Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn

Ung thư âm hộ là một bệnh lý ung thư phụ khoa

ít gặp và một phần không nhỏ bệnh nhân chỉ được

chẩn đoán sau một thời gian dài bệnh âm thầm tiến

triển. Hầu hết bệnh nhân thường lớn tuổi và có xu

hướng bỏ qua hay che dấu những triệu chứng tại

chổ như chảy máu, ngứa hoặc xuất hiện khối bướu

to vùng âm hộ. Vì thế, trong một số trường hợp,

bệnh được chẩn đoán khi đã ở giai đoạn tiến triển,

và để kiểm soát tốt tại chổ cần phải cắt rộng sang

thương với diện cắt tối thiểu là 1 cm (ESGO 2017).

Tuy nhiên, trong những trường hợp này, mặc dù kết

cục về mặt ung thư có thể rất tốt, bệnh nhân sẽ phải

thường xuyên đối mặt với vấn đề vết thương khó

lành, bung hở vết thương, nhiễm trùng hay thậm chí

là thoát vị.

Những khuyết hổng lớn ở âm hộ hay tầng sinh

môn, đặc biệt khi có xạ trị trước đó, thường đòi hỏi

những kỹ thuật tạo hình tiên tiến hơn là sử dụng

những vạt tại chổ. Chúng tôi giới thiệu kỹ thuật

dùng vạt nhánh xuyên động mạch thượng vị dưới

sâu (DIEP) và vạt da cơ thon để tái tạo âm hộ trong

2 trường hợp có sang thương to, bệnh nhân đã được

điều trị xạ trị trước đó. Chúng tôi đề xuất nên cân

nhắc lựa chọn những vạt có cuống này bên cạnh

những vạt tại chổ truyền thống để tái tạo những

khuyết hổng lớn ở âm hộ hay vùng đáy chậu vì nó

tối đa hóa hiệu quả thẩm mỹ và giảm thiểu đến mức

thấp nhất những di chứng tại vùng cho vạt.

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 1

Trang 1

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 2

Trang 2

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 3

Trang 3

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 4

Trang 4

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 5

Trang 5

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 6

Trang 6

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 7

Trang 7

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 17660
Bạn đang xem tài liệu "Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn

Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung thư âm hộ: Báo cáo 2 trường hợp tạo hình phức tạp và tổng quan y văn
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 117
Báo cáo trường hợp
TẠO HÌNH KHUYẾT HỔNG TRONG PHẪU THUẬT UNG THƯ 
ÂM HỘ: BÁO CÁO 2 TRƯỜNG HỢP TẠO HÌNH PHỨC TẠP VÀ 
TỔNG QUAN Y VĂN
Lương Chấn Lập1*, Nguyễn Văn Tiến2, Tạ Thanh Liêu2, Nguyễn Việt Dũng3
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.65.17
TÓM TẮT
Phẫu thuật tận gốc cho ung thư âm hộ tiến triển tại chổ thường để lại những khuyết hổng lớn. Những 
khuyết hổng này, đặc biệt trong trường hợp đã xạ trị trước đó, thường cần những kỹ thuật tái tạo tiên tiến 
hơn là sử dụng những vạt tại chổ. Chúng tôi báo cáo 2 trường hợp tái tạo khuyết hổng, một trường hợp 
bằng vạt nhánh xuyên động mạch thượng vị dưới sâu (DIEP) và trường hợp còn lại là bằng vạt da cơ thon. 
Những vạt có cuống này dường như là phương pháp hiệu quả và thích hợp để tái tạo tầng sinh môn sau 
khi cắt rộng bướu cho ung thư âm hộ tiến triển tại chổ, nhất là ở bệnh nhân đã xạ trị.
Từ khóa: ung thư âm hộ, vạt nhánh xuyên động mạch thượng vị dưới sâu (DIEP), vạt da cơ thon, tái 
tạo tầng sinh môn.
ABSTRACT
RECONSTRUCTION OF VULVAR DEFECTS IN VULVAR CANCER: TWO CASES 
REPORT AND LITERATURE REVIEW
Luong Chan Lap1*, Nguyen Van Tien2, Ta Thanh Lieu2, Nguyen Viet Dung3
Performing radical surgery for locally advanced vulvar cancer is usually associated with the occurrence of 
large perineal defects. These defects, especially in previously radiated cases, often require more advanced 
reconstructive techniques using locoregional flaps. We present two cases of vulvar reconstruction, one 
case using a split and thinned, transversely oriented, pedicled deep inferior epigastric artery perforator 
(DIEP) flap and another one with gracilis myocutaneous flap. These pedicled flap seems to be an effective 
and feasible method of perineal reconstruction after extended perineal resection for locally advanced vulvar 
cancers. especially in pre-irradiated patients.
Key words: vulvar cancer, deep inferior epigastric artery perforator flap (DIEP), gracilis myocutaneous 
flap, perineal reconstruction.
1 Khoa Ngoại 1 BVUB TP. HCM. 
2 Khoa Ngoại Phụ khoa BVUB TP.HCM
3 Khoa Ngoại Đầu cổ - Tai mũi họng 
BVUB TP. HCM.
- Ngày nhận bài (Received): 1/10/2020; Ngày phản biện (Revised): 06/10/ 2020; 
- Ngày đăng bài (Accepted): 04 /12 /2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Lương Chấn Lập
- Email: drluong84@gmail.com; ĐT: 0908601329
Bệnh viện Trung ương Huế 
118 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư âm hộ là một bệnh lý ung thư phụ khoa 
ít gặp và một phần không nhỏ bệnh nhân chỉ được 
chẩn đoán sau một thời gian dài bệnh âm thầm tiến 
triển. Hầu hết bệnh nhân thường lớn tuổi và có xu 
hướng bỏ qua hay che dấu những triệu chứng tại 
chổ như chảy máu, ngứa hoặc xuất hiện khối bướu 
to vùng âm hộ. Vì thế, trong một số trường hợp, 
bệnh được chẩn đoán khi đã ở giai đoạn tiến triển, 
và để kiểm soát tốt tại chổ cần phải cắt rộng sang 
thương với diện cắt tối thiểu là 1 cm (ESGO 2017). 
Tuy nhiên, trong những trường hợp này, mặc dù kết 
cục về mặt ung thư có thể rất tốt, bệnh nhân sẽ phải 
thường xuyên đối mặt với vấn đề vết thương khó 
lành, bung hở vết thương, nhiễm trùng hay thậm chí 
là thoát vị.
