Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng

Đặt vấn đề: Táo bón là một vấn đề thường gặp ở đối tượng người cao tuổi và ảnh hưởng rất lớn đến

sức khỏe về thể chất và tinh thần của người cao tuổi, làm giảm chất lượng cuộc sống và tiêu tốn khá nhiều

chi phí để chăm sóc và điều trị. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu: khảo sát tỷ lệ táo bón và một số

yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa Nội Lão - Bệnh viện C Đà Nẵng năm 2019.

Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 90 người bệnh cao tuổi tại

bệnh viện C Đà Nẵng từ tháng 12/2018 đến tháng 5/2019 bằng bộ câu hỏi tự phát triển và công cụ chẩn

đoán táo bón theo tiêu chuẩn ROME IV. Thống kê mô tả và phép kiểm Chi square được sử dụng để phân

tích số liệu.

Kết quả: Tỷ lệ người bệnh cao tuổi đang điều trị tại khoa Nội lão - Bệnh viện C bị táo bón là 38,9%. Tỷ

lệ mắc táo bón ở người bệnh có tiền sử táo bón là 51,8%, thỉnh thoảng ăn ít chất xơ là 52,4%, uống < 1 lít

nước là 54,5%, hiếm khi hoạt động thể lực là 64,7%, người bệnh ăn qua sonde dạ dày là 100%. Các sự

khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Kết luận: Tỷ lệ táo bón ở người bệnh cao tuổi là 38,9%. Các yếu tố liên quan đến táo bón bao gồm: Có

tiền sử táo bón, chế độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, hạn chế hoạt động thể lực, dinh dưỡng qua sonde dạ dày.

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 1

Trang 1

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 2

Trang 2

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 3

Trang 3

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 4

Trang 4

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 5

Trang 5

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 6

Trang 6

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 12820
Bạn đang xem tài liệu "Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng

