Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững

Tư duy truyền thống coi tài nguyên thiên

nhiên là những dạng vật chất có thể khai thác và

có giá trị sử dụng vì mục đích kinh tế đang dần

được thay thế bởi quan điểm tài nguyên là tất cả

các yếu tố tự nhiên được sử dụng theo nhiều

hình thức khác nhau hoặc sự tồn tại tự thân của

các yếu tố đó đã tạo ra lợi ích. Tài nguyên vị thế

thường được hiểu một cách đơn giản là những

ưu thế và lợi ích từ các đặc điểm địa lý (vị trí địa

lý, điều kiện tự nhiên) có thể khai thác để phục

vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội, chính trị và an

ninh quốc phòng. Việc nhận thức đúng đắn về

giá trị tài nguyên vị thế sẽ góp phần khai thác

hiệu quả các nguồn lợi tự nhiên, sử dụng hợp lý

tài nguyên, phát triển bền vững cũng như tổ chức

không gian, quy hoạch phát triển kinh tế.

Khu vực cửa sông sở hữu nhiều dạng tài

nguyên đặc thù, có chức năng quan trọng về môi

trường, sinh thái và bảo tồn. Với 3.260 km

đường bờ biển trải dài trên 13 vĩ độ, cắt qua 28

tỉnh và thành phố, Việt Nam có 114 cửa sông,

cửa lạch đổ ra biển với lợi thế căn bản về vị trí

địa lý tạo nên những lợi ích chủ yếu về môi

trường tự nhiên, về địa kinh tế và về địa chính

trị [6]. Đặc biệt, với chủ trương đẩy mạnh phát

triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nước, các

khu vực cửa sông ven biển cũng được chú trọng

đầu tư, khai thác để trở thành những hành lang

kinh tế ven biển. Bài viết tập trung phân tích các

đặc tính về tài nguyên vị thế khu vực cửa sông

và định hướng khai thác nguồn tài nguyên này

như là một hướng tiếp cận mới về khai thác tài

nguyên bền vững.

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 1

Trang 1

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 2

Trang 2

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 3

Trang 3

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 4

Trang 4

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 5

Trang 5

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 6

Trang 6

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 10840
Bạn đang xem tài liệu "Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững

Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông: Tư duy mới trong khai thác tài nguyên bền vững
3 
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ KHU VỰC CỬA SÔNG: TƯ DUY MỚI 
TRONG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN BỀN VỮNG 
NGUYỄN SONG TÙNG, ĐOÀN THỊ THU HƯƠNG 
Tóm tắt: Tài nguyên vị thế ngày càng được coi là dạng tài nguyên đặc biệt, có tiềm năng lớn trong 
phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng. Với 114 khu vực cửa sông, lạch phân bố dọc theo 
lãnh thổ, nguồn tài nguyên vị thế khu vực cửa sông Việt Nam có giá trị và tiềm năng to lớn. Vì thế, 
việc định hướng khai thác, sử dụng tài nguyên vị thế khu vực cửa sông là một hướng tiếp cận mới, 
một tư duy mới về khai thác tài nguyên bền vững. 
Từ khóa: Tài nguyên vị thế, khu vực cửa sông, khai thác tài nguyên bền vững 
POSITIONAL RESOURCES IN THE RIVER AREA: NEW THINKING IN EXPLOITING 
SUSTAINABLE RESOURCES 
Abstract: Position-resource is increasingly considered as a special resource, having great importance 
in economic development and ensuring national security. With 114 coastal estuaries, located along 
the territory, the position-resources of Viet Nam have great potential value for development. The 
orientation of position-resource exploitation in the estuary areas is a new approach and a new thinking 
about sustainable resource exploitation. 
Keywords: Position-resource, the estuary area, sustainable resource exploitation 
1. Đặt vấn đề 
Tư duy truyền thống coi tài nguyên thiên 
nhiên là những dạng vật chất có thể khai thác và 
có giá trị sử dụng vì mục đích kinh tế đang dần 
được thay thế bởi quan điểm tài nguyên là tất cả 
các yếu tố tự nhiên được sử dụng theo nhiều 
hình thức khác nhau hoặc sự tồn tại tự thân của 
các yếu tố đó đã tạo ra lợi ích. Tài nguyên vị thế 
thường được hiểu một cách đơn giản là những 
ưu thế và lợi ích từ các đặc điểm địa lý (vị trí địa 
lý, điều kiện tự nhiên) có thể khai thác để phục 
vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội, chính trị và an 
ninh quốc phòng. Việc nhận thức đúng đắn về 
giá trị tài nguyên vị thế sẽ góp phần khai thác 
hiệu quả các nguồn lợi tự nhiên, sử dụng hợp lý 
tài nguyên, phát triển bền vững cũng như tổ chức 
không gian, quy hoạch phát triển kinh tế. 
Khu vực cửa sông sở hữu nhiều dạng tài 
nguyên đặc thù, có chức năng quan trọng về môi 
trường, sinh thái và bảo tồn. Với 3.260 km 
đường bờ biển trải dài trên 13 vĩ độ, cắt qua 28 
tỉnh và thành phố, Việt Nam có 114 cửa sông, 
cửa lạch đổ ra biển với lợi thế căn bản về vị trí 
địa lý tạo nên những lợi ích chủ yếu về môi 
trường tự nhiên, về địa kinh tế và về địa chính 
trị [6]. Đặc biệt, với chủ trương đẩy mạnh phát 
triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nước, các 
khu vực cửa sông ven biển cũng được chú trọng 
đầu tư, khai thác để trở thành những hành lang 
kinh tế ven biển. Bài viết tập trung phân tích các 
đặc tính về tài nguyên vị thế khu vực cửa sông 
và định hướng khai thác nguồn tài nguyên này 
như là một hướng tiếp cận mới về khai thác tài 
nguyên bền vững. 
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên 
cứu 
Cơ sở dữ liệu được sử dụng trong bài viết là 
các tài liệu, số liệu thống kê về tài nguyên; lợi thế 
về tài nguyên; đặc điểm địa lý (điều kiện tự nhiên 
và điều kiện kinh tế xã hội); định hướng khai thác 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 
4 
tài nguyên và lợi thế tài nguyên của những địa 
