Tác động của việc sử dụng chính sách vay nợ trong mối quan hệ tương tác với cạnh tranh ngành đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Đến nay, mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (DN)
vẫn còn nhận được nhiều sự tranh cãi từ các nhà nghiên cứu khác nhau trên thế giới.
Modigliani and Miller (1958) cho rằng cấu trúc vốn không có liên quan tới hiệu quả hoạt
động của DN. Trái lại, trên thực tế nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy cấu trúc vốn có
mối quan hệ nhất định đối với hiệu quả hoạt động của DN. Cụ thể, sự đánh đổi giữa chi phí
đại diện của nợ và vốn chủ sở hữu (Jensen & Meckling, 1976); tác động giới hạn về khả năng
vay thêm nợ (Brander & Lewis, 1986); và tác động điều tiết của nợ vay (Grossman & Hart,
1983; Jensen, 1986) tất cả đều ủng hộ cho tác động dương của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả
hoạt động của DN. Tuy nhiên, vấn đề liên quan tới đầu tư không tối ưu đi kèm với nợ (Myers,
1977) và phản ứng của các bên có liên quan đối với đòn bẩy tài chính (Maksimovic &
Titman, 1991; Titman, 1984) lại ủng hộ tác động âm. Ngoài ra, lý thuyết thâu tóm DN đề xuất
rằng trên thị trường sản phẩm tập trung thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính khiến cho DN dễ
dàng bị thâu tóm bởi các DN khác trong cùng ngành (Bolton & Scharfstein, 1990; Chavalier
& Scharfstein, 1996; Dasgupta & Titman, 1998).
Vì lẽ đó việc đưa thêm điều kiện của mức độ cạnh tranh vào tác động của đòn bẩy tài
chính lên hiệu quả hoạt động của DN trên thị trường là điều vô cùng cần thiết. Hiện tại, bằng
chứng cho sự tương tác giữa đòn bẩy tài chính và mức độ cạnh tranh mới được nghiên cứu
cho các DN tại Mỹ và một số quốc gia đang phát triển (Campello, 2003, 2006; Chevalier, 1995a,
1995b; Kovenock & Phillips, 1997; Opler & Titman, 1994) cần phải có thêm bằng chứng ủng hộ
cho mối quan hệ này. Bài viết sử dụng Việt Nam làm bối cảnh nghiên cứu vì việc xem xét tác động
của cạnh tranh ngành lên hiệu quả hoạt động của DN còn khá mới mẻ tại Việt Nam và tác động của
cạnh tranh ngành lên đòn bẩy tài chính lại là một vấn đề chưa được giải quyết. Tác giả hy vọng bài
nghiên cứu sẽ đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm cho mối liên hệ tương tác giữa đòn bẩy tài
chính và mức độ cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của DN.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của việc sử dụng chính sách vay nợ trong mối quan hệ tương tác với cạnh tranh ngành đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 413 TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH VAY NỢ TRONG MỐI QUAN HỆ TƢƠNG TÁC VỚI CẠNH TRANH NGÀNH ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NCS ThS Châu Văn Thƣởng Khoa Kế toán - Tài chính - Ngân h ng, Trƣờng Đại học Công nghệ Tp. HCM NCS ThS Nguyễn Công Thành School of Business & Management, RMIT University ThS Phạm Thị Anh Thƣ School of Economics, University of Rennes I TÓM TẮT Bài nghiên cứu xem xét tác động của mức độ cạnh tranh của 13 ngành khác nhau trên thị trường trong mối quan hệ tương tác với đòn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Tp.HCM (HOSE) giai đoạn 2007 – 2015. Bằng kỹ thuật ước lượng Moment tổng quán (GMM), nhóm tác giả sử dụng các biến công cụ cho đòn bẩy tài chính gồm tỷ lệ tài sản hữu hình và lá chắn thuế phi nợ để kiểm soát hiện tượng nội sinh xảy ra trong mô hình nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ dương của đòn bẩy tài chính đến hiệu quả hoạt động của DN và tác động này dường như thể hiện rõ rệt hơn khi mức độ cạnh tranh cao của thị trường càng cao. Từ khóa: Cạnh tranh ngành, Cấu trúc vốn, Hiệu quả hoạt động DN 1. MỞ ĐẦU: Đến nay, mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (DN) vẫn