Táo bón và một số yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa nội lão - Bệnh viện C Đà Nẵng
Bệnh viện Trung ương Huế 
62	 Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021
Nghiên cứu
TÁO BÓN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI BỆNH TẠI KHOA NỘI LÃO - BỆNH VIỆN C ĐÀ NẴNG 
Nguyễn Thị Hoàng Yến1,2, Trần Thị Hoàng Oanh1*
DOI: 10.38103/jcmhch.2021.68.9
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Táo bón là một vấn đề thường gặp ở đối tượng người cao tuổi và ảnh hưởng rất lớn đến 
sức khỏe về thể chất và tinh thần của người cao tuổi, làm giảm chất lượng cuộc sống và tiêu tốn khá nhiều 
chi phí để chăm sóc và điều trị. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu: khảo sát tỷ lệ táo bón và một số 
yếu tố liên quan ở người bệnh tại khoa Nội Lão - Bệnh viện C Đà Nẵng năm 2019.
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 90 người bệnh cao tuổi tại 
bệnh viện C Đà Nẵng từ tháng 12/2018 đến tháng 5/2019 bằng bộ câu hỏi tự phát triển và công cụ chẩn 
đoán táo bón theo tiêu chuẩn ROME IV. Thống kê mô tả và phép kiểm Chi square được sử dụng để phân 
tích số liệu. 
Kết quả: Tỷ lệ người bệnh cao tuổi đang điều trị tại khoa Nội lão - Bệnh viện C bị táo bón là 38,9%. Tỷ 
lệ mắc táo bón ở người bệnh có tiền sử táo bón là 51,8%, thỉnh thoảng ăn ít chất xơ là 52,4%, uống < 1 lít 
nước là 54,5%, hiếm khi hoạt động thể lực là 64,7%, người bệnh ăn qua sonde dạ dày là 100%. Các sự 
khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Kết luận: Tỷ lệ táo bón ở người bệnh cao tuổi là 38,9%. Các yếu tố liên quan đến táo bón bao gồm: Có 
tiền sử táo bón, chế độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, hạn chế hoạt động thể lực, dinh dưỡng qua sonde dạ dày.
Từ khoá: Người cao tuổi, táo bón, hạn chế vận động, ít nước, ít chất xơ
ABSTRACT
FACTORS RELATED TO CONSTIPATION AMONG PATIENTS IN GERIATRIC 
DEPARTMENT - DANANG C HOSPITAL
Nguyen Thi Hoang Yen1,2, Tran Thi Hoang Oanh1*
Background: Constipation is one of the most common health problem in older adults with a lot of 
negative effect on physical and psychosocial health status. It decreases the quality of life of older adults and 
increase health care expenditure. This study was conducted with two objectives: Determine the percentage 
of geriatric patients who had constipation and investigate the relationship between constipation with some 
factors among geriatric patients in Danang C hospital in 2019.
Methods: This is a cross-sectional descriptive study. Nighty geriatric patients were recruited from 
Geriatric Department - Danang C hospital. Data was collected using two instruments: a demographic 
questionnaire and ROME IV criteria for constipation diagnosis. Data were analysed using descriptive 
statistics and Chi-square.
1Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Kỹ 
thuật Y - Dược Đà Nẵng
2Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đà Nẵng
- Ngày nhận bài (Received): 05/3/2021; Ngày phản biện (Revised): 08/4/2021; 
- Ngày đăng bài (Accepted): 27/4/2021
- Người phản hồi (Corresponding author): Trần Thị Hoàng Oanh 
- Email: hoangoanh@dhktyduocdn.edu.vn; SĐT: 0914660704
Táo bón và một số yếu tố liên quan ở ười bệnh...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021	 63
Táo bón là một trong những vấn đề sức khỏe phổ 
biến nhất. Táo bón có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, từ 