Những khuyết hổng lớn ở âm hộ hay tầng sinh 
môn, đặc biệt khi có xạ trị trước đó, thường đòi hỏi 
những kỹ thuật tạo hình tiên tiến hơn là sử dụng 
những vạt tại chổ. Chúng tôi giới thiệu kỹ thuật 
dùng vạt nhánh xuyên động mạch thượng vị dưới 
sâu (DIEP) và vạt da cơ thon để tái tạo âm hộ trong 
2 trường hợp có sang thương to, bệnh nhân đã được 
điều trị xạ trị trước đó. Chúng tôi đề xuất nên cân 
nhắc lựa chọn những vạt có cuống này bên cạnh 
những vạt tại chổ truyền thống để tái tạo những 
khuyết hổng lớn ở âm hộ hay vùng đáy chậu vì nó 
tối đa hóa hiệu quả thẩm mỹ và giảm thiểu đến mức 
thấp nhất những di chứng tại vùng cho vạt. 
II. BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Ca thứ 1
Bệnh nhân nữ, 56 tuổi có sang thương âm hộ kích 
thước 15 x 15 cm, chiếm toàn bộ âm hộ, lan lên đến 
xương mu nhưng chưa xâm lấn âm đạo, hậu môn 
trực tràng (Hình 1.1). Sinh thiết bướu cho kết quả là 
Carcinôm tế bào gai grad 3. Bệnh nhân có hạch bẹn 
nghi di căn trên siêu âm nhưng chưa thấy hạch chậu 
bệnh lý trên CTscan. Bệnh nhân được phẫu thuật 
cắt âm hộ toàn bộ với bờ diện cắt cách bướu 2 cm 
và nạo hạch bẹn 2 bên (Hình 1.2). Sau đó chúng 
tôi lấy một vạt DIEP có cuống 2 bên theo chiều 
ngang bằng cách rạch da theo hình elip nằm ngang ở 
vùng da bụng dưới tương tự như cách lấy vạt DIEP 
truyền thống cho tái tạo tuyến vú (Hình 1.3). Đánh 
giá bằng siêu âm trước và trong lúc mổ cho thấy 
động mạch thương vị sâu dưới và dãy nhánh xuyên 
2 bên đều tốt. Vạt da thiết kế theo hình trám dưới 
rốn, rạch đến lớp cân nông, vạt da được nâng từ 
ngoài vào trong khi đến bờ ngoài cơ thẳng bụng thì 
phải thận trọng để tránh làm tổn thương các nhánh 
xuyên chính. Lựa chọn 1 hoặc 2 nhánh xuyên chính 
kèm tĩnh mạch, phẫu tích nhánh xuyên và tĩnh mạch 
đi kèm đến vị trí  ... khuyết hổng lớn hơn cần những kỹ thuật tạo 
hình để khép lại vết thương, tránh làm chậm lành 
vết thương tầng sinh môn và trì hoãn việc xạ trị bổ 
túc cần thiết sau đó.
Mục tiêu của việc tạo hình âm hộ là nhằm trả lại 
cấu trúc giải phẫu và chức năng của cơ quan sinh 
dục ngoài, duy trì bề ngoài bình thường của cơ thể, 
đảm bảo chức năng sinh dục và chức năng bài tiết 
cho bệnh nhân.
Do đặc điểm da và mô dưới da ở vùng quanh âm 
hộ rất mềm mại và di động nên đối với các khuyết 
hổng nhỏ có thể dễ dàng sử dụng các vạt ngẫu nhiên 
để che phủ. Ngoài ra, lân cận vùng này còn có nhiều 
nguồn tài nguyên khác để che phủ các khuyết hổng 
lớn hơn. Đó là các vạt có cuống như vạt da - cơ thon, 
vạt da - cơ căng mạc đùi, vạt da - cơ thẳng bụng.
Đối với những khuyết hổng lớn ở âm hộ, việc 
tạo hình cần phải thực hiện được 3 nhiệm vụ chính 
là: 1. Lấp đầy khoảng chết, 2. Che phủ xương mu 
và 3. Lót mặt trong vùng xung quanh âm đạo niệu 
quản. Đặc biệt trong những trường hợp bệnh nhân 
đã xạ trị trước đó, việc sử dụng những vạt có cuống 
sẽ giảm thiểu biến chứng ở nơi cho vạt và cung cấp 
Hình 2.2-2.5: Sử dụng vạt da cơ thon bắt nguồn
từ cơ thon phải
Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung th âm hộ...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 121
một lượng lớn mô da cách xa vùng bị ảnh hưởng 
bởi tia xạ.
Những vạt da cơ được lấy từ cơ thon, cơ mông 
lớn hay cơ thẳng bụng được coi là tiêu chuẩn vàng 
để tái tạo âm hộ trong một thời gian dài. Lựa chọn 
vạt nào sau khi cắt âm hộ có vẻ bị ảnh hưởng lớn 
