nghệ sẵn có. Và chỉ còn khoảng 7% số cán bộ viên chức, những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình giúp xây dựng các chính sách lựa chọn ô không cần thiết. Hình 2. Khảo sát về việc xây dựng chính sách công nghệ riêng phục vụ việc xây dựng môi hình cụm công nghệ TTMT trên địa bàn thành phố Hà Nội TNU Journal of Science and Technology 226(08): 03 - 10 8 Email: jst@tnu.edu.vn Như vậy chúng ta có thể thấy, góc độ người hoạch định chính sách cũng nhận định được tầm quan trọng lớn của việc xây dựng mô hình cụm công nghiệp thân thiện với môi trường. Bởi CNTTMT không đơn thuần chỉ là quá trình xử lý và tái chế chất thải, chất thải của công đoạn này làm nguyên liệu đầu vào cho công đoạn sản xuất khác, mà CNTTMT ở đây bao gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ là: Công nghệ TTMT-Hàng hóa TTMT và Dịch vụ TTMT. Và các doanh nghiệp, các công ty sản xuất ra sản phẩm, hàng hóa góp phần bảo vệ môi trường cũng được gọi là các doanh nghiệp công nghệ TTMT. CNTTMT là ngành công nghệ mới và khó. Và cụm CNTTMT cũng là mô hình mới và đòi hỏi nhiều điều kiện tiêu chí khác nhau nhằm hướng đến mục tiêu đảm bảo đồng thời phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường sống. Cũng như mục tiêu làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi được đánh giá là doanh nghiệp TTMT. 3.3. Kinh nghiệm về chính sách phát triển cụm công nghệ thân thiện môi trường ở một số quốc gia trên thế giới Bảng 1. Tình hình thực hiện các chính sách phát triển công nghệ thân thiện môi trường theo từng quốc gia Quốc gia Tình hình thực hiện các chính sách phát triển công nghệ thân thiện môi trường Mỹ - Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA): Hợp tác sáng tạo trong lĩnh vực môi trường thông qua kế hoạch chiến lược EPA - Bộ Năng lượng: Đi đầu trong việc phát triển các công nghệ liên quan đến năng lượng, đặc biệt là nhiên liệu hóa thạch, sử dụng năng lượng hiệu quả, đặc biệt năng lượng tái tạo trong doanh nghiệp, các cụm khu công nghiệp phân bố các bang. - Bộ Quốc phòng: Thúc đẩy hợp tác với DOE và EPA thông qua các dự án nghiên cứu và phát triển chiến lược - Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp: Đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ thân thiện với môi trường hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ tái tạo và nhiên liệu sinh học - Chính quyền cấp tỉnh: Phải thiết lập các chính sách đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện môi trường thông qua ủy ban môi trường của các bang; Xây dựng các khu công nghiệp thân thiện môi trường theo mô hình sinh thái công nghiệp. Nhật Bản - Bộ Môi trường: Thúc đẩy pháp luật liên quan đến hệ thống cơ bản các tiêu chuẩn và quy định của chính sách môi trường, áp dụng với các doanh nghiệp sản xuất, cụm, khu công nghiệp theo hệ tiêu chuẩn giám sát riêng. Thực hiện vai trò quan trọng trong nghiên cứu môi trường dài hạn thông qua Viện Nghiên cứu Môi trường Quốc gia (NIES) - Bộ Kinh tế, Thương Mại và Công nghiệp: Là chủ thể cốt lõi của đổi mới, thiết lập các biện pháp biến đổi khí hậu, 3Rs (Giảm, Tái chế, Tái sử dụng), thúc đẩy các chính sách quản lý thân thiện với môi trường - Liên đoàn các tổ chức kinh tế: Đặt mục tiêu, lượng khí thải cacbon dioxide sẽ giảm xuống mức gần tiêu chuẩn nhất. Thông qua hướng dẫn thực hành môi trường tự nguyện để tiến hành cắt giảm. Canada - Kể từ năm 2001, chính phủ Canada