trẻ sơ sinh đến người cao tuổi. Tỷ lệ mắc táo bón 
tăng theo tuổi, với 76,47% của nhóm tuổi từ 61 tuổi 
đến 80 tuổi [2]. Táo bón là hiện tượng rối loạn cảm 
giác đại tiện, phân trở nên rắn, mỗi lần đại tiện cần 
có sự trợ giúp, số lần đi ngoài ít dưới 3 lần/tuần [1]. 
Là một trong những triệu chứng rất phổ biến của 
bệnh lý hệ thống tiêu hóa và cũng là triệu chứng 
xuất hiện trong nhiều bệnh lý ở cơ quan khác. 
Táo bón không chỉ gây ra những các vấn đề sức 
khỏe liên quan khác mà còn có nhiều ảnh hưởng 
tiêu cực đến tinh thần ở người cao tuổi. Nếu xảy 
ra thường xuyên sẽ khiến người cao tuổi luôn 
cảm thấy khó chịu, mệt mỏi, chán ăn, sụt cân ảnh 
hưởng lớn tới sức khỏe. Táo bón kéo dài có thể gây 
ra các chứng bệnh khác như trĩ, sa trực tràng, ung 
thư trực tràng, chảy máu, rách hậu môn, tăng nguy 
cơ nhồi máu não hoặc xuất huyết não ở người cao 
tuổi có bệnh lý tim mạch.[7]. Từ đó, táo bón có 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống, 
chức năng xã hội và hoạt động sinh hoạt hàng ngày 
của người cao tuổi [13]. 
Hiện đã có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới 
nghiên cứu về nội dung này [6][11][14]. Tuy nhiên, 
ở Việt Nam số đề tài nghiên cứu về táo bón ở người 
cao tuổi đang còn hạn chế, đặc biệt ở khu vực miền 
Trung hiện chưa tìm thấy đề tài liên quan. Nhằm 
bước đầu tạo cơ sở cho việc xây dựng bằng chứng 
để thực hành, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài 
“Nghiên cứu tỷ lệ táo bón và một số yếu tố liên quan 
ở người bệnh tại khoa Nội Lão - Bệnh viện C Đà 
Nẵng năm 2019” với hai mục tiêu sau:
- Xác định tỷ lệ táo bón ở người bệnh tại khoa 
Nội Lão - Bệnh viện C Đà Nẵng năm 2019.
- Tìm hiểu mối liên quan giữa một số yếu tố với 
táo bón ở người bệnh tại khoa Nội Lão - Bệnh viện 
C Đà Nẵng năm 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Người bệnh  ... constipation. The incidence of constipation in patients 
with occasionally eating less fibber was 52,4%, drinking <1 litter of water was 54,5%, rarely physical activity 
was 64,7%, patients with nasogastric intubation was 100%. These differences was significant (p<0,05). 
Conclusions: Constipation rate in the geriatric patients was 38,9%. There was some constipation’s 
related factors: a low-fibber diet, drinking less water, limited physical activity, having nasogastric intubation.
Keywords: geriatric patient, constipation, limited physical activity, less water intake, low-fibber diet 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện Trung ương Huế 
64	 Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021
- Đại tiện dưới 3 lần/tuần. 
- Rặn nhiều, lâu khi đại tiện. 
- Phân khô cứng, hay vón cục (Kiểu 1 hoặc 2 
theo thang hình dạng phân Bristol). 
- Đại tiện xong vẫn không thấy hết phân. 
- Cảm thấy như bị nghẽn tắc vùng hậu môn 
trực tràng.
- Các thao tác thủ công để tạo điều kiện thuận lợi 
cho đại tiện.
2.3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê y học 
trên phần mền máy tính theo chương trình SPSS 
22.0, Exel 2016.
Các phép thống kê mô tả (N, %) được sử dụng để 
mô tả các biến. Phép kiểm chi bình phương được sử 
dụng để so sánh sự khác biệt giữa các nhóm.
2.4. Vấn đề y đức
Nghiên cứu được thực hiện sau khi có sự chấp 
thuận của Trường Đại học Kỹ thuật Y-Dược Đà 
Nẵng và đã được thẩm định thông qua theo Quyết 
định số 346/QĐ-ĐHKTYDĐN ngày 30 tháng 5 
năm 2019.
Tất cả các đối tượng tham gia đều được giải thích 
rõ ràng, cụ thể về mục đích, nội dung của nghiên 
