Thái độ và niềm tin của nữ sinh viên Đại học Duy Tân với trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt
Trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt là một trong những vấn đề về sức khỏe sinh sản có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc
đời của người phụ nữ. Các mục tiêu của nghiên cứu này bao gồm: Mô tả thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt;
xác định mối tương quan và sự khác biệt giữa các biến liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt ở
nữ sinh viên. Phương pháp nghiên cứu: Bộ công cụ BATM đã được sử dụng trong nghiên cứu này. Kết quả: Có 200 nữ
sinh viên độ tuổi từ 18 đến 21 đã tham gia vào nghiên cứu. Hầu hết những người tham gia trải nghiệm kinh nguyệt ở độ
tuổi bình thường (90%) và đa số người tham gia cảm thấy rằng họ không chuẩn bị bất cứ điều gì cho việc hành kinh
(79.5%).
Kết luận: Mức độ chuẩn bị có mối tương quan thuận với mức độ hài lòng. Không chỉ ra sự khác biệt đáng kể nào giữa
các nhóm liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Nhìn chung, nghiên cứu này cung cấp khám phá
ban đầu để kiểm tra thái độ và niềm tin về kinh nguyệt. Do đó, nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để xác định các yếu tố
góp phần vào những thái độ và niềm tin này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ và niềm tin của nữ sinh viên Đại học Duy Tân với trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 137 Thái độ và niềm tin của nữ sinh viên Đại học Duy Tân với trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt Attitudes and beliefs of female students at Duy Tan University about the experience of menstruation Nguyễn Thị Bích Trâma,b* Tram Thi Bich Nguyena,b* aTrung tâm Thực hành Mô phỏng Y khoa - Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam bKhoa Điều dưỡng, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam aMedical Simulation Center - Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam bFaculty of Nursing, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam (Ngày nhận bài: 29/6/2020, ngày phản biện xong: 01/7/2020, ngày chấp nhận đăng: 26/8/2020) Tóm tắt Trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt là một trong những vấn đề về sức khỏe sinh sản có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Các mục tiêu của nghiên cứu này bao gồm: Mô tả thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt; xác định mối tương quan và sự khác biệt giữa các biến liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt ở nữ sinh viên. Phương pháp nghiên cứu: Bộ công cụ BATM đã được sử dụng trong nghiên cứu này. Kết quả: Có 200 nữ sinh viên độ tuổi từ 18 đến 21 đã tham gia vào nghiên cứu. Hầu hết những người tham gia trải nghiệm kinh nguyệt ở độ tuổi bình thường (90%) và đa số người tham gia cảm thấy rằng họ không chuẩn bị bất cứ điều gì cho việc hành kinh (79.5%). Kết luận: Mức độ chuẩn bị có mối tương quan thuận với mức độ hài lòng. Không chỉ ra sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhóm liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Nhìn chung, nghiên cứu này cung cấp khám phá ban đầu để kiểm tra thái độ và niềm tin về kinh nguyệt. Do đó, nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để xác định các yếu tố góp phần vào những thái độ và niềm tin này. Từ khóa: Chu kỳ kinh nguyệt; trải nghiệm; sinh viên nữ; thái độ; niềm tin. Abstract The experience of menstruation is one of the reproductive health issues that are important in a woman’s life. The aims of this study include: Describe attitudes and beliefs about the menstrual experience; identify the correlation and differences between variables related to the attitudes and beliefs about the experience of menstruation in female students. The BATM questionnaire was used in this study. 