phương, vùng miền có khu vực cửa sông đã được 
công bố bởi các sở ban ngành và các tổ chức, cá 
nhân trong nước và quốc tế có uy tín. 
Thông qua phương pháp phân tích, tổng hợp 
tài liệu, tác giả đã khái quát hóa tiềm năng về tài 
nguyên vị thế khu vực cửa sông Việt Nam và 
đưa ra định hướng khai thác tối ưu nguồn tài 
nguyên này. 
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
3.1. Khái niệm tài nguyên vị thế khu vực 
cửa sông 
Theo Nguyễn Chu Hồi (2005): “Vị thế là 
những lợi thế so sánh về phương diện địa lý, khả 
năng khai thác các giá trị phi vật chất và vật 
chất của một lãnh thổ nhất định”, hay nói một 
cách khác, vị thế là tương quan so sánh về vị trí 
của một chủ thể trong một không gian tự nhiên 
hoặc xã hội có quy mô khác nhau [5]. Do đó, 
khái niệm tài nguyên vị thế bao hàm cả những 
giá trị phi vật chất và vật chất có thể khai thác 
thành các lợi ích hoặc tạo ra những thách thức 
mà một chủ thể không gian phải đương đầu. 
Theo quan điểm của Trần Đức Thạnh (2007): 
“Tài nguyên vị thế là những lợi ích có được từ 
vị trí địa lý và các thuộc tính về cấu trúc, hình 
thể sơn văn và cảnh quan, sinh thái của một khu 
vực, có giá trị sử dụng cho các mục đích phát 
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc 
phòng và chủ quyền quốc gia”; có nghĩa không 
gian là chủ sở hữu tài nguyên vị thế và có thể tận 
dụng lợi thế vị thế để gia tăng giá trị của các 
nguồn tài nguyên truyền thống như khoáng sản, 
cảnh quan, hệ sinh thái 
Tài nguyên vị thế thường được chia thành 3 
dạng: tài nguyên địa - tự nhiên, tài nguyên địa - 
kinh tế và tài nguyên địa - chính trị; cụ thể, (i) 
Tài nguyên địa - tự nhiên là lợi ích có được về 
môi trường tự nhiên từ vị trí địa lý của các yếu 
tố hình thể và cấ ... a lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 
6 
tạo nên con đường giao thương quốc tế. Lịch sử 
đã chứng kiến nhiều thương cảng ở các khu vực 
cửa sông vang bóng một thời như Kẻ Sặt, Phố 
Hiến, Hội An, Sài Gòn Hiện nay, trong bối 
cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế ngày càng hội 
nhập, việc phát triển mạng lưới giao thông 
đường thủy với hệ thống cảng biển và bến bãi 
trở thành nhu cầu tất yếu để phát triển kinh tế. 
Tính đến năm 2020, cả nước có 272 bến cảng 
[2], trong đó có những cảng loại I giữ vai trò là 
đầu mối phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa và tạo 
động lực phát triển toàn vùng như: Cảng biển 
Quảng Ninh, Hải Phòng gắn với vùng kinh tế 
trọng điểm phía Bắc; cảng biển Thừa Thiên - 
Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn gắn với 
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; cảng biển 
TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai 
gắn với vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ; 
cảng biển Cần Thơ, An Giang gắn với vùng kinh 
tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. 
 Bên cạnh hệ thống giao thông sông - biển tạo 
ra các đường vận tải quốc tế, thúc đẩy xuất khẩu 
thì hệ thống đường thủy nội địa thông qua các 
khu vực cửa sông cũng trở thành cầu nối liên kết 
vùng giữa các khu kinh tế trọng điểm của đất 
nước. 
b) Tiềm năng trong phát triển nông - lâm - 
ngư nghiệp 
Khu vực cửa sông có điều kiện thuận lợi để 
phát triển ngư nghiệp gồm khai thác và nuôi 
trồng thủy hải sản. Các đối tượng hải sản khai 
thác ở khu vực cửa sông gồm: cá (cá cửa sông 
và cá biển xâm nhập), thân mềm, giáp xác – 