cứu. Đối tượng tự nguyện tham gia nghiên cứu và 
được quyền dừng ở bất kỳ thời điểm nào trong quá 
trình phỏng vấn. 
Các thông tin thu được chỉ phục vụ cho mục đích 
nghiên cứu mà không phục vụ cho bất kỳ mục đích 
nào. Các thông tin thu được trong quá trình nghiên 
cứu được cam kết giữ bí mật tuyệt đối.
III. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Thông tin chung về đối tượng
Đặc điểm Số lượng %
Độ tuổi
< 70 tuổi 8 8,9
70 – 80 tuổi 30 33,3
80 – 90 tuổi 42 46,7
>90 tuổi 10 11,1
Trung bình = 80,78
Giới tính
Nam 36 40,0
Nữ 54 60,0
Nghề nghiệp
Hưu trí 80 88,9
Nội Trợ 6 6,7
Buôn bán 3 3,3
Nông dân 1 1,1
Tiền sử táo bón
Có 55 61,1
Không 35 38,9
Tiền sử phẫu thuật bụng, phụ khoa
Có 25 27,8
Không 65 72,2
Số lượng bệnh kèm 
1 bệnh 30 33,3
2 bệnh 38 42,2
3 bệnh 18 20
4 bệnh 4 4,4
Táo bón và một số yếu tố liên quan ở ười bệnh...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021	 65
Độ tuổi của người tham gia nghiên cứu chủ yếu thuộc nhóm từ 80 – 90 tuổi (46,7%) và 11,1% người 
bệnh trên 90 tuổi. Nhóm nghiên cứu có 60% nữ, 40% nam. Phần lớn người tham gia nghiên cứu là cán 
bộ hưu trí (88,9%). Với 61,1% đối tượng có tiền sử táo bón và đa số có 2 bệnh lý kèm theo chiếm 42,2%.
3.2. Tỷ lệ táo bón
Biểu đồ 1: Tỷ lệ (%) táo bón
Biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ mắc chứng táo bón của nhóm nghiên cứu là 38,9%. Còn lại chiếm 61,1% nhóm 
nghiên cứu không mắc táo bón.
3.3. Mối liên quan giữa táo bón và một số yếu tố
Bảng 2: Mối liên quan giữa chế độ ăn, lượng nước uống hằng ngày,
hoạt động thể lực, hình thức nuôi dưỡng với táo bón 
Đặc điểm
N
Táo bón Không táo bón Tổng
p
% N % N %
Tần suất ăn 
rau và trái cây
Hiếm khi 3 50 3 50 6 100
<0,05Thỉnh thoảng 22 52,4 20 47,6 42 100
Thường xuyên 10 23,8 32 76,2 42 100
Lượng nước 
uống hằng 
ngày
 >2 lít 0 0 1 100 1 100
<0,05
1,5-2 lít 2 11,8 15 88,2 17 100
1-1,5 lít 21 42 29 58 50 100
<1 lít 12 54,5 10 45,5 22 100
Hoạt động thể 
lực
Hiếm khi 11 64,7 6 35,5 17 100
<0,05Thỉnh thoảng 18 37,5 30 62,5 48 100
Thường xuyên 6 24 19 76 25 100
Hình thức 
nuôi dưỡng
Tự ăn 31 36 55 64 86 100
<0,05
Ăn qua sonde 4 100 0 0 4 100
Tổng 35 38,9 55 61,1 90 100
 Tiền sử táo bón, chế độ ăn, lượng nước uống hằng ngày, hoạt động thể lực, hình thức nuôi dưỡng là 
các yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ mắc táo bón với p<0,05.
Bệnh viện Trung ương Huế 
66	 Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021
III. BÀN LUẬN
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi khảo sát 90 
người bệnh là người cao tuổi đang điều trị nội trú tại 
khoa Nội Lão Bệnh viện C Đà Nẵng thì nhóm người 
bệnh từ 80 – 90 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 46,7%, có 
đến 10 người bệnh trên 90 tuổi chiếm 11,1%, tuổi 
trung bình là 80,78 tuổi. Kết quả này cao hơn nghiên 
cứu của Hồ Thị Kim Thanh với độ tuổi trung bình 
là 73,7 ± 11,5 tuổi [3]. Có sự khác biệt này là do hai 
nghiên cứu được tiến hành ở các vùng miền có điều 
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế khác nhau. Trong 
nghiên cứu, tỷ lệ 40% người bệnh là nam giới, 60% 
là nữ giới. Kết quả tương tự nghiên cứu 124 người 
bệnh của Hồ Thị Kim Thanh (2014) có 45,2% nam 
và 54,8% nữ [3]. Đa số người bệnh tham gia nghiên 
cứu là hưu trí 88,9%, một số nhỏ là nội trợ và nông 
dân. Điều này phù hợp với đặc thù của Bệnh viện C 
Đà Nẵng là nơi điều trị và chăm sóc phần lớn cán bộ 