còn nhận được nhiều sự tranh cãi từ các nhà nghiên cứu khác nhau trên thế giới. Modigliani and Miller (1958) cho rằng cấu trúc vốn không có liên quan tới hiệu quả hoạt động của DN. Trái lại, trên thực tế nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy cấu trúc vốn có mối quan hệ nhất định đối với hiệu quả hoạt động của DN. Cụ thể, sự đánh đổi giữa chi phí đại diện của nợ và vốn chủ sở hữu (Jensen & Meckling, 1976); tác động giới hạn về khả năng vay thêm nợ (Brander & Lewis, 1986); và tác động điều tiết của nợ vay (Grossman & Hart, 1983; Jensen, 1986) tất cả đều ủng hộ cho tác động dương của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN. Tuy nhiên, vấn đề liên quan tới đầu tư không tối ưu đi kèm với nợ (Myers, 1977) và phản ứng của các bên có liên quan đối với đòn bẩy tài chính (Maksimovic & Titman, 1991; Titman, 1984) lại ủng hộ tác động âm. Ngoài ra, lý thuyết thâu tóm DN đề xuất rằng trên thị trường sản phẩm tập trung thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính khiến cho DN dễ dàng bị thâu tóm bởi các DN khác trong cùng ngành (Bolton & Scharfstein, 1990; Chavalier & Scharfstein, 1996; Dasgupta & Titman, 1998). Vì lẽ đó việc đưa thêm điều kiện của mức độ cạnh tranh vào tác động của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN trên thị trường là điều vô cùng cần thiết. Hiện tại, bằng chứng cho sự tương tác giữa đòn bẩy tài chính và mức độ cạnh tranh mới được nghiên cứu cho các DN tại Mỹ và một số quốc gia đang phát triển (Campello, 2003, 2006; Chevalier, 1995a, 1995b; Kovenock & Phillips, 1997; Opler & Titman, 1994) cần phải có thêm bằng chứng ủng hộ cho mối quan hệ này. Bài viết sử dụng Việt Nam làm bối cảnh nghiên cứu vì việc xem xét tác động của cạnh tranh ngành lên hiệu quả hoạt động của DN còn khá mới mẻ tại Việt Nam và tác động của cạnh tranh ngành lên đòn bẩy tài chính lại là một vấn đề chưa được giải quyết. Tác giả hy vọng bài nghiên cứu sẽ đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm cho mối liên hệ tương tác giữa đòn bẩy tài chính và mức độ cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của DN. Sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng cho mẫu dữ liệu gồm 302 DN niêm trên sàn giao dịch chứng khoán Tp.HCM (HOSE) trong giai đoạn 2007 – 2015, bài nghiên cứu giải quyết hai câu hỏi sau: (1) liệu mức độ cạnh tranh ngành có tác động tới mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động của DN? (2) Với các chỉ số đo lường cạnh tranh khác TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 414 nhau thì có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động DN? Bài nghiên cứu được cấu trúc như sau. Phần 2 trình bày tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan tới mối liên hệ giữa đòn bẩy tài chính và mức độ cạnh tranh với hiệu quả hoạt động của DN. Từ đó tác giả đưa ra được giả thuyết nghiên cứu trong phần 3. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong phần 4 và 5. Cuối cùng, bài viết kết luận lại nội dung trọng tâm của toàn bài nghiên cứu. 2. NỘI DUNG: 2.1 Cơ sở lý thuyết: Mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động của DN là một trong những vấn đề được nghiên cứu bởi nhiều nhà khoa học trên thế giới. Tuy nhiên, nhìn chung kết quả của những bài nghiên cứu này thường chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính không tác động, tác động âm, hay là tác động dương đến hiệu quả hoạt động của DN. Trong nghiên cứu của mình về cấu trúc vốn và giá trị của DN, Modigliani and Miller (1958) cho rằng trong thị trường vốn hoàn hảo, tức là không có thuế, chi phí giao dịch, và thông tin bất cân xứng thì cấu trúc vốn của DN không ảnh hưởng tới giá trị của DN. Điều này chỉ rõ ra rằng đòn bẩy tài chính không giúp