bởi vị trí của khuyết hổng. Nếu tổn thương nằm 
lệch về phía sau và có kích thước lớn không thể che 
phủ được bằng các vạt ngẫu nhiên được thì vạt da 
cơ thon là một giải pháp được lựa chọn. Đây là vạt 
có cuống sử dụng phần da cơ được cung cấp máu 
nuôi từ các nhánh xuyên từ cơ thon ở mặt trong đùi. 
Những vạt cơ mông và cơ thon có vẻ thích hợp để 
tái tạo cho những khuyết hổng kích thước trung bình 
(kích thước khoảng từ 20 - 60 cm3) tạo thành do cắt 
hậu môn trực tràng, âm hộ và âm đạo, nhằm điều trị 
những ung thư vùng tầng sinh môn tiến triển tại chổ 
[4]. Được mô tả lần đầu tiên bởi McCraw và cs vào 
năm 1976 [10] vạt da cơ thon đã nhanh chóng trở 
thành lựa chọn được ưa thích khi tái tạo âm hộ [12], 
[14]. Tuy nhiên kỹ thuật này có nhược điểm là việc 
chuyển vạt thường sẽ làm giảm chức năng của chi 
dưới và mức độ xoay vạt có thể bị ảnh hưởng đáng 
kể bởi bám tận của cuống mạch máu nuôi [6], [17]. 
Khi tái tạo bằng vạt da cơ thon, bệnh nhân được 
đặt ở tư thế phụ khoa. Khớp hông duỗi và dạng. Mặt 
trong đùi được sát khuẩn cho đến gối để cho phép 
tiếp cận nhóm các cơ ở mặt trong đùi. Một đảo da 
hình bầu dục có kích thước tối đa lên đến 6 cm x 
20 cm được phác họa trên bề mặt 2/3 gần của cơ. 
Giới hạn trước của đường rạch da nằm trên đường 
thẳng nối giữa củ mu và gân cơ bán gân. Có thể 
rạch một đường rạch da nhỏ, riêng lẻ ở đầu xa để 
xác định gân cơ nếu cần thiết. Phía trước da được 
rạch xuống đến nhóm cơ trong. Cơ thợ may được 
xác định và kéo lên phía trên. Gân cơ thon được 
xác định ở đầu xa, thường là qua một đường rạch 
ngắn riêng lẻ, và phần bám vào gân được cắt rời. 
Đường rạch phía sau được rạch sâu xuống đến cơ, 
chú ý để không đào sâu bên dưới các nhánh xuyên 
đi từ cơ vào da hay tách rời da phía trên với lớp cơ 
bên dưới. Sau đó vạt được nâng lên theo hướng từ 
xa đến gần. Ở đầu xa, một hoặc hai nhánh xuyên 
lớn đi vào cơ được cắt bỏ. Cuống mạch chính đi vào 
1/3 gần của cơ thon ở khoảng giữa cơ khép dài và 
cơ khép lớn, khoảng 8 - 10 cm bên dưới củ mu. Một 
khi cuống mạch đã được xác định và bảo tồn thì có 
thể cắt bỏ đầu gần của cơ nếu cần thiết. Sau đó toàn 
bộ vạt da cơ có thể được đưa đến khuyết hổng qua 
đường hầm dưới da. Sau thì tái tạo thì khuyết hổng 
ở nơi cho vạt được may khép lại. Có thể sử dụng 
vạt cơ thon ở cả hai bên để che khuyết hổng lớn 
hoặc để tái tạo âm đạo trong phẫu thuật đoạn chậu 
toàn phần. Điều này đã được chứng minh trong một 
nghiên cứu ở Phần Lan, Kaartinen và cs [11] đã tiến 
hành đoạn chậu toàn phần 12 bệnh nhân, trong đó 2 
người được đoạn chậu do ung thư âm hộ tiến triển 
tại chổ. Tất cả đều được tái tạo bằng vạt da cơ thon. 
06 trường hợp tái tạo một bên, 06 ca còn lại sử dụng 
vạt có cuống 2 bên. Trong 18 vạt da cơ thon được 
thực hiện, chỉ có 01 vạt đơn bị hoại tử đầu xa. Hơn 
thế nữa, những vạt được sử dụng để tái tạo lại âm 
đạo trong 5 trường hợp và không có biến chứng hậu 
phẫu nào được ghi nhận. Ngoài ra phương pháp tạo 
hình vùng chậu bằng vạt da cơ thon còn hiệu quả 
trong những trường hợp có tiền căn xạ trị. Trong 
nghiên cứu của Vermaas và cs [17] bao gồm 25 
bệnh nhân được tạo hình vì ung thư vùng chậu sau 
xạ trị, thời gian trung vị lành vết thương là 17 ngày 
cho vùng cho vạt và 190 ngày cho khuyết hổng tầng 
sinh môn. Tuy nhiên, không có vạt da cơ thon nào 
bị hoại tử. Các tác giả đã chứng minh công dụng 