200 female students aged 18 to 21 participated in the study. The findings showed that the vast majority of participants experienced menstruation at a normal age (90%). Most of the participants felt that they weren't adequately prepared for menstruation (79.5%). The level of preparation had a positive correlation with the level of satisfaction. The results did not show any significant differences between the variables related to attitudes and beliefs about the menstrual experience. Overall, this study provided an initial exploration to test the attitudes and beliefs about menstruation. Therefore, further studies are needed. Keywords: Menstruation; experience; female students; attitudes; beliefs. * Corresponding Author: Tram Thi Bich Nguyen; Medical Simulation Center, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam; Faculty of Nursing, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam. Email: nguyentbichtram17@dtu.edu.vn 04(41) (2020) 137-146 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 138 1. Đặt vấn đề Kinh nguyệt là một quá trình sinh lý bình thường nhưng những hạn chế trong suốt thời gian kinh nguyệt có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của phụ nữ [11]. Có niềm tin cho rằng kinh nguyệt ảnh hưởng đến năng suất của phụ nữ, trong đó người phụ nữ đang có kinh nguyệt sẽ khó tập trung, thể hiện khả năng phán đoán kém, thiếu phối hợp thể chất, giảm hiệu quả và hoạt động kém ở trường học hoặc tại nơi làm việc [4]. Có rất ít bằng chứng khoa học ủng hộ niềm tin này, tuy nhiên nếu niềm tin này lan rộng có thể dẫn đến hạn chế các cơ hội của phụ nữ tại nơi làm việc và trong xã hội nói chung, đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ [4]. Những nhận thức về kinh nguyệt, cả tiêu cực và tích cực, sẽ được duy trì và bị ảnh hưởng bởi các nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống khác nhau [9]. Bên cạnh đó, thái độ của phụ nữ và hành vi của họ đối với kinh nguyệt là kết quả của sự tương tác phức tạp với niềm tin văn hóa, yếu tố xã hội hóa và kinh nghiệm thực tế. Thái độ đối với kinh nguyệt có thể bị ảnh hưởng bởi tuổi hành kinh, thời gian kéo dài của một chu kỳ kinh nguyệt và cường độ kinh nguyệt của phụ nữ [8]. Chính vì vậy 3 mục tiêu của nghiên cứu được đặt ra như sau: Mô tả thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Xác định mối tương quan giữa tuổi hành kinh, mức độ chuẩn bị đối với mức độ khó chịu, mức độ kiêng cử, mức độ giữ bí mật, mức độ bất lực và mức độ hài lòng liên quan đến kinh nguyệt. Xác định sự khác biệt giữa các nhóm dựa trên a.) Tuổi hành ... quả này chỉ được sử dụng cho mục đích mô tả và sự khác biệt nhóm không được kiểm tra. Liên quan đến mức độ chuẩn bị, ta thấy rằng 79.5% người tham gia cảm thấy họ không chuẩn bị bất cứ điều gì cho việc hành kinh và chỉ có 20.5% cảm thấy họ đã chuẩn bị cho thời kỳ hành kinh. Bảng 3.1. Mô tả thái độ và niềm tin của sinh viên nữ Min Max Mean Median SD Skewness Kurtosis Sự khó chịu 26 64 48.45 50.00 8.360 -.547 -.267 Việc kiêng cử 21 45 34.89 35.00 4.928 -.513 .049 Sự bí mật 18 54 33.26 33.00 6.581 .452 -.109 Sự bất lực 5 25 18.18 18.00 3.964 -.482 .327 Sự hài lòng 6 30 17.24 17.00 5.054 .049 -.250 Bảng 3.1 cho thấy phân phối của các nhóm thái độ có trị số trung bình (Mean) và trung vị (Median) gần bằng nhau và độ xiên (Skewness) dao động từ -1 đến +1, vì vậy được coi như có phân phối chuẩn. Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 142 Bảng 3.2. Giá trị trung bình của tuổi hành kinh Sự khó chịu Việc kiêng cử Sự bí mật Sự bất lực Sự hài lòng Khởi phát sớm M 44.86 35.43 33.71 17.57 17.14 SD 11.408 6.051 9.411 4.237 6.176 n 7 7 7 7 7 Bình thường M 48.89 34.96 33.16 18.30 17.27 SD 8.129 4.806 6.507 4.025 5.078 n 180 180 180 180 180 Khởi phát muộn M 44.31 33.62 34.38 16.77 16.85 SD 8.901 6.158 6.371 2.713 4.432 n 13 13 13 13 13 Bảng 3.2 cho thấy những sinh viên bắt đầu kinh nguyệt sớm (M = 35.43) đạt điểm cao nhất trong việc kiêng cử. Sinh viên bắt đầu hành kinh muộn (M = 34.38) đạt điểm cao nhất về thái độ giữ bí mật liên quan đến kinh nguyệt. Bảng 3.3. Giá trị trung bình cho mức độ chuẩn bị Sự khó chịu Việc kiêng cử Sự bí mật Sự bất lực Sự hài lòng M 48.59 34.96 33.49 18.14 17.08 Không chuẩn bị SD 8.512 5.157 6.668 4.063 5.048 n 159 159 159 159 159 M 47.90 34.61 32.34 18.29 17.85 Có chuẩn bị SD 7.816 3.955 6.223 3.600 5.092 n 41 41 41 41 41 Bảng 3.3 cho thấy những người không chuẩn bị cho kinh nguyệt có mức độ khó chịu cao hơn (M = 48.59), kiêng cử nhiều hơn (M = 34.96) và có xu hướng giữ bí mật chuyện kinh nguyệt cao hơn (M = 33.49). Những người có chuẩn bị cho kinh nguyệt cho thấy điểm số cao hơn về sự bất lực (M = 18.29) và mức độ hài lòng (M = 17.85). 3.2. Mối tương quan giữa các biến số độc lập Bảng 3.4. Mối tương quan giữa biến tuổi hành kinh, biến sự chuẩn bị với các biến khác Tuổi hành kinh Sự chuẩn bị Sự khó chịu Việc kiêng cử Sự bí mật Sự bất lực Sự hài lòng Tuổi hành kinh 1.000 .046 -.042 -.004 .021 -.056 .011 P .415 .423 .938 .686 .299 .832 Sự chuẩn bị .046 1.000 -.051 -.018 -.067 .006 .140 ** P .415 .334 .742 .205 .906 .008 Tương quan hạng Kendall Bảng 3.4 cho thấy không có mối tương quan nào được tìm thấy giữa biến tuổi hành kinh và các biến phụ thuộc khác. Còn mức độ chuẩn bị có mối tương quan thuận với mức độ hài lòng ( = 0.140, p = 0.008), điều này có nghĩa là khi khi mức độ chuẩn bị tăng lên thì mức độ hài lòng liên quan đến kinh nguyệt cũng tăng. Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 143 3.3. Sự khác biệt giữa các nhóm Bảng 3.5. Ảnh hưởng giữa tuổi hành kinh và sự chuẩn bị đối với thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt Value F p Tuổi hành kinh Roy’s Largest Root .107 2.015c .034 Sự chuẩn bị Roy’s Largest Root .061 1.961c .073 Bảng 3.5 cho thấy có sự ảnh hưởng giữa tuổi hành kinh đối với thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt, được đo bằng các biến phụ thuộc, p = 0.034. Không có ảnh hưởng nào giữa mức độ chuẩn bị với thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt, được đo bằng các biến phụ thuộc, p = 0.073. Bảng 3.6. Sự khác biệt giữa các nhóm tuổi hành kinh Biến phụ thuộc (I) Tuổi hành kinh (J) Tuổi hành kinh Mean Difference (I-J) p 95%CI Giới hạn dưới Giới hạn trên Sự khó chịu Khởi phát sớm Bình thường -4.03 .341 -10.42 2.36 Khởi phát muộn .55 .999 -8.71 9.80 Bình thường Khởi phát sớm 4.03 .341 -2.36 10.42 Khởi phát muộn 4.58 .080 -.39 9.55 Khởi phát muộn Khởi phát sớm -.55 .999 -9.80 8.71 Bình thường -4.58 .080 -9.55 .39 Việc kiêng cử Khởi phát sớm Bình thường .47 .987 -3.33 4.28 Khởi phát muộn 1.81 .813 -3.70 