Thái độ “kỳ thị người cao tuổi” của bác sĩ tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương
Ageism, dịch sang tiếng Việt là phân biệt
tuổi tác đang là một vấn đề rất được quan tâm
trên thế giới. Phân biệt tuổi tác được định nghĩa
là những nhận định, ý kiến mang tính tích cực
hoặc tiêu cực, thành kiến và/hoặc phân biệt đối
xử chỉ vì tuổi của người đó, đặc biệt là đối với
người cao tuổi. Những nhận định như “già”,
“quá già”, “trẻ” hoặc “quá trẻ” để có thể làm 1
việc gì đó hay để được làm 1 việc gì đó ví dụ
“quá già để được áp dụng phương pháp điều trị
A”. Phân biệt tuổi tác có thể xuất phát từ chính
bản thân người cao tuổi hay từ những người
khác, tiềm ẩn hay rõ ràng và có thể ở nhiều
mức độ. Trong một cuộc điều tra của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) trên 83000 người ở 57
quốc gia, có tới 60% trả lời rằng người cao tuổi
không được tôn trọng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra
rằng nguyên nhân phổ biến nhất của phân biệt
đối xử với người cao tuổi là do tuổi cao (23 -
28%) [1]. Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước có
tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới.
Tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số là 9,45%
năm 2007, dự kiến tăng thành 11,24% vào năm
2020 [2]. Do đó, sự nhìn nhận hay quan điểm
của nhân viên y tế đối với người cao tuổi rất
quan trọng, sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe cho nhóm dân số đang tăng
nhanh này. Khác với phân biệt giới hay phân
biệt chủng tộc, nạn nhân chỉ chiếm một nhóm
nhỏ trong dân số, thì bất kì ai cũng có thể là đối
tượng của sự phân biệt tuổi tác nếu họ sống đủ
lâu. Vauclair và cộng sự phân tích dữ liệu từ 28
quốc gia châu Âu cho thấy sự phân biệt tuổi tác
có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tự đánh
giá của người cao tuổi [3].
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ “kỳ thị người cao tuổi” của bác sĩ tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 202 TCNCYH 123 (7) - 2019 Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Phóng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: ngphong115@gmail.com Ngày nhận: 17/09/2019 Ngày được chấp nhận: 10/10/2019 THÁI ĐỘ “KỲ THỊ NGƯỜI CAO TUỔI” CỦA BÁC SĨ TUYẾN Y TẾ CƠ SỞ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Nguyễn Thị Phóng1, Hồ Thị Kim Thanh1,2 1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện lão khoa Trung ương Nhân viên y tế cơ sở là những người đầu tiên tiếp xúc với người bệnh, người cao tuổi khoẻ mạnh tại cộng đồng, do đó cần có thái độ khách quan, có căn cứ khoa học về nhóm đối tượng này. Nghiên cứu mô tả thực trạng thái độ kỳ thị người cao tuổi của bác sĩ tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương. 108 bác sĩ tuyến y tế cơ sở tại Hà Nội, Huế, Ninh Bình, Điện Biên được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi tự điền gồm 2 phần: đặc điểm nhân khẩu - xã hội học và 2 bộ câu hỏi AAS (Thái độ phân biệt tuổi già, điểm từ 23-115) và FSA (Bộ câu hỏi Fraboni về phân biệt tuổi già, điểm từ 29-116). Điểm FSA và AAS trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu lần lượt là 66,58 ± 6,62 và 67,81 ± 7,29 điểm. Như vậy, bác sĩ tuyến y tế cơ sở có thái độ trung lập với người cao tuổi. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ageism, dịch sang tiếng Việt là phân biệt tuổi tác đang là một vấn đề rất được quan tâm trên thế giới. Phân biệt tuổi tác được định nghĩa là những nhận định, ý kiến mang tính tích cực hoặc tiêu cực, thành kiến và/hoặc phân biệt đối xử chỉ vì tuổi của người đó, đặc biệt là đối với người cao tuổi. Những nhận định như “già”, “quá già”, “trẻ” hoặc “quá trẻ” để có thể làm 1 việc gì đó hay để được làm 1 việc gì đó ví dụ “quá già để được áp dụng phương pháp điều trị A”. Phân biệt tuổi tác có thể xuất phát từ chính bản thân người cao tuổi hay từ những người khác, tiềm ẩn hay rõ ràng và có thể ở nhiều mức độ. Trong một cuộc điều tra của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trên 83000 người ở 57 quốc gia, có tới 60% trả lời rằng người cao tuổi không được tôn trọng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân phổ biến nhất của phân biệt đối xử với người cao tuổi là do tuổi cao (23 - 28%) [1]. Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới. Tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số là 9,45% năm 2007, dự kiến tăng thành 11,24% vào năm 2020 [2]. Do đó, sự nhìn nhận hay quan điểm của nhân viên y tế đối với người cao tuổi rất quan trọng, sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhóm dân số đang tăng nhanh này. Khác với phân biệt giới hay phân biệt chủng tộc, nạn nhân chỉ chiếm một nhóm nhỏ trong dân số, thì bất kì ai cũng có thể là đối tượng của sự phân biệt tuổi tác nếu họ sống đủ lâu. Vauclair và cộng sự phân tích dữ liệu từ 28 quốc gia châu Âu cho thấy sự phân biệt tuổi tác có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tự đánh giá của người cao tuổi [3]. Bộ câu hỏi AAS (Ageism Attitude Scale) xây dựng bởi Polat năm 2011 có đủ độ tin cậy với Cronbach α = 0,80 [4]. Bộ câu hỏi này đo lường niềm tin và nhận thức về đời sống xã hội của người cao tuổi cũng như quan điểm xã hội với họ. Fraboni năm 1990 đã xây dựng nên bộ câu hỏi này và chứng minh là nó có độ tin cậy cao (Cronbach α = 0,86) [5].Thang đo này tương thích với khung lý thuyết của sự lão hóa và là thang đo đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa “cảm xúc, ham muốn và hành vi” cũng như “định kiến Từ khóa: bác sĩ tuyến y tế cơ sở, kỳ thị tuổi già, thái độ với người cao tuổi TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 203TCNCYH 123 (7) - 2019 và hành vi”. Cả 2 thang điểm trên đều được sử dụng rộng rãi trong đánh giá thái độ của sinh viên y khoa, điều dưỡng, nhân viên y tế với người cao tuổi. Nhân viên y tế cơ sở là những người đầu tiên tiếp xúc với người bệnh, người cao tuổi khoẻ mạnh tại cộng đồng, do đó cần có một cái nhìn khách quan, có căn cứ khoa học về người bệnh mà đặc biệt là người cao tuổi, đối tượng cần nhiều trợ giúp không chỉ về mặt y tế mà còn tâm lý, văn hóa, xã hội. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả thực trạng phân biệt tuổi già của các bác sĩ tuyến y tế cơ sở tại một số địa phương. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng - Bác sỹ tuyến y tế cơ sở - Địa điểm: Điện Biên, Hà Nội, Ninh Bình, Huế - Thời gian: từ 09/2018 đến 05/2019 2. Phương pháp - Mô tả cắt ngang. - Phương pháp chọn mẫu: Ngẫu nhiên thuận tiện - Đối tượng nghiên cứu được giải thích về mục đích và nội dung, tự nguyện tham gia khảo sát, trả lời bộ câu hỏi tự điền trong khoảng thời gian 15 - 20 phút. Phiếu câu hỏi được thiết kế gồm 2 phần lớn: đặc điểm nhân trắc - xã hội học và thang điểm AAS (Ageism Attitude Scale), FSA (Fraboni Scale of Ageism) để đánh giá thái độ đối với người cao tuổi. Đặc điểm nhân trắc - xã hội học bao gồm tuổi, giới, nơi làm việc, nội dung công việc, số năm công tác, tiền sử sống với người cao tuổi, tần suất làm việc tiếp xúc với người cao tuổi khỏe mạnh và người bệnh cao tuổi, qui định tuổi được coi là người cao tuổi. Bộ câu hỏi AAS gồm 23 câu, với phần A (9 câu, những hạn chế trong cuộc sống người cao tuổi) và B (8 câu, quan điểm tích cực về người cao tuổi): 5 điểm tương ứng với ‘hoàn toàn đồng ý’ giảm dần và 1 điểm: ‘hoàn toàn không đồng ý’; phần C (6 câu, quan điểm tiêu cực về người cao tuổi) được cho điểm ngược lại. Điểm phần A dao động từ 9 đến 45 điểm, phần B từ 8 đến 40 điểm, phần C từ 6 đến 30 điểm. Tổng điểm cao nhất là 115 và thấp nhất là 23. Người trả lời có số điểm cao hơn thì người đó có thái độ tích cực hơn với người cao tuổi và ngược lại. Bộ câu hỏi