của phương pháp khi giúp làm lành vết thương âm 
hộ tốt hơn sau phẫu thuật tận gốc ung thư âm hộ tiến 
triển tại chổ, cũng như là phương pháp khả thi để tạo 
hình âm đạo, đồng thời chứng minh hiệu quả của 
phương pháp này ngay cả ở những bệnh nhân đã xạ, 
với tỷ lệ thấp biến chứng trong lúc mổ và tăng tỷ lệ 
lành khuyết hổng tầng sinh môn hoàn toàn.
Mặc dù hầu hết những khuyết hổng kích thước 
nhỏ đến trung bình có thể may khép được, nhưng 
tỷ lệ bung vết mổ lên đến 85% [3], [19], thường là 
Bệnh viện Trung ương Huế 
122 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
do nhiều yếu tố, như căng do nhiễm trùng hay ảnh 
hưởng của việc xạ trị trước đó. Ghép da có thể cho 
kết quả không tốt do sẹo co rút, đặc biệt nếu có xạ 
trị trước đó, dẫn đến biến dạng cấu trúc giải phẫu tại 
chổ với sự xáo trộn chức năng, thẩm mỹ và tâm lý 
nghiêm trọng. Những vạt tại chổ như vạt hình thoi, 
vạt trượt V-Y, hay vạt có cuống/ vạt đảo thường 
được sử dụng dựa trên nguồn máu nuôi phong phú 
ở vùng này, bao gồm những lựa chọn truyền thống 
như vạt Singapore, vạt da cơ thon, vạt cơ mông, vạt 
cơ thẳng bụng và ngay cả vạt đùi trước ngoài (ALT) 
[8], [9]. Tuy nhiên, cần chọn lựa và lên kế hoạch tạo 
vạt cẩn thận vì tỷ lệ tái phát trong ung thư âm hộ 
vẫn còn cao: lên đến 50% phụ nữ cần can thiệp lần 2 
trong vòng 14 tháng đầu sau khi chẩn đoán [10], và 
tỷ lệ tái phát trong vòng 5 năm là từ 21 đến 33% [7], 
[15]. Tạo hình lần 2 thường khó khăn hơn vì hạn chế 
trong việc lấy vạt (do vạt đã lấy trước đó hay xạ trị) 
và thường đây là những khuyết hổng lớn hơn nên có 
thể phải cần những vạt tại chổ tại vùng ở 2 bên với 
những biến chứng nhiều hơn. Việc tái tạo lý tưởng 
là có thể cung cấp được một vùng mô có kích thước 
lớn được cấp máu tốt mà độ dày tương tự, khôi phục 
được cả chức năng và sự nhạy cảm, khôi phục được 
vẻ ngoài bình thường, có thể che được sẹo và giảm 
thiểu tối đa biến chứng ở vùng cho vạt. Vạt da cơ 
thon vẫn là lựa chọn phổ biến, nhưng vạt da ở xa có 
thể không đáng tin cậy hay không thích hợp về kích 
thước hay tầm với. Những khuyết hổng lớn như cắt 
âm hộ toàn bộ và lấy vạt cơ thon 2 bên cũng có thể 
hạn chế di động của bệnh nhân sau mổ do đau và có 
thể thấy sẹo. Vạt đùi trước ngoài (ALT) cũng có thể 
để lại sẹo thấy được ở vùng cho vạt, và vạt cơ mông 
làm hạn chế cử động ngồi sau mổ. Vạt da cơ thẳng 
bụng theo chiều dọc (VRAM) vẫn thường được sử 
dụng cho những khuyết hổng lớn sau khi đoạn chậu 
hay cắt cụt trực tràng qua đường bụng – tầng sinh 
môn, nhưng nó làm tăng biến chứng phình/thoát vị 
tại chổ cho vạt, có thể quá cồng kềnh và có thể cần 
có một cuộc mổ thứ 2 thu nhỏ lại (9). Mặc dù vạt 
DIEP theo chiều dọc đã được mô tả bởi một số tác 
giả [13], [16], chúng tôi vẫn ưu chuộng vạt DIEP 
theo chiều ngang. Da và mô vùng bụng thường cách 
xa vùng bị ảnh hưởng của xạ trị trước đó và thường 
có sẵn do nhiều phụ nữ có mô thừa và lỏng lẻo theo 
chiều ngang sau khi thay đổi cân nặng thường là do 
mang thai. Kết quả đồng thời thu nhỏ vòng bụng có 
thể được coi là lợi ích thứ 2 của phương pháp này 
đối với vùng cho vạt. Vết sẹo có thể được che dấu 
dễ dàng và kết quả là cải thiện vòng bụng trong khi 
tránh được các biến chứng liên quan đến vạt VRAM 
truyền thống. Một số bài báo cáo việc sử dụng vạt 
DIEP để tái tạo âm đạo cho những trường hợp bất 