công tác ở các cơ quan nhà nước đã về hưu.
Trong nghiên cứu này người bệnh có tiền sử táo 
bón chiếm tỷ lệ cao 62,2%, tương tự với kết quả 
nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh (2014) là 62,9 
% [3]. Phần lớn 64,5% người bệnh không bao giờ 
nhịn đi đại tiện nhưng vẫn còn 31 người bệnh chiếm 
34,4% thỉnh thoảng nhịn đi đại tiện. Đối tượng tham 
gia nghiên cứu này chủ yếu từ 80 – 90 tuổi (46,7%), 
trên 90 tuổi (11,1%). Với độ tuổi này thì chức năng 
vận động giảm ngoài ra còn mắc rất nhiều bệnh mạn 
tính khác làm cho người bệnh đau, ngại vận động 
nên thỉnh thoảng nhịn đi đại tiện.
3.2. Tỷ lệ táo bón
Kết quả từ Bảng 1 cho thấy đối tượng nghiên cứu 
có độ tuổi rất cao (trung bình 80,78 tuổi). Với độ 
tuổi này, nhu động ruột đã giảm khá nhiều kết hợp 
với tình trạng thừa cân (32,2%), thói quen nhịn đi 
đại tiện (34,4% thỉnh thoảng, 1,2% thường xuyên). 
Vì rất nhiều lý do như tình trạng sức khỏe không 
đảm bảo, thường mắc các bệnh mạn tính như thoái 
hóa, viêm khớp, loãng xươngdẫn đến người cao 
tuổi thường hạn chế vận động. Ngoài ra, việc sinh 
hoạt trong môi trường bệnh viện làm cho người 
bệnh không được thoải mái như ở nhà. Những điều 
này có thể giải thích cho tỷ lệ mắc táo bón khá cao 
của nghiên cứu. Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của 
ROME IV, nghiên cứu này xác định có 35 người 
bệnh (38,9%) mắc táo bón trong tổng số 90 người 
bệnh tham gia nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu này 
cao hơn nghiên cứu của Meinds và cộng sự (2017) 
với tỷ lệ là 24,5% [8]. Nguyên nhân của sự khác 
nhau này là do có sự khác biệt về mặt địa lý, thời 
gian trong các nghiên cứu. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, đối tượng là người bệnh điều trị nội trú 
tại khoa Nội Lão - Bệnh viện C Đà Nẵng có độ tuổi 
trung bình cao hơn (80,78 tuổi), mắc nhiều bệnh 
kèm theo (mỗi người bệnh mắc ít nhất một bệnh 
kèm) nên tỷ lệ táo bón cao hơn các nghiên cứu khác 
thực hiện ở người khỏe mạnh.
3.3. Mối liên quan giữa một số yếu tố với táo bón
3.3.1. Mối liên quan giữa táo bón và chế độ ăn
Ở người cao tuổi không chỉ thay đổi chức năng 
của cơ quan theo tuổi tác mà thói quen ăn uống 
đóng một vai trò thiết yếu trong phòng ngừa và điều 
trị. Nhiều nghiên cứu đã gợi ý rằng lượng chất xơ 
ăn vào cao có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ và giảm 
các triệu chứng táo [15]. Người cao tuổi thường có 
xu hướng ăn ít chất xơ hơn do khả năng nhai nuốt 
và tiêu hóa kém. 
Trong nghiên cứu này, tần suất ăn rau và trái cây 
của người bệnh hiếm khi là 6,7%, 46,7% là tỷ lệ 
người bệnh thỉnh thoảng ăn. Kết quả cho thấy có sự 
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tần suất ăn rau 
quả với táo bón (p<0,05). Những người bệnh có chế 
độ ăn ít chất xơ, hiếm khi hoặc thỉnh thoảng ăn rau, 
hoa quả thì nguy cơ mắc táo bón cao hơn những 
người ăn nhiều thực phẩm chất xơ hơn. Tương tự với 
kết quả nghiên cứu của Rao SS (2010), Mounsey A 
(2015) và nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh (2014) 
[3],[9],[12].
3.3.2. Mối liên quan giữa táo bón và lượng 
nước uống hằng ngày
Do cảm giác khát ở người cao tuổi bị suy giảm, 
ngưỡng khát cao nên uống không đủ lượng nước 
hàng ngày cũng là nguyên nhân gây táo bón.
Táo bón và một số yếu tố liên quan ở ười bệnh...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021	 67
Trong nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan 
giữa lượng nước uống hằng ngày và tình trạng táo 