7.32 Bình thường Khởi phát sớm -.47 .987 -4.28 3.33 Khởi phát muộn 1.34 .621 -1.62 4.30 Khởi phát muộn Khởi phát sớm -1.81 .813 -7.32 3.70 Bình thường -1.34 .621 -4.30 1.62 Sự bí mật Khởi phát sớm Bình thường .56 .991 -4.53 5.65 Khởi phát muộn -.67 .995 -8.04 6.70 Bình thường Khởi phát sớm -.56 .991 -5.65 4.53 Khởi phát muộn -1.23 .838 -5.19 2.73 Khởi phát muộn Khởi phát sớm .67 .995 -6.70 8.04 Bình thường 1.23 .838 -2.73 5.19 Sự bất lực Khởi phát sớm Bình thường -.73 .918 -3.78 2.33 Khởi phát muộn .80 .961 -3.62 5.22 Bình thường Khởi phát sớm .73 .918 -2.33 3.78 Khởi phát muộn 1.53 .323 -.84 3.91 Khởi phát muộn Khởi phát sớm -.80 .961 -5.22 3.62 Bình thường -1.53 .323 -3.91 .84 Sự hài lòng Khởi phát sớm Bình thường -.13 1.000 -4.04 3.78 Khởi phát muộn .30 .999 -5.37 5.96 Bình thường Khởi phát sớm .13 1.000 -3.78 4.04 Khởi phát muộn .43 .982 -2.62 3.47 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 144 Khởi phát muộn Khởi phát sớm -.30 .999 -5.96 5.37 Bình thường -.43 .982 -3.47 2.62 Phân tích sâu Gabriel post hoc test Bảng 3.6 chỉ ra rằng không có sự khác biệt nào được tìm thấy giữa các nhóm. Những phát hiện chính của phân tích cho thấy có sự khác biệt nhỏ về điểm trung bình giữa các nhóm trên tất cả các biến phụ thuộc, với một số nhóm cho thấy sự khác biệt lớn hơn về điểm trung bình so với các nhóm khác. Có mối tương quan được tìm thấy giữa mức độ sẵn sàng và mức độ hài lòng liên quan đến trải nghiệm kinh nguyệt. Tuổi hành kinh không có mối tương quan với các biến phụ thuộc. 4. Bàn luận Liên quan đến yếu tố sinh học, nghiên cứu hiện tại cho thấy không có mối tương quan giữa tuổi hành kinh và các biến số phụ thuộc khác, cụ thể là mức độ khó chịu, mức độ giữ bí mật, mức độ bất lực, mức độ kiêng cử, và mức độ hài lòng liên quan đến kinh nguyệt. Cũng không có mối tương quan nào được tìm thấy giữa tuổi hành kinh và mức độ chuẩn bị. Trái với những phát hiện của tác giả Tiwari và cộng sự (2006) đã báo cáo về việc tìm thấy mối tương quan giữa mức độ chuẩn bị và tuổi hành kinh, nghiên cứu này nói rằng nếu một cô gái không chuẩn bị cho việc bắt đầu hành kinh vì khởi phát sớm, điều này có thể dẫn đến cảm giác xấu hổ, sợ hãi và lo lắng [10]. Do đó, hành kinh khởi phát sớm và cảm thấy không chuẩn bị vào thời điểm đó, có thể dẫn đến thái độ và niềm tin tiêu cực hơn về trải nghiệm kinh nguyệt [10]. Sự khác biệt về kết quả giữa nghiên cứu hiện tại và nghiên cứu được thực hiện bởi Tiwari và cộng sự (2006) có thể là do phần lớn những người tham gia vào nghiên cứu hiện tại đã báo cáo trải qua khởi phát kinh nguyệt bình thường. Ngoài ra, cũng có nhiều người tham gia trải qua giai đoạn khởi phát muộn hơn so với khởi phát sớm. Nếu có nhiều người tham gia trải qua giai đoạn khởi phát sớm của kinh nguyệt, nghiên cứu hiện tại có thể mang lại kết quả tương tự với nghiên cứu của Tiwari và cộng sự (2006). Sau khi nghiên cứu yếu tố tâm lý, nghiên cứu hiện tại cho thấy có mối tương quan giữa mức độ chuẩn bị và mức độ hài lòng liên quan đến kinh nguyệt. Cụ thể hơn, khi mức độ chuẩn bị tăng lên thì mức độ hài lòng cũng tăng lên. Những phát hiện này cũng được tìm thấy trong phần tổng quan tài liệu, báo cáo rằng mức độ chuẩn bị cho kinh nguyệt ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ và niềm tin của người phụ nữ đối với kinh nguyệt [6]. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại không cho thấy bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào giữa các mức độ chuẩn bị đối với các biến phụ thuộc khác. Điều này trái ngược với phần tổng quan tài liệu, trong đó chỉ ra rằng một cô gái càng ít chuẩn bị cho việc bắt đầu kinh nguyệt, họ càng cảm thấy muốn giữ bí mật và tiêu cực hơn đối với trải nghiệm kinh nguyệt [6]. Không có sự ảnh hưởng đáng kể nào được tìm thấy giữa các yếu tố sinh học và tâm lý về thái độ và niềm tin của trải nghiệm kinh nguyệt. Điều này là trái với các giả định lý thuyết của mô hình sinh học - tâm lý - xã hội được mô tả trong nghiên cứu. Mô hình sinh học - tâm lý - xã hội cho thấy thái độ và niềm tin của phụ nữ đối với trải nghiệm kinh nguyệt bị ảnh hưởng và định hình bởi các quá trình sinh học, tâm lý cũng như bối cảnh văn hóa xã hội nơi họ sinh sống [5]. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, có ảnh hưởng giữa tuổi hành kinh đối với thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Việc lựa chọn các biến và cách chúng được đo lường trong nghiên cứu này có thể dẫn đến việc thiếu sự khác biệt đáng kể được tìm thấy. Hạn chế của nghiên cứu Nhìn chung, những phát hiện từ nghiên cứu có phần không phù hợp với những gì đã được miêu tả trong phần tổng quan tài liệu. Rất ít Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 145 nghiên cứu đã được thực hiện trong bối cảnh Việt Nam nói chung và tại các trường đại học ở Việt Nam nói riêng liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm của kinh nguyệt và do đó việc so sánh các phát hiện từ nghiên cứu này với nghiên cứu được thực hiện trong cùng bối cảnh tương tự còn hạn chế. Những khác biệt trong bối cảnh nghiên cứu có thể dẫn đến sự khác biệt giữa kết quả của nghiên cứu này với nghiên cứu trước đây được thực hiện trong cùng lĩnh vực. Những sinh viên tham gia vào nghiên cứu này đã tiết lộ những thái độ và niềm tin rất giống nhau về trải nghiệm kinh nguyệt. Chúng ta cũng cần xem xét thực tế rằng tất cả những người tham gia nghiên cứu đều là những sinh viên nữ có học thức, những người đã qua hệ thống trường học và hiện đang trong quá trình học tập tại đại học. Điều này có thể dẫn đến sự tương đồng được tìm thấy liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt, vì tất cả người tham gia đều có nền tảng giáo dục tương tự. Thực tế là nghiên cứu hiện tại cũng có một số mẫu không có tính đại diện do tiêu chí lựa chọn và phương pháp lấy mẫu được sử dụng cũng có thể dẫn đến một mẫu khá đồng nhất, trong đó những khác biệt đáng kể sẽ không được xác định. Do đó, ngay từ đầu đáng lẽ ra nghiên cứu nên sử dụng mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước PPS. Nghiên cứu còn một số hạn chế đáng chú ý, bao gồm phương pháp lấy mẫu được sử dụng cũng như dụng cụ đo lường. Đầu tiên, nghiên cứu này đã sử dụng lấy mẫu thuận tiện. Thứ hai, dụng cụ đo lường được sử dụng trong nghiên cứu đã dẫn đến một số khó khăn khi phân tích dữ liệu thu được. BATM được phát triển ở Mexico và mặc dù những người tham gia nghiên cứu này không báo cáo bất kỳ khó khăn nào trong việc trả lời bảng câu hỏi, nhưng việc sử dụng một bảng câu hỏi được phát triển riêng cho bối cảnh Việt Nam khi tiến hành nghiên cứu là điều lý tưởng hơn. Tuy nhiên, thực tế là không có bộ công cụ đo lường nào được chuẩn hóa cho bối cảnh Việt Nam, do đó BATM đã được sử dụng cho nghiên cứu này. Cuối cùng, khi đo lường các biến độc lập, câu hỏi liên quan đến tôn giáo của người tham gia cũng không được nêu một cách phù hợp để xác định độ tin cậy của những người tham gia. Mức độ mà những người tham gia