đã phân bổ tổng cộng 965 triệu đô la cho Quỹ SD Tech để đầu tư vào các dự án về chất lượng không khí, biến đổi khí hậu, chất lượng đất và chất lượng nước. - Là quốc gia thành công với khu sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường, đảm bảo các tiêu chuẩn xuất khẩu nông sản và tính cạnh tranh trên trường quốc tế. - Là quốc gia phát triển được mô hình bản đồ đổi mới công nghệ để các công ty, doanh nghiệp theo dõi và tiếp cận nhanh với công nghệ thân thiện môi trường tiên tiến nhất Hàn Quốc - Bộ Môi trường: Bảo tồn môi trường sống tự nhiên và phòng chống ô nhiễm môi trường bằng cách xây dựng mô hình sinh thái công nghệ, áp dụng các công nghệ thân thiện môi trường trong sản xuất. - Từ những năm 2018-2020, các công ty lớn như tập đoàn Lotter, Samsung đã đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, các cụm sản xuất theo hướng thân thiện môi trường, nó trở thành yếu tố chuyển đổi quan trọng tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên trường quốc tế. (Nguồn: Theo Viện đánh giá và lập kế hoạch khoa học và công nghệ Hàn Quốc KISTEP [14]) TNU Journal of Science and Technology 226(08): 03 - 10 9 Email: jst@tnu.edu.vn Với xu hướng đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực CNTTMT, nhiều quốc gia gọi đây là công nghệ của tương lai. Hàn Quốc cũng là quốc gia đầu tư mạnh mẽ cho các hoạt động R&D trong lĩnh vực CNTTMT. Viện đánh giá và lập kế hoạch khoa học và công nghệ của Hàn Quốc (KISTEP) dựa trên các nghiên cứu của OECD về chính sách phát triển khoa học và công nghệ của các nước đã đưa ra nghiên cứu tổng hợp về chính sách CNTTMT của một số quốc gia trên thế giới trong đó có Hàn Quốc. Qua bảng 1, tác giả muốn nhấn mạnh các chính sách CNTTMT của nhiều quốc gia trên thế giới đang tập trung phát triển vào các công ty khởi nghiệp, các nhóm startup cũng như các mô hình cụm, khu công nghiệp thân thiện với môi trường thông qua hệ thống các quỹ, các chính sách ưu đãi thuế cũng như các dự án liên quan. Và Việt Nam, với vai trò là quốc gia chưa mạnh với lĩnh vực CNTTMT, nhưng với sự quan tâm, định hướng của Chính phủ trong những năm gần đây, nếu có chính sách phù hợp, lựa chọn công nghệ tiêu biểu tập trung phát triển chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả tích cực. 3.4. Dựa theo lý thuyết về cụm công nghiệp, và lý thuyết về chuỗi giá trị vật liệu tuần hoàn để đề xuất các dạng mô hình cụm công nghiệp thân thiện với môi trường Một là: Các cụm tích lũy thuần túy tự thân chuyển đổi sang CCNTTMT: Đó là sự tập trung về mặt địa lý của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự nhau hoặc liên quan chặt chẽ với nhau, hoặc ít liên quan đến nhau trong một vùng địa lý nhỏ. Ví dụ: Cụm công nghiệp Mai Đình; Cụm công nghiệp Cổ loa-Cổ loa; Cụm công nghiệp Ninh Hiệp-Gia Lâm; Cụm công nghiệp Phú Trị-Gia Lâm; Cụm công nghiệp Dệt May Nguyên Khê- Đông Anh; Cụm công nghiệp quận Hai Bà Trưng-Hai Bà Trưng; Cụm công nghiệp Thực phẩm Hapro-Gia Lâm Chính các cụm công nghiệp này đang hoạt động trong thủ đô và cả những Cụm công nghiệp ở trung tâm các quận lớn. Nó đồng nghĩa với việc các cụm công nghiệp trên phát triển ở khu vực có đông dân cư. Ô nhiễm nguồn nước, môi trường, tiếng ồn và chất lượng không khí xung quanh các cụm này là vấn đề rất quan trọng. Vậy định hướng chuyển đổi từ mô hình cụm công nghiệp cổ điển sẽ được dần dần thay sang mô hình Cụm CNTTMT. Với mô