bón. Những người bệnh uống ít nước (< 1,5 lít/
ngày) thì khả năng bị táo bón cao những người 
uống ít nhất 1,5 lít/ngày, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). Kết quả tương đồng với nghiên 
cứu của Hồ Thị Kim Thanh (2014) có lượng nước 
uống trung bình của nhóm nghiên cứu là 936 ± 440 
ml/ngày, của nhóm táo bón là 757 ± 370 ml/ngày 
[3]. Càng uống ít nước thì nguy cơ táo bón càng 
cao. Bên cạnh giảm cảm giác khát, lượng nước uống 
còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố nhất là khi nằm viện 
điều kiện ăn uống không thuận lợi như ở nhà, do đó 
lượng nước uống hàng ngày cũng giảm.
3.3.3. Mối liên quan giữa táo bón và hoạt động 
thể lực
Nghiên cứu của tôi cho thấy có mối liên quan 
giữa hoạt động thể lực và táo bón (p < 0,05). Người 
bệnh hoạt động thể lực thường xuyên thì ít có nguy 
cơ mắc táo bón hơn những người bệnh thỉnh thoảng 
hoặc hiếm khi hoạt động thể lực. Trong nghiên cứu 
này, tỷ lệ người bệnh có hoạt động thể lực thường 
xuyên mắc chứng táo bón là 24% thấp hơn so với 
nhóm người hiếm khi hoặc thỉnh thoảng hoạt động 
thể lực là (64,7%, 37,5%). Kết quả này tương đồng 
với nghiên cứu của Bùi Thị Mai Hương (2012) có 
58,8% người bệnh hoạt động thể lực không thường 
xuyên, 11,8 % người bệnh không hoạt động thể lực 
[2]. Điều đó cho thấy nếu giảm hoặc không hoạt 
động thể lực thì nguy cơ táo bón cao hơn. Thỉnh 
thoảng hoặc hiếm khi hoạt động thể lực sẽ làm 
giảm nhu động ruột, thời gian vận chuyển phân 
trong đại tràng kéo dài nên sẽ tăng cường hấp thu 
nước trở lại làm cho phân khô và giảm số lần đi 
đại tiện.
Vì rất nhiều lý do như tình trạng sức khỏe không 
đảm bảo, thường mắc các bệnh mạn tính như thoái 
hóa, viêm khớp, loãng xương.Dẫn đến người cao 
tuổi thường hạn chế vận động và trong môi trường 
bệnh viện làm cho người bệnh không được sinh hoạt 
thoải mái như ở nhà. Theo nghiên cứu của Hồ Thị 
Kim Thanh và cộng sự (2016) cho thấy mức sinh 
hoạt hằng ngày của người bệnh giảm dần theo thời 
gian nằm viện: 53% người bệnh bị suy giảm các 
hoạt động sinh hoạt hằng ngày, 35% người bệnh có 
xu hướng tăng và 12% người bệnh giữ nguyên mức 
sinh hoạt [5]. Điều này làm tăng tỷ lệ táo bón. 
3.3.4. Mối liên quan giữa táo bón và hình thức 
nuôi dưỡng
Ăn uống, dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng 
trong phác đồ điều trị. Để hỗ trợ, cung cấp chất 
dinh dưỡng có các biện pháp nuôi dưỡng qua đường 
miệng, đường ruột hay đường tĩnh mạch trong đó 
nuôi dưỡng bằng đường ruột qua sonde dạ dày là phổ 
biến nhất [10]. Nuôi dưỡng qua sonde dạ dày là biện 
pháp hỗ trợ cho người bệnh không tự ăn được, rối 
loạn nuốt. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên 
quan có ý nghĩa thống kê giữa hình thức nuôi dưỡng 
với táo bón (p < 0,05). Trong nghiên cứu này những 
người bệnh được nuôi dưỡng qua sonde dạ dày thì 
tỷ lệ táo bón là 100%, trong khi tỷ lệ này thấp hơn 
rất nhiều ở nhóm người bệnh ăn bằng đường miệng 
(36%). Như vậy người bệnh được nuôi dưỡng qua 
sonde dạ dày thì nguy cơ táo càng cao. Theo nghiên 
cứu của Hồ Thị Kim Thanh và Nguyễn Thị Thủy 
(2017), các biến chứng ghi nhận trong quá trình 
nuôi dưỡng qua sonde dạ dày cao nhất là táo bón 
chiếm 54,9%, trong đó có người bệnh phải sử dụng 
thuốc nhuận tràng trong suốt quá trình nằm viện [4]. 
Trong nghiên cứu này, 4 người bệnh được cho ăn 
qua sonde dạ dày, do nhóm người bệnh này có nguy 
cơ sặc nên sonde dạ dày được lưu lại trong suốt quá 