những loài này tập trung thành những quần thể 
lớn nên cho sản lượng khai thác cao. Đặc biệt, 
với đặc trưng môi trường sống đa dạng, khu vực 
cửa sông rất giàu đặc sản và chúng là mặt hàng 
có giá trị kinh tế cao ở trong nước cũng như xuất 
khẩu, ví dụ như bào ngư, vẹm vỏ xanh, ngao, 
sò 
Các khu vực cửa sông có ưu thế phát triển 
nuôi trồng thủy sản do có diện tích bãi triều lớn, 
riêng các tỉnh cửa sông ven biển Nam Bộ có tới 
khoảng 760 ngàn ha (chiếm 85% so với toàn dải 
ven biển) (Tổng cục Thủy lợi, 2020). Khu vực 
cửa sông và vùng nước nông ven biển, nơi độ 
sâu nhỏ hơn 30 m thuộc thềm lục địa cũng được 
coi là bãi đẻ của các loài thủy hải sản - cung cấp 
môi trường và điều kiện để nuôi dưỡng con non 
và vỗ béo đàn bố mẹ trước và sau mùa sinh sản. 
Quá trình hoạt động của các hệ thống cửa 
sông đã hình thành nên các vùng rừng ngập mặn 
không chỉ cung cấp gỗ, các hóa chất chiết ra từ 
gỗ, hoa, lá mà còn là nơi quần tụ của nhiều loại 
nấm, động vật trên cạn và dưới nước, hình thành 
nên hệ sinh thái rừng ngập mặn cho giá trị kinh 
tế cao. 
c) Tiềm năng trong phát triển thương mại - 
dịch vụ và các ngành kinh tế khác 
Tài nguyên khoáng sản cửa sông ven biển rất 
đa dạng về chủng loại và đóng vai trò quan trọng 
cho sự phát triển của các ngành kinh tế và dịch 
vụ. Mặc dù nước khu vực cửa sông thường có 
độ mặn thấp nhưng một số nơi vẫn có khả năng 
phát triển nghề muối như Bằng La, Tiền Hải, 
Giao Thủy, Quỳnh Lưu và nhất là ở Nam 
Trung Bộ như Sa Huỳnh, Ninh Hòa Ngoài 
dầu mỏ và khí đốt, khu vực cửa sông còn chứa 
nhiều loại khoáng vật có giá trị như sỏi, cát, sa 
khoáng, các kim loại quý như manhetit, rutin, 
inmenit, monazite tạo điều kiện thuận lợi cho 
ngành khai khoáng, ví như cát thủy tinh - một 
vật liệu quan trọng trong nhiều ngành công 
nghiệp tập trung chủ yếu ở Cam Ranh với trữ 
lượng dồi dào khoảng gần 500 triệu tấn [10]. 
Bên cạnh đó, với các hệ sinh thái đặc thù như 
hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái đầm phá 
ven biển, các khu vực cửa sông có thể tận dụng 
để phát triển du lịch sinh thái gồm các hoạt động 
tắm biển, thể thao mạo hiểm, thưởng thức các 
món đặc sản Cụ thể, miền Bắc có khu vực Hạ 
Nguyễn Song Tùng, Đoàn Thị Thu Hương - Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông 
7 
Long, Cát Bà, Bái Tử Long sở hữu nhiều bãi 
tắm đẹp, những đảo đá đa hình và những hang 
động huyền thoại; Dọc biển miền Trung xuất 
hiện những bờ cát mịn ở cửa Tùng, Đại Lãnh 
và những khối núi ăn lan ra biển như mũi đá Cà 
Ná, Kê Gà...; Hệ thống rừng ngập mặn vùng Tây 
Nam Bộ với đa dạng sinh học cao tạo ra các sân 
chim nổi tiếng, hệ kênh rạch chằng chịt và 
những miệt vườn trù phú 
3.2.3. Vị thế địa - chính trị 
a) Lợi ích bảo vệ đất nước 
Trong suốt chiều dài lịch sử, với lợi thế về 
cấu trúc không gian và đặc điểm địa lý, nhiều 
khu vực cửa sông đóng vai trò then chốt trong 
công cuộc chống ngoại xâm, tiêu biểu như cửa 
sông Bạch Đằng đã 3 lần ghi dấu với trận đại 
thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 
938), trận đại phá quân Tống của Lê Đại Hành 
(năm 981), và trận đại thắng quân Nguyên Mông 
của Trần Hưng Đạo (năm 1288); Cửa sông Tiền 
vang dội với trận chiến thắng Rạch Gầm - Xoài 
Mút (năm 1785) của Nguyễn Huệ; hay trong 
kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều khu rừng 
ven biển và các cửa sông, lạch phía Nam đã trở 
thành các bến đỗ của các “đoàn tầu không số”, 
một đầu cầu của “Đường mòn Hồ Chí Minh trên 