hình liên kết thuần túy và tự thân chuyển đổi này muốn chuyển đổi cần đảm bảo các bước: Thứ nhất: Áp dụng hình thức khuếch tán công nghệ để tạo tính lan tỏa tích cực và ưu điểm của các công nghệ xanh, sạch, đảm bảo được yếu tố về môi trường. Thực hiện theo cách thức khuếch tán kiểu “mưa dầm thấm lâu”, để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận và chuyển đổi dần dần sao cho phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp về năng suất sản phẩm kết hợp lợi ích chung về môi trường. Thứ hai: Tiến hành chuyển đổi cả cụm công nghiệp theo hướng TTMT dựa trên việc xây dựng các tiêu chí phù hợp về Năng lượng, nước, cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc. Hai là: Với mô hình CCNTTMT, quá trình chuyển đổi nó là mối “quan hệ cộng sinh”, nghĩa là mục đích của các doanh nghiệp không chỉ liên kết để phát triển “hệ công nghiệp hạn chế tối đa chất thải phái sinh” và tận dụng nguồn nguyên liệu thứ cấp, là chất thải của doanh nghiệp này nhưng lại là nguồn nguyên liệu của doanh nghiệp khác. Đồng thời tiết kiệm được nguồn nhiên liệu, năng lượng. Trên quan điểm này, rõ ràng các nhà sinh thái học sẽ góp phần quan trọng trong thiết kế mô hình CCNTTMT nhờ những hiểu biết về động học của các hệ sinh thái khác nhau, kỹ năng truyền đạt thông tin và kinh nghiệm trong việc tái tạo các hệ sinh thái. Xây dựng bản đồ nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm đầu ra, loại chất thải... định hướng theo mô hình 6R nhằm tận dụng tối đa theo hình thức chất thải của doanh nghiệp này là nguyên liệu của doanh nghiệp khác trong cùng cụm. Ba là: Các cụm công nghiệp mới quy hoạch: Đó là việc quy hoạch trước về cơ sở hạ tầng, hệ thống điện, nước, hệ thống xử lý chất thải. Các doanh nghiệp được mời gọi để thuê đất và sử dụng các tiện ích trong cụm CCNTTMT sẵn có. Các doanh nghiệp sản xuất chuyển đổi vị trí sẽ phải thích nghi với sự chuyển đổi không tự thân này. Trên thực tế thì CCNTTMT chuyển đổi sẽ có cách thức chuyển đổi và thích nghi khác nhau phụ thuộc vào đặc tính khác nhau của từng doanh nghiệp và từng cụm công nghiệp. Mỗi ngành sẽ phù hợp với một mô hình khác nhau. Ngành sản xuất truyền thống, nhỏ lẻ và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ hộp, sơ chế... đặc biệt nằm rải rác ở TNU Journal of Science and Technology 226(08): 03 - 10 10 Email: jst@tnu.edu.vn khu vực cụm công nghiệp Hai Bà Trưng, cụm thực phẩm Gia Lâm, Đông Anh thì mô hình thuần túy tự thân chuyển đổi sẽ là lựa chọn tiết kiệm và hiệu quả. Các doanh nghiệp công nghệ hiện đại, có chuỗi sản xuất đa dạng nên phù hợp với mô hình liên kết dọc. 4. Kết luận Việc quy hoạch và chuyển đổi cụm công nghiệp trong vùng nội đô mặc dù Quyết định số 1292/QĐ-UBND đã nêu ra các giải pháp cụ thể nhưng cần phải định hướng Cụm công nghiệp đó theo một mô hình nhất định. Khi nghiên cứu về Lý thuyết cụm, cụm công nghiệp, khu công nghiệp... nhiều nhà nghiên cứu trong nước cho rằng Việt Nam chưa có mô hình nào đạt đúng tiêu chuẩn theo định nghĩa Cụm công nghiệp của Thế giới. Nhưng trên thực tế, mỗi quốc gia có một vị trí địa lý, khí hậu, môi trường và quy hoạch dân cư khác nhau, không thể mang mô hình của cụm công nghiệp nước này áp dụng vào tiêu chuẩn cụm của một nước khác để phát huy hiệu quả cao được. Với tính chất riêng của thủ đô Hà Nội cũng như các ngành nghề tập trung sản xuất, việc xây dựng và chuyển đổi các cụm công nghiệp sang mô hình Cụm thân thiện môi trường là hoàn toàn khả thi nhằm đạt được mục tiêu phát biển bền vững cho thành phố. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1] T. M. D. Tran, and T. V. Nguyen, “Experiences of countries and methodology for building ecological industrial zones in Vietnam,” Journal of Environmental Protection, Department of Environmental Protection, Ministry of Natural Resources and Environment, ISSN 0868-3301, no. 12, pp. 33-38, 2003. [2] T. M. D. Tran, Q. H. Hoang, and T. V. Nguyen, “Developing an environmental friendly industrial park from an existing industrial park: Content and implementation steps,” Proceedings of the Workshop school, Bien Hoa, Dong Nai, December 8, 2004, pp 35-40. [3] H. Nguyen, “Construction of an environmentally friendly industrial park,” 2019. [Online]. Available: https://baothuathienhue.vn/xay-dung-khu-cong-nghiep-than-thien-moi-truong-a68738.html. [Accessed December 26, 2020]. [4] Vietnam Association of Economic Industries, “Towards environment-friendly technology,” 2011. [Online]. Available: -nghiep-than- thien-with-new-school-1011. [Accessed December 26, 2020]. [5] V. T. Nguyen, Some Issues on the Non-Traditional Security under the Impact of The Fourth Industrial Revolution (4.0) (Research model on the impact of environmental security in the context of social, ecological and economic growth transformation in VietNam), World publisher, 2018. [6] Marshall, “Principles of Economics,” 1890. [Online]. Available: [Accessed September 24, 2020]. [7] M. Porter, “Cluster and the New Economics of Competition,” 1998. [Online]. Available: https://hbr.org/1998/11/clusters-and-the-new-economics-of-competition. [Accessed September 21, 2020]. [8] T. Pentikainen, and S. Luukkainen, “Trade-flow Based Industrial Clusters in the Finnish Economy - Growth Through National Synergies,” Outline version for the OECD Cluster Focus Group Workshop 8- 9.5. 2000. [Online]. Available: [Accessed September 21, 2020]. [9] M. Porter, “National competivive advantage,” 1990. [Online]. Available: https://www.academia.edu /6992732/Porters_Competitive_Advantage_of_Nations_A_Critique, [Accessed September 22, 2020]. [10] T. M. D. Tran, and T. V. Nguyen, “Planning, designing, building and developing environmentally friendly industrial parks,” Proceedings of the Workshop on Environmentally Friendly Industrial Zones, Bien Hoa, Dong Nai, December 8, 2004, pp. 27-31. [11] People's Committee of Hanoi, No. 44/2010/QD-UBND dated September 10, 2010, Regulations on management of industrial clusters in Hanoi city. [12] Norwegian University of Science and Technology, “Trade in Environmentally Sound Technologies: Implications for Developing Countries,” 2018. [Online]. Available: https://wedocs.unep.org/bitstream /handle/20.500.11822/27595/TradeEnvTech.pdf?sequence=1&isAllowed=y. [Accessed July 18, 2020]. [13] B. Smith, “Canada: Enviromental Issues Policies and Clearn Technology,” 2015. [Online]. Available: https://www.azocleantech.com/article.aspx?ArticleID=563. [Accessed October 20, 2020]. [14] KISTEP, “Current status of eco-friendly innovation policies in Korea, the United States, and Japan,” 2015. [Online]. Available: https://scienceon.kisti.re.kr/srch/selectPORSrchTrend.do?cn=IS200900017, [Accessed October 22, 2020].
File đính kèm:
- the_model_of_environmental_friendly_industrial_clusters_for.pdf