sản bẩm sinh và tái tạo trong ung thư với đường mổ 
dọc [1], [2], [18]. Trong một báo cáo sau đó, Ang đã 
mô tả thêm nhiều kỹ thuật mổ cải tiến để làm mỏng 
vạt DIEP một cách an toàn cho nhiều loại tạo hình 
tầng sinh môn, bao gồm bất sản âm đạo bẩm sinh, 
cắt bỏ u âm hộ và bệnh Paget ở gốc bìu dương vật 
[1]. Các tác giả đã rất cẩn thận làm mỏng vạt theo 
mặt phẳng bên dưới hệ thống tĩnh mạch thượng vị 
nông (SIEV) và đám rối dưới da dựa trên kết quả 
chụp CT mạch máu trước mổ và thành công làm 
mỏng vạt từ 28-38mm xuống còn 6-11mm [5]. Kỹ 
thuật này đòi hỏi việc phẫu thuật tỉ mỉ và có kinh 
nghiệm để bảo tồn những cấu trúc mạch máu quan 
trọng để có được những vạt mỏng đáng kể. Mặc dù 
một vạt mỏng như vậy có thể cần cho tái tạo âm đạo 
và gốc bìu, cấu trúc lồi lõm của xương mu và vùng 
âm hộ có thể tái tạo phù hợp một cách đơn giản và 
an toàn hơn bằng cách làm mỏng mô mỡ dưới mạc 
Scarpa khi cần thu nhỏ lại. Vùng này có một lượng 
tương đối nhỏ các mạch máu liên kết nhau, và lấy 
đi lớp mô này ít có khả năng làm ảnh hưởng nguồn 
cấp máu cho vạt (20). Hiểu được vùng cấp máu của 
nhánh xuyên vạt DIEP cho phép thu nhỏ vạt tức thì 
và tách 1 phần vạt để có được phần còn lại tối ưu 
mà không làm ảnh hưởng khả năng sống của vạt. 
Chúng tôi tin rằng vạt DIEP được tách ra và làm 
mỏng, theo chiều ngang có thể được cân nhắc là lựa 
chọn chính cho những khuyết hổng lớn, cả trong tái 
tạo lần đầu hay kỳ sau. Kỹ thuật này giảm thiểu biến 
Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung th âm hộ...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 123
chứng ở vùng cho vạt và cung cấp một lượng lớn da 
có sẵn cách xa chổ bị ảnh hưởng bởi tia xạ, dấu sẹo 
tốt, cuống dài với mô có mạch máu nuôi mạnh mẽ, 
và khả năng làm mỏng mô an toàn để có được hiệu 
quả thẩm mỹ tối ưu chỉ với một cuộc mổ.
IV. KẾT LUẬN
Mục đích của việc tạo hình âm hộ vẫn là phục hồi 
giải phẫu học cơ quan sinh dục ngoài, bảo tồn vẻ ngoài 
bình thường cho cơ thể, đảm bảo chức năng sinh dục 
và bài tiết. Tùy theo sự lan rộng tại chổ, vị trí và kích 
thước sang thương âm hộ mà lựa chọn kỹ thuật tạo hình 
phù hợp. Bác sĩ ung thư phụ khoa nên có khả năng thực 
hiện những vạt đơn giản cho phép đóng vết thương mà 
không bị căng, nhưng cũng cần có kiến thức và sự trợ 
giúp của bác sĩ phẫu thuật tạo hình khi cần cho những 
vạt có cuống phức tạp hơn hay vạt da cơ. Vạt da cơ 
thon và vạt DIEP nên được cân nhắc cho những khuyết 
hổng lớn, đặc biệt là ở những bệnh nhân đã xạ trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ang Z, Qun Q, Peirong Y, et al. Refined DIEP 
flap technique for vaginal reconstruction. Urol-
ogy 2009;74:197-201.
2. Binder JP, Méria P, Desgrandchamps F, Revol 
M, Servant JM. [Vaginal reconstruction after 
anterior pelvectomy by deep inferior epigas-
tric perforator flap (DIEP)]. Ann Urol (Paris) 
2006;40: 192-202.
3. Carramaschi F, Ramos ML, Nisida AC, Ferreira 
MC, Pinotti JA. V-Y flap for perineal reconstruc-
tion following modified approach to vulvectomy 
in vulvar cancer. Int J Gynaecol Obstet 1999;65: 
157-163.
4. Deutinger M, Kuzbari R, Paternostro-Sluga T, 
Quittan M, Zauner-Dungl A, Worseg A, Todoroff 
B, Holle J. Donor-site morbidity of the gracilis 
flap. Plast Reconstr Surg. 1995; 95(7): 1240-4.
5. Fang BR, Ameet H, Li XF, et al. Pedicled thinned 
deep inferior epigastric artery perforator flap for 