biển”, là nơi đón nhận vũ khí tiếp viện của miền 
Bắc. 
Chính địa hình gồm nhiều hệ thống sông suối 
dày đặc, các cửa sông cùng với các dãy núi đâm 
ngang ra biển, những vũng vịnh, đầm phá kín 
thuận tiện cho việc trú đậu tầu thuyền, xây dựng 
các căn cứ quân sự, các pháo đài, trạm gác tiền 
tiêu trên bờ, kết hợp với các tuyến phòng thủ 
trên hệ thống đảo xa bờ và ven bờ đã hình thành 
nên tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, tạo 
điều kiện thuận lợi để bảo vệ, kiểm soát và làm 
chủ vùng biển rộng lớn của đất nước. 
b) Lợi ích mở rộng lãnh thổ 
Các vật liệu bào mòn từ lục địa chuyển tới 
khu vực cửa sông cùng với sự tác động của dòng 
biển đã tạo thành các bãi bồi cửa sông rộng lớn. 
Lịch sử chứng minh, khu vực cửa sông châu thổ 
Bắc Bộ và cửa sông châu thổ Nam Bộ có lợi thế 
lớn trong công cuộc quai đê, lấn biển, tạo vùng 
đất mới. Cụ thể, trong quá khứ, hệ thống sông 
Hồng và sông Thái Bình đã bồi đắp một châu 
thổ rộng lớn với diện tích 15.000 km2 bằng 
những lớp phù sa mịn và bở rời; sông Cửu Long 
mỗi năm chuyển ra biển khoảng 500 tỷ m3 nước 
cùng khoảng 75-100 triệu tấn bùn cát đã bồi nên 
đồng bằng Nam Bộ với diện tích khoảng 40.000 
km2 [13]. 
Giai đoạn từ 1990-2017, với sự biến động của 
điều kiện tự nhiên và môi trường, tình trạng bồi 
tụ - xói lở ở các vùng cửa sông diễn biến phức 
tạp, ví dụ như vùng bờ châu thổ sông Hồng xảy 
ra xói lở - bồi tụ cục bộ và xen kẽ nhau, tốc độ 
không đồng đều theo không gian và thời gian. 
Tuy nhiên, diện tích bồi là 316,5 ha/năm, diện 
tích xói là 35,68 ha/năm, tương quan bồi tụ - xói 
lở là 280,82 ha/năm. Như vậy, tốc độ tiến ra biển 
trung bình giai đoạn 1990 đến 2017 là 29,2 
m/năm [3]. 
Đất mới được hình thành hàng năm là tài sản 
quý của quốc gia, nhất là khi số dân ngày càng 
tăng và sinh kế phần chính dựa vào nông, lâm, 
ngư nghiệp. 
c) Lợi ích phát triển quan hệ quốc tế 
Nằm ở vị trí cửa ngõ đất liền, đầu ra cho các 
tuyến hành lang xuyên Á, Đông - Tây, cũng như 
vị trí mặt tiền trên Biển Đông, các vùng cửa sông 
ven biển có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát 
triển quan hệ quốc tế. 
Ở phía Bắc, các vùng cửa sông ven biển, đặc 
biệt là vùng cửa sông Bạch Đằng là cửa ngõ 
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển 
chiến lược hợp tác kinh tế “hai hành lang - một 
vành đai” Việt- Trung. Ở miền Trung, các khu 
vực cửa sông là đầu mối giao thương thúc đẩy 
sự hình thành hành lang kinh tế Đông - Tây và 
các hành lang kinh tế ven biển tạo điều kiện giao 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 
8 
lưu thương mại, đầu tư và phát triển. Ở các tỉnh 
ven biển đồng bằng sông Cửu Long, các khu vực 
cửa sông đóng vai trò quan trọng trong việc xây 
dựng các Khu kinh tế ven biển (Định An - Trà 
Vinh, Năm Căn - Cà Mau) và Hành lang kinh tế 
ven biển vịnh Thái Lan từ Năm Căn - Cà Mau 
đến Rạch Giá - Kiên Giang và từng bước hình 
thành vùng động lực quan trọng ở ven biển cực 
Nam Tổ quốc. 
3.3. Định hướng khai thác tài nguyên vị thế 
khu vực cửa sông 
Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông bao hàm 
các giá trị sử dụng trực tiếp, sử dụng gián tiếp 
và các giá trị phi sử dụng. Để phát huy giá trị 
của nó, cần có sự nhìn nhận linh hoạt về giá trị 
địa chính trị và địa kinh tế, bởi vì đặc điểm địa 
chính trị, địa kinh tế của mỗi địa phương, vùng 
miền hay quốc gia thay đổi theo trình độ phát 
triển và bối cảnh chung của cả nước, khu vực và 