FSA gồm 29 câu, mỗi câu được đánh giá bằng thang điểm 4 từ hoàn toàn không đồng ý (1 điểm) tới hoàn toàn đồng ý (4 điểm). Các câu * (8,12, 14, 21, 22, 23, 24) cho điểm ngược lại. Tổng điểm dao động từ 29 đến 116, điểm càng cao chứng tỏ mức độ phân biệt tuổi già cao hơn. Số liệu nghiên cứu được nhập, xử lý và phân tích bằng phần mềm thống kê y học SPSS 22.0. Giá trị p được lấy mốc 0,05; với p < 0,05 được xem là khác biệt có ý nghĩa thống kê khi kiểm định hai phía. Các biến định tính được trình bày theo số lượng và tỷ lệ %. Các biến định lượng được hiển thị dưới dạng trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn. 3. Đạo đức nghiên cứu Đề cương nghiên cứu được thông qua ngày 23/07/2018 bởi hội đồng thông qua đề cương trong quyết định số 3466/QĐ-ĐHYHN, ngày 11/07/2018. Nghiên cứu được sự chấp thuận, tự nguyện của các cá nhân tham gia nghiên cứu. Các thông tin cá nhân được giữ bí mật, đảm bảo riêng tư. Nghiên cứu chỉ sử dụng phương pháp thu thập số liệu qua bộ câu hỏi thiết kế sẵn nên không gây tác hại cho đối tượng nghiên cứu. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 204 TCNCYH 123 (7) - 2019 III. KẾT QUẢ Trong khoảng thời gian từ 09/2018 đến 05/2019, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã thu thập được 108 bác sỹ tuyến y tế cơ sở làm việc tại 4 khu vực. Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm chung Số lượng (n) Tỷ lệ % Giới Nam 55 51 Nữ 53 49 Khu vực Hà Nội 24 22,2 Điện Biên 27 25 Huế 16 14,8 Ninh Bình 41 38 Sống cùng người cao tuổi Chưa bao giờ 4 3,7 Đã từng 59 54,6 Hiện tại 45 41,7 Công việc Khám chữa bệnh 84 77,8 Dự phòng 48 44,4 Hành chính 9 8,3 Khác 6 5,6 Tiếp xúc với người cao tuổi khỏe mạnh Hàng ngày/ hàng tuần 85 78,7 Hàng tháng hoặc lâu hơn 23 21,3 Tiếp xúc với người bệnh cao tuổi Hàng ngày/ hàng tuần 80 74,1 Hàng tháng hoặc lâu hơn 28 25,9 Tuổi trung bình ± độ lệch chuẩn (năm) 41,4 ± 8,9 (24 - 56) Thâm niên công tác (năm) 15,83 ± 9,38 (0,5 - 33) Hầu hết đối tượng nghiên cứu đều đã từng hoặc đang sống cùng người cao tuổi (96,3%). Phần lớn đối tượng nghiên cứu đều tiếp xúc và làm việc với người cao tuổi khỏe mạnh cũng như người bệnh cao tuổi với tần suất hàng ngày hoặc hàng tuẩn (78,7% và 74,1 %). TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 205TCNCYH 123 (7) - 2019 Biểu đồ 1. Một số đặc điểm khi làm việc với người cao tuổi Tỉ lệ bác sĩ được đào tạo về người cao tuổi cũng như tham gia hội thảo về người cao tuổi chiếm phần ít (36,1% và 30,6%). Đa số bác sĩ hài lòng khi làm việc với người cao tuổi (94,4%). Gần hai phần ba số người được hỏi gặp khó khăn khi làm việc với người cao tuổi (63%). Biểu đồ 2. Quan niệm số tuổi được coi là già Đa số đối tượng nghiên cứu cho rằng từ 60 tuổi trở lên là già (chiềm 64% số người được hỏi). Có một số lượng không nhỏ (17%) cho rằng từ 70 tuổi trở lên mới được coi là già, cũng như ý kiến khác không đánh giá sự già dựa vào tuổi tác (8%). 36,1% 30,6% 94,4% 63% 63,9% 69,4% 5,6% 37% 0% 20% 40% 60% 80% 100% Được đào tạo về người cao tuổi Tham gia hội thảo về người cao tuổi Hài lòng khi làm việc với người cao tuổi Gặp khó khăn khi làm việc với người cao tuổi Có Không 3% 4% 64% 4% 17% 8% 50 55 60 65 70+ Không dựa vào tuổi TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 206 TCNCYH 123 (7) - 2019 IV. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi, 64% người được hỏi cho rằng từ 60 tuổi trở lên là già (số tuổi được quy định trong Pháp lệnh về người cao tuổi của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 28/04/2000). Có 17% số người được hỏi cho rằng từ 70 tuổi trở lên mới được coi là già. Kết quả này tương tự với nhiều nghiên cứu khác. Theo kết quả điều tra của Văn phòng Nội các Nhật Bản năm 2004, có gần một nửa (48,7%) số người được hỏi cho rằng từ 65 tuổi được cho là già. Bên cạnh đó, có 12,9% số ngưởi được hỏi cho rằng từ 70 tuổi trở lên mới được coi là già [6]. Luo (2013) so sánh thái độ phân biệt tuổi già của sinh viên Mỹ và Trung Quốc, sinh viên Mỹ cho rằng 74 tuổi là mốc đánh dấu cho tuổi già, trong khi đó sinh viên Trung Quốc cho là 71 tuổi. Thật thú vị, hai con số trên cao hơn so với tuổi nghỉ hưu ở 2 nước (Mỹ: 65 tuổi, Trung Quốc: 55/60 tuổi ở nam, 50/55 ở nữ) [7]. Trong nghiên cứu của Duthie (2009), đa số sinh viên vật lý trị liệu ở Scotland cho rằng con người ta bắt đầu được coi là “già” khi họ 60, 65 hoặc 70 tuổi với các câu trả lời từ 40 đến 80 tuổi [8]. Nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có điểm FSA trung bình là 66,58/116, cho thấy thái độ tương đối tích cực. Kết quả này tương tự với một số nghiên cứu. Leung và cộng sự (2008) nghiên cứu 122 bác sĩ ở 2 bệnh viện đại học của tại Autralia thu được điểm FSA trung bình là 61,5 điểm [1]. Nghiên cứu của Mckinze R. Vowels 2014 ở Mỹ, thái độ của sinh viên với người cao tuổi là tương đối tiêu cực (FSA trung bình là 79,4 điểm). Lý do, theo tác giả, có lẽ vì các câu hỏi được dễ dàng nhận ra là tích cực hay tiêu cực và bộ câu hỏi FSA sử dụng để phát hiện thái độ phân biệt tuổi tác rõ ràng hơn là tiềm ẩn [9]. Điểm AAS trung bình của chúng tôi thu được là là 67,81/115,cho thấy thái độ trung lập với người cao tuổi. Tương tự, Hatice Pekince và cộng sự nghiên cứu 242 nhân viện y tế tại 1 bệnh viện năm 2018 ở Thổ Nhĩ Kì thu được điểm AAS trung bình là 68,58 [10]. Ngược lại, Rokaia Fathi Mohammed (2014) nghiên cứu thái độ của sinh viên điều dưỡng ở Ai Cập với người cao tuổi thu được điểm AAS là 54,07 điểm, cho thấy thái độ tương đối tiêu cực [11]. Theo tác giả, mặc dù thực tế này không phản ánh văn hóa tôn trọng người già của Ai Cập, nhưng phát hiện này có thể liên quan đến thiếu Nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có điểm FSA trung bình là 66,58 ± 6,62, điểm AAS trung bình là 67,81 ± 7,29, cho thấy thái độ từ trung lập đến tích cực với người cao tuổi. Bảng 2. Điểm FSA và AAS của nhóm đối tượng nghiên cứu A (Hạn chế cuộc sống NCT) B (Phân biệt tuổi tích cực) C (Phân biệt tuổi tiêu cực) AAS FSA TB ± ĐLC 22,46 ± 4,13 28,45 ± 5,85 16,90 ± 3,38 67,81 ± 7,29 66,58 ± 6,62 GTLN 32 39 26 82 82 GTNN 9 8 8 43 44 NCT: người cao tuổi, TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, GTLN: giá trị lớn nhất, GTNN: giá trị nhỏ nhất, AAS: Ageism Attitude Scale, FSA: Fraboni Scale of Ageism. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 207TCNCYH 123 (7) - 2019 kiến thức và giáo dục về lão hóa, điều kiện sống khó khăn và thay đổi cấu trúc gia đình dẫn tới người cao tuổi mất đi giá trị và việc chăm sóc họ được coi như là 1 gánh nặng của gia đình. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với nhiều tác giả khi sử dụng các bộ câu hỏi khác: Doherty (2011), Yang (2015) đều cho thấy thái độ từ trung lập đến tích cực với người cao tuổi [12; 13]. Yilmaz (2012) nghiên cứu trên đối tượng người trưởng thành nói chung tại Thổ Nhĩ Kì cũng cho thấy thái độ tích cực với người cao tuổi [14]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu của Kearney (2000) lại chỉ ra thái độ tiêu cực của bác sĩ ung thư với người cao tuổi [15]. Theo tác giả, trong một xã hội có sự phân biệt tuổi già thì nhân viên y tế là đối tượng dễ bị tổn thương trong việc tăng cường thái độ phân biệt tuổi già bởi vì sự tăng cường tiếp xúc với người bệnh cao tuổi. V. KẾT LUẬN Thái độ của bác sĩ tuyến y tế cơ sở với người cao tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi là trung lập với điểm FSA và AAS trung bình lần lượt là 66,58 ± 6,62 và 67,81 ± 7,29 điểm. Gần hai phần ba số người được hỏi gặp khó khăn khi làm việc với người cao tuổi, khoảng một phần ba được đào tạo về người cao tuổi hay tham gia hội thảo về người cao tuổi. Do đó, để cải thiện thái độ của các bác sĩ tuyến y tế cơ sở đối với người cao tuổi, các khóa học liên quan đến người cao tuổi nên được thêm vào chương trình đào tạo, cũng như thường xuyên tổ chức các hội thảo về người cao tuổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Leung S, Logiudice D, Schwarz J, et al (2011). Hospital doctors’ attitudes towards older people. Intern Med J, 41 (1). 