perineal reconstruction: a preliminary report. J 
Plast Reconstr Aesthet Surg 2011;64: 1627-1634.
6. Friedman J, Dinh T, Potochny J. Reconstruction 
of the perineum. Semin Surg Oncol. 2000; 19(3): 
282-93. 
7. Gonzalez Bosquet J, Magrina JF, Gaffey TA, et 
al. Long-term survival and disease recurrence in 
patients with primary squa-mous cell carcinoma 
of the vulva. Gynecol Oncol 2005;97: 828-833.
8. Hage JJ, Beurden Mv. Reconstruction of ac-
quired perineovulvar defects: a proposal of se-
quence. Semin Plast Surg 2011;25: 148-154.
9. Hollenbeck ST, Toranto JD, Taylor BJ, et al. Per-
ineal and lower extremity reconstruction. Plast 
Reconstr Surg 2011;128: 551e-563e.
10. Jones RW, Rowan DM, Stewart AW. Vulvar in-
traepithelial neopla-sia: aspects of the natural 
history and outcome in 405 women. Obstet Gy-
necol 2005;106:1319-1326.
11. Kaartinen IS, Vuento MH, Hyoty MK, Kallio 
J, Kuokkanen HO. Reconstruction of the pel-
vic floor and the vagina after total pelvic exen-
teration using the transverse musculocutaneous 
gracilis flap. J Plast Reconstr Aesthet Surg. 2015; 
68(1): 93-7. DOI: 10.1016/j.bjps.2014.08.059.
12. McCraw JB, Massey FM, Shanklin KD, Horton 
CE. Vaginal reconstruction with gracilis myocu-
taneous flaps. Plast Reconstr Surg. 1976; 58(2): 
176-83. 
13. Muneuchi G, Ohno M, Shiota A, Hata T, Igawa 
HH. Deep inferior epigastric perforator (DIEP) 
flap for vulvar reconstruction after radical vul-
vectomy: a less invasive and simple procedure 
utilizing an abdominal incision wound. Ann 
Plast Surg 2005;55: 427-429.
14. Ouar N, Mazouz-Dorval S, Revol M, Sorin T. 
Perineal reconstruction: The use of a gracilis 
Bệnh viện Trung ương Huế 
124 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
muscle flap for urethral fistula coverage, our 
point of view. Ann Chir Plast Esthet. 2017; 62(2): 
163-6. DOI: 10.1016/j.anplas.2016.10.004.
15. Rouzier R, Haddad B, Plantier F, Dubois P, 
Pelisse M, Paniel BJ. Local relapse in patients 
treated for squamous cell vulvar carcinoma: in-
cidence and prognostic value. Obstet Gynecol 
2002;100: 1159-1167.
16. Santanelli F, Paolini G, Renzi L, Persechino S. 
Preliminary experi-ence in reconstruction of the 
vulva using the pedicled vertical deep inferior 
epigastric perforator flap. Plast Reconstr Surg 
2007;120:182-186.
17. Vermaas M, Ferenschild FT, Hofer SO, Verhoef 
C, Eggermont AM, de Wilt JH. Primary and sec-
ondary reconstruction after surgery of the irradi-
ated pelvis using a gracilis muscle flap transpo-
sition. Eur J Surg Oncol. 2005; 31(9): 1000-5. 
DOI: 10.1016/j.ejso.2005.02.004.
18. Wang X, Qiao Q, Burd A, et al. A new technique 
of vaginal reconstruction with the deep inferior 
epigastric perforator flap: a preliminary report. 
Plast Reconstr Surg 2007;119:1785-1790, dis-
cussion 1791.
19. Weikel W, Hofmann M, Steiner E, Knapstein 
PG, Koelbl H. Reconstructive surgery following 
resection of primary vulvar cancers. Gynecol 
Oncol 2005;99:92-100.
20. Wong C, Saint-Cyr M, Arbique G, et al. Three- 
and four-dimensional computed tomography an-
giographic studies of commonly used abdomi-
nal flaps in breast reconstruction. Plast Reconstr 
Surg 2009;124:18-27.
Tạo hình khuyết hổng trong phẫu thuật ung th âm hộ...

File đính kèm:

  • pdftao_hinh_khuyet_hong_trong_phau_thuat_ung_thu_am_ho_bao_cao.pdf