thế giới. Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động khai 
thác và sử dụng tài nguyên khu vực cửa sông 
mới dừng lại ở cấp độ khai thác các dạng tài 
nguyên riêng lẻ; nhiều hoạt động có tác động 
tiêu cực tới hệ sinh thái tự nhiên và môi trường, 
ví dụ việc mở rộng đầm nuôi tôm ảnh hưởng tới 
hệ sinh thái rừng ngập mặn và dẫn đến một số 
hệ quả xấu về môi trường; chưa có giải pháp 
đồng bộ và phương án tối ưu để khai thác bền 
vững tài nguyên vị thế khu vực cửa sông. 
Để nhận biết rõ tầm quan trọng, tính chất đặc 
thù làm cơ sở cho định hướng khai thác bền 
vững các khu vực có giá trị tài nguyên vị thế đặc 
biệt, cần nghiên cứu tổng hợp, phân cấp giá trị 
tài nguyên vị thế của các khu vực cửa sông, từ 
đó đưa ra chiến lược khai thác, bảo tồn và đầu 
tư phát triển hợp lý. 
Dựa trên hướng tiếp cận phát triển bền vững 
và quan điểm khai thác tài nguyên vị thế khu vực 
cửa sông là sử dụng dạng tài nguyên đặc biệt, 
một số mô hình định hướng khai thác được đề 
xuất như sau: 
(i) Định hướng ưu tiên phát triển kinh tế: Mô 
hình này tập trung khai thác giá trị tài nguyên 
địa - kinh tế của các khu vực cửa sông. Mô hình 
có thể triển khai theo các hướng phát triển du 
lịch - dịch vụ bền vững; phát triển giao thông 
đường thủy có quy hoạch; phát triển ngư nghiệp 
theo hướng nuôi trồng bền vững vừa tận dụng 
tài nguyên vừa bảo tồn đa dạng sinh học và bảo 
vệ môi trường; phát triển lâm nghiệp theo hướng 
sinh thái và bảo tồn tự nhiên, giữ gìn và phát 
triển các loài bản địa. Định hướng này phù hợp 
với các khu vực cửa sông không có vị trí tiền 
tiêu biên giới, không ảnh hưởng hoặc có tác 
động tới vấn đề an ninh, quốc phòng; 
(ii) Định hướng phát triển kinh tế gắn với an 
ninh quốc phòng và bảo vệ chủ quyền quốc gia: 
Mô hình này khai thác kết hợp hai giá trị địa - 
kinh tế và địa - chính trị. Trong mô hình này, các 
ngành kinh tế có thể phát triển ở những khu vực 
có giá trị vị thế quan trọng liên quan đến an ninh, 
quốc phòng và chủ quyền lãnh thổ tùy thuộc vào 
các giá trị tài nguyên đi kèm. Các ngành kinh tế 
thủy sản tập trung vào đánh bắt và dịch vụ nghề 
cá cũng như khai thác bền vững nguồn lợi sinh 
vật, giao thông vận tải vẫn mang tính chủ đạo, 
có thể vừa phát triển du lịch phục vụ phát triển 
kinh tế địa phương, vừa có thể sử dụng cơ sở hạ 
tầng cho an ninh quốc phòng và khẳng định chủ 
quyền lãnh thổ. Định hướng này phù hợp với các 
khu vực cửa sông có giá trị tài nguyên vị thế nằm 
ở vị trí tiền tiêu biên giới, ảnh hưởng hoặc có tác 
động tới vấn đề an ninh, quốc phòng và chủ 
quyền quốc gia; 
(iii) Định hướng khai thác tài nguyên gắn với 
bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển khoa học: 
Mô hình này tập trung vào các giá trị về địa - tự 
nhiên, không chỉ phục vụ cho mục đích kinh tế 
mà còn có giá trị lớn trong bảo tồn và nghiên 
cứu. Định hướng này phù hợp với các vùng cửa 
sông có giá trị lớn về kỳ quan sinh thái và kỳ 
quan địa chất. 
Nguyễn Song Tùng, Đoàn Thị Thu Hương - Tài nguyên vị thế khu vực cửa sông 
9 
4. Kết luận 
Tài nguyên vị thế là một tư duy mới trong 
đánh giá hình thể và cấu trúc không gian và là 
cách tiếp cận mới trong khai thác và sử dụng tài 
nguyên. Khi đánh giá giá trị tài nguyên cần có 
cái nhìn động bởi trong nhiều hoàn cảnh một số 
khu vực khan hiếm tài nguyên truyền thống 
nhưng nhờ vị thế đặc biệt có thể tận dụng để đạt 
được mục đích phát triển kinh tế - xã hội, phòng 