308 - 314. 2. Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ (2009). Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam. Bộ Y tế, Tổng cục dân số và kế hoạch hóa gia đình. 3. Vauclair C - M, Marques S, Lima ML, et al (2015). Perceived Age Discrimination as a Mediator of the Association Between Income Inequality and Older People’s Self - Rated Health in the European Region. J Gerontol B Psychol Sci Soc Sci, 70(6). 4. Polat U, Karadag A, Ulger Z, et al (2014). Nurses’ and physicians’ perceptions of older people and attitudes towards older people: Ageism in a hospital in Turkey. Contemp Nurse, 48(1). 88 - 97. 5. Fraboni M, Saltstone R, Hughes S (1990). The Fraboni Scale of Ageism (FSA): An Attempt at a More Precise Measure of Ageism. Can J Aging Rev Can Vieil, 9(1). 56 - 66. 6. Japanese Cabinet Office (2004). A Brief Summary of the Results of a Survey on Public Attitudes to Aging. Japan. 7. Luo B, Zhou K, Jin EJ, et al (2013). Ageism among College Students: A Comparative Study between U.S. and China. J Cross - Cult Gerontol, 28(1). 49 - 63. 8. Duthie J and Donaghy M (2009).The Beliefs and Attitudes of Physiotherapy Students in Scotland Toward Older People. Phys Occup Ther Geriatr, 27(3). 245 - 266. 9. Vowels MR and Crandall KJ (2004). A Descriptive Study of Exercise Science Students’ Knowledge of, and Attitudes Toward, Older Adults. Ky Assoc Health Phys Educ Recreat Dance, 266. 10. Pekince H, Aslan H, Erci B, Akturk U (2019).The attitudes of healthcare professionals in a state hospital towards ageism. J Public Health, 26(1). 109 - 117. 11. Mohammed RF and Omar AAA (2019). Knowledge about Elderly Care and Its Relation to Ageism Attitude among Undergraduate Nursing Students. Am J Nurs Res, 7(1), 73 - 78. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 208 TCNCYH 123 (7) - 2019 12. Doherty M and Mitchell EA (2011). Attitudes of healthcare workers towards older people in a rural population: A survey using the Kogan Scale. Nurs Res Pract, 2011. 13. Yang Y and Xiao LD (2015). General practitioners’ knowledge of ageing and attitudes towards older people in China. Australia J Ageing, 34(2). 82 - 87. 14. Yilmaz M, Altiok M, Polat B, et al (2012). Attitudes of young adults towards ageism. Turk J Geriatr, 15(4). 416 - 423. 15. Kearney N, Miller M, Paul J, et al (2000). Oncology healthcare professionals’ attitudes toward elderly people. Ann Oncol Off J Eur Soc Med Oncol, 11(5). 599 - 601. Summary AGEISM IN PRIMARY CARE PHYSICIANS Primary care physicians have early contact with elderly patients, therefore are required to have a non-prejudiced attitude toward this population. This research describes the attitude of primary care professionals towards the elderly in several provinces in Vietnam. 108 medical doctors in Hanoi, Hue, Ninh Binh, Dien Bien province were asked to performed a self-administered questionnaire consisting of questions about socio-demographic characteristics and completion of the AAS ( Polat questionnaire, score range 23 - 115) and FSA (Fabroni questionnaire, score range 29 - 116); AAS and FSA are used to identify the perception and attitude towards the elderly. The mean scores of FSA and AAS were 66.58 ± 6.62 and 67.81 ± 7.29, respectively. In conclusion, primay care physicians generally hold a neutral attitude towards elderly. Keywords: ageism, primary care physicians, attitudes towards elderly.
File đính kèm:
- thai_do_ky_thi_nguoi_cao_tuoi_cua_bac_si_tuyen_y_te_co_so_o.pdf