theo tôn giáo đã chọn của họ không được khám phá và do đó tôn giáo không thể được sử dụng như một biến độc lập trong nghiên cứu. 5. Kết luận Nghiên cứu 200 nữ sinh viên độ tuổi từ 18 đến 21 Trường Đại học Duy Tân cho kết quả: Hầu hết những người tham gia trải nghiệm kinh nguyệt ở độ tuổi bình thường và đa số người tham gia cảm thấy không chuẩn bị bất cứ điều gì cho việc hành kinh. Những sinh viên bắt đầu kinh nguyệt sớm (M = 35.43) đạt điểm cao nhất trong việc kiêng cử. Sinh viên bắt đầu hành kinh muộn (M = 34.38) đạt điểm cao nhất về thái độ giữ bí mật liên quan đến kinh nguyệt. Những người không chuẩn bị cho kinh nguyệt có mức độ khó chịu cao hơn (M = 48.59), kiêng cử nhiều hơn (M = 34.96) và có xu hướng giữ bí mật chuyện kinh nguyệt cao hơn (M = 33.49). Những người có chuẩn bị cho kinh nguyệt cho thấy điểm số cao hơn về sự bất lực (M = 18.29) và mức độ hài lòng (M = 17.85). Mức độ chuẩn bị có mối tương quan thuận với mức độ hài lòng. Mối tương quan này cho thấy khi mức độ chuẩn bị tăng lên, mức độ hài lòng liên quan đến kinh nguyệt cũng tăng (p < 0.05). Và không có sự khác biệt giữa các nhóm liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Kiến nghị: Nghiên cứu cung cấp cơ sở thăm dò ban đầu để kiểm tra thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt trong bối cảnh Việt Nam. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để xác định các yếu tố góp phần vào những thái độ và niềm tin này. Giáo dục về kinh nguyệt cũng là Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146 146 mối quan tâm đặc biệt, vì phần lớn các mẫu trong nghiên cứu cho thấy không chuẩn bị cho việc bắt đầu kinh nguyệt. Để giảm bớt tình trạng này, giáo dục nên bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ, trước khi con gái đến tuổi dậy thì. Tài liệu tham khảo [1] Allison, C. M., & Hyde, J. S. J. S. r. (2013). Early menarche: Confluence of biological and contextual factors. 68(1-2), 55-64. [2] Babbie, E. R. (2015). The practice of social research: Nelson Education. [3] Cavanaugh, J. C., & Blanchard-Fields, F. (2018). Adult development and aging: Cengage Learning. [4] Chrisler, J. C., & Caplan, P. J. A. R. o. S. R. (2002). The strange case of Dr. Jekyll and Ms. Hyde: How PMS became a cultural phenomenon and a psychiatric disorder. 13(1), 274-306. [5] Chrisler, J. C. J. P. o. W. Q. (2013). Teaching taboo topics: Menstruation, menopause, and the psychology of women. 37(1), 128-132. [6] Marvan, M. L., & Trujillo, P. J. H. c. f. w. i. (2009). Menstrual socialization, beliefs, and attitudes concerning menstruation in rural and urban Mexican women. 31(1), 53-67. [7] Morrison, L. A., Larkspur, L., Calibuso, M. J., & Brown, S. J. A. j. o. h. b. (2010). Women's attitudes about menstruation and associated health and behavioral characteristics. 34(1), 90-100. [8] Pretorius, T. B., & Payne, J. (2007). Inferential data analysis: Hypothesis testing and decision-making: Reach. [9] Roberts, T.-A. J. P. o. W. Q. (2004). Female trouble: The menstrual self-evaluation scale and women's self-objectification. 28(1), 22-26. [10] Ussher, J. M. (2006). Managing the monstrous feminine: The role of PMS in the subjectification of women. [11] White, L. R. J. S. R. (2013). The function of ethnicity, income level, and menstrual taboos in postmenarcheal adolescents’ understanding of menarche and menstruation. 68(1-2), 65-76.
File đính kèm:
- thai_do_va_niem_tin_cua_nu_sinh_vien_dai_hoc_duy_tan_voi_tra.pdf