thủ và các lợi ích quốc gia khác. 
Với vị trí giáp ranh biển và lục địa, là cửa ngõ 
giữa đất liền và biển đảo, các khu vực cửa sông 
sở hữu những giá trị tài nguyên vị thế to lớn, do 
đó tùy thuộc vào các đặc điểm tài nguyên vị thế 
đặc thù của mỗi khu vực cửa sông, có thể lựa 
chọn mô hình định hướng khai thác tối ưu hướng 
đến tận dụng nguồn tài nguyên địa - tự nhiên, 
địa - kinh tế hay địa - chính trị. Định hướng khai 
thác tốt nguồn tài nguyên vị thế khu vực cửa 
sông sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã 
hội bền vững và đảm bảo an ninh, quốc phòng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Đức An, Uông Đình Khanh, Trần Đức Thạnh, Võ Thịnh (2011), Tài nguyên vị thế hệ thống cửa sông Việt Nam, 
Viện Tài nguyên và Môi trường biển, tập XVI, Tr.20-28, Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 
2. Cục Hàng hải Việt Nam (2020), Báo cáo tình hình phát triển đường thủy nội địa giai đoạn 2015-2020, Hà Nội. 
3. Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Thái Sơn, Đào Thị Thảo, Nguyễn Hoàng Sơn (2017), Thực trạng biến đổi bờ biển từ Hải 
Phòng đến Ninh Bình và vấn đề khai thác sử dụng tài nguyên dải ven biển, Tạp chí Khoa học – Đại học Huế, Tập 
126, Số 7A, 2017, Tr. 55-65. 
4. Lương Phương Hậu, Trịnh Việt An, Lương Phương Hợp (2002), Diễn biến cửa sông vùng đồng bằng Bắc Bộ, Nxb 
Xây dựng, Hà Nội. 
5. Nguyễn Chu Hồi (2005), Cơ sở Tài nguyên và Môi trường biển, Nxb. đại học Quốc gia Hà Nội. 
6. Uông Đình Khanh, Lê Đức An, Đinh Văn Huy (2011), Đánh giá các giá trị tài nguyên vị thế hệ thống cửa sông ven 
biển Việt Nam, Báo cáo chuyên đề Dự án số 14, 68 tr., lưu Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Hà Nội. 
7. Robas A. K (1970), South Florida’s mangrove bordered Estuaries: Their role in sport and commercial fish production, 
Sea Grant Inf.Bull (4).27. 
8. Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình, Ngô Đình Quế, Vũ Tấn Phương (2005), Tổng quan rừng ngập mặn Việt Nam, Nxb 
Nông nghiệp, Hà Nội. 
9. Phạm Quang Sơn (2004), Nghiên cứu sự phát triển vùng ven biển cửa sông Hồng- Thái Bình trên cơ sở ứng dụng 
thông tin viễn thám và hệ thông tin địa lý (GIS) phục vụ khai thác, sử dụng hợp lý lãnh thổ, Luận án tiến sĩ Địa lý, Hà 
Nội. 
10. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa (2015), Báo cáo tình hình tài nguyên- môi trường Khánh Hòa 2015, 
Khánh Hòa. 
11. Vũ Trung Tạng (2009), Sinh thái các hệ cửa sông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 
12. Trần Đức Thạnh (2007), Một số dạng tài nguyên vị thế biển Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, T7(4), 
80-93, Hà Nội. 
13. Lê Bá Thảo (1999), Thiên nhiên Việt Nam (tái bản), Nxb Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội. 
14. Tổng cục thủy lợi (2020), Quy hoạch phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng 
sông Cửu Long tầm nhìn 2030. 
15. Jin Eong Ong và Wooi Khoon Gong (2013), Cấu trúc, chức năng và quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn, Hiệp hội sinh 
thái rừng ngập mặn quốc tế (ISME), Phan Văn Hoàng dịch. 
Thông tin tác giả: 
Nguyễn Song Tùng, Đoàn Thị Thu Hương – Viện Địa lí nhân văn 
Địa chỉ: Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội 
Email: songtung1711@gmail.com - Điện thoại: +84.912.176.039 
Nhật ký tòa soạn 
Ngày nhận bài: 4/01/2020 
Biên tập: 3/2021 

File đính kèm:

  • pdftai_nguyen_vi_the_khu_vuc_cua_song_tu_duy_moi_trong_khai_tha.pdf