trình nằm viện. Mặt khác, nhóm nghiên cứu này đều 
hạn chế vận động, chủ yếu nằm tại giường nên nhu 
động ruột kém. Do thời gian nằm viện cũng kéo dài 
nên tỷ lệ táo bón càng cao.
IV. KẾT LUẬN 
Tỷ lệ táo bón ở người bệnh cao tuổi tại khoa Lão 
- Bệnh viện C Đà Nẵng là 38,9%.
 Các yếu tố liên quan đến táo bón ở người bệnh 
cao tuổi là: chế độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, hạn 
chế hoạt động thể lực, ăn uống qua sonde dạ dày.
Bệnh viện Trung ương Huế 
68	 Tạp	Chí	Y	Học	Lâm	Sàng	-	Số	68/2021
TIẾNG VIỆT
1. Ngô Quý Châu. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 
táo bón. Trong: Bệnh học nội khoa tập 2. Hà Nội, 
Nhà xuất bản Y học; 2012, 91-97.
2. Bùi Thị Mai Hương. Nhận xét ảnh hưởng của một 
số yếu tố liên quan đến táo bón mạn tính. Tạp chí 
y học thực hành 2012; 834(5), 39-41.
3. Hồ Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Lương. Điều tra 
tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở 
bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa 
Trung ương. Tạp chí nghiên cứu khoa học 2014, 
91(5), 73-77.
4. Hồ Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Thủy. Thực 
trạng nuôi dưỡng qua sonde dạ dày cho người 
bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão 
khoa Trung ương. Tạp chí nghiên cứu y học 
2017; 107(2), 143-149.
5. Hồ Thị Kim Thanh, Phạm Thị Phương Thanh. 
Đánh giá ảnh hưởng của quá trình nằm viện đến 
hoạt động hằng ngày của người cao tuổi. Tạp chí 
nghiên cứu y học 2016; 100(2), 164-170. 
TIẾNG ANH
6. Fosnes GS, Lydersen S Farup PG. Drugs and 
Constipation in Elderly in Nursing Homes: What 
Is the Relation?, Gastroenterol Res Pract 2012; 1-7.
7. Jamshed N, Lee ZE, Olden KW. Diagnostic 
approach to choronic constipation in adults. Am 
Fam Physician 2011; 84(3): 299- 306.
8. Meinds RJ, van Meegdenburg MM, Trzpis 
M, Broens PM. On the prevalence of constipation 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
and fecal incontinence, and their co-occurrence 
in the Netherlands. Int J Colorectal Dis 2017; 
32(4): 475-483. 
9. Mounsey A, Raleigh M, Wilson A. Management 
of constipation in older adults. Am Fam 
Physician 2015; 92(6): 500-504.
10. Nordin N, Chin AV. A descriptive study of 
nasogastric tube feeding among ge-riatric 
inpatients in Malaysia: Utilization, com-plications, 
and caregiver opinions, Joumal of Nutrition in 
Gerontology and Geriatrics 2005; 34 (1), 34 - 49.
11. Peppas G, Alexiou VG, Mourtzoukou E, 
Falagas ME. Epidemiology of constipation in 
Europe and Oceania: A systematic review. BMC 
Gastroenterol 2008; 8:5. 
12. Rao SS, Go JT. Update on the management 
of constipation in the elderly: new treatment 
options. Clin Interv Aging 2010; 5, 163-171. 
13. Simren M, Palsson OS, Whitehead WE. Update 
on Rome IV criteria for colorectal disorders: 
Implications for clinical practice. Current 
Gastroenterology Reports 2017; 19(4):15.
14. Wald A, Sigurdsson L. Quality of life in children 
and adults with constipation. Best Pract Res Clin 
Gastroenterol 2011; 25(1): 19-27. 
15. Yang XJ, Zhang M, Zhu HM, Tang Z, Zhao DD, 
Li BY et al. Epidemiological study: Corelation 
between diet habit and constipation among 
elderly in Beijing region. World J gastroenterol 
2016; 22 (39), 8806-8811.
Táo bón và một số yếu tố liên quan ở ười bệnh...

File đính kèm:

  • pdftao_bon_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_benh_tai_khoa_noi.pdf