DN thay đổi hiệu quả hoạt động của mình. Tuy nhiên, lý thuyết này không đúng với tình hình thực tế k ... ải chịu sự điều tiết lớn từ chính phủ và cả chủ nợ. Môi trường điều tiết như vậy buộc các DN phải hoạt động hiệu quả và có lợi nhuận cao thì mới có thể đáp ứng được điều kiện vay vốn nếu không thì sẽ rất khó để tiếp cận vốn vay cho đầu tư. Hoạt động kiểm soát như vậy đôi khi làm gia tăng chi phí của DN nhưng tác động của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN Việt Nam lại thiên về hướng tích cực nhiều hơn 40 Trong thị trường sản phẩm tập trung, DN được cho là sẽ dễ dàng bị tấn công bởi các đối thủ trong cùng ngành khi mà DN sử dụng đòn bẩy tài chính (Bolton & Scharfstein, 1990; Campello, 2003, 2006; Chavalier & Scharfstein, 1996; Chevalier, 1995a, 1995b; Kovenock & Phillips, 1997; Opler & Titman, 1994). Vậy nên, lợi ích đại điện của đòn bẩy tài chính được cho là sẽ tăng hay giảm cùng với mức độ tập trung hay cạnh tranh của thị trường. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 419 Bảng 2 trình bày ma trận hệ số tương quan của các biến trong mô hình nghiên cứu. Kết quả từ ma trận hệ số tương quan giữa các biến giải thích cho thấy khả năng tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo trong mô hình không cao do độ lớn của các hệ số tương quan giữa các biến giải thích đều rất thấp. Bảng 2: Ma trận hệ số tƣơng quan của các biến trong mô hình ROAit LEVit-1 SGROit Sizeit MROAit HHIit Biit ROAit -1.0000 LEVit-1 -0.2069*** -1.0000 SGROit -0.0096 -0.0206 -1.0000 Sizeit -0.0693*** -0.2761*** -0.0056 -1.0000 MROAit -0.9072*** -0.2776*** -0.0012 -0.0478* 1.0000 HHIit -0.1604*** -0.0002 -0.003 -0.2784*** 0.1908*** -1.0000 Biit -0.0791*** -0.0186 -0.017 -0.0840*** 0.0826*** -0.0431** 1.0000 *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1% Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 3: Kết quả chạy hồi quy của mô hình nghiên cứu ROAit Model 1 Model 2 LEVit-1 0.963** 0.910** (-2.00) (-2.35) SGROit 0.00000668 -0.000000698 (-0.51) (-0.07) Sizeit -0.0335*** -0.0314*** (-2.69) (-2.98) MROAit 1.387*** 1.345*** (-7.95) (-10.56) HHIit 2017.5* (-1.69) LEVit-1 * HHIit -2891.5 (-1.19) Biit -0.725** (-1.99) LEVit-1 * Biit 1.344* (-1.95) No. of Observation 1282 1282 Sargan test p-value 0.7878 0.9796 *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1% Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 3 trình bày kết quả ước lượng của phương trình (3). Phương pháp hồi quy GMM được sử dụng với biến tỷ lệ tài sản hữu hình và lá chắn thuế phi nợ làm biến công cụ cho đòn bẩy tài chính. Mô hình 1 sử dụng chỉ số HHI, đo lường mức độ tập trung thị trường, làm biến đại diện cho mức độ cạnh tranh. Mô hình 2 sử dụng chỉ số BI, đo lường khả năng cạnh tranh của thị trường, làm biến đại diện cho mức độ cạnh tranh. Trong đó, chỉ số HHI càng cao mức độ cạnh tranh càng thấp trong khi chỉ số BI lại thể hiện ngược lại. Chính vì vậy tác động của hai chỉ số này đến hiệu quả hoạt động nên trái ngược nhau. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 420 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính có tác động dương đến hiệu quả hoạt động của DN. Kết quả này ủng hộ cho quan điểm đòn bẩy tài chính giúp làm giảm chi phí đại diện được đề xuất bởi Jensen and Meckling (1976). Điều này cho thấy các DN Việt Nam thường khá thận trọng trong việc vay nợ. Bên cạnh đó, các DN tại Việt Nam thường chịu sự giám sát chặt chẽ không chỉ của chính phủ mà còn bởi các chủ nợ và bị ràng buộc không nhỏ từ điều khoản hợp đồng vay nợ cho nên chủ DN thường nỗ lực gia tăng lợi nhuận để đáp ứng các yêu cầu pháp lý hoặc là không vay nợ quá nhiều để không phải rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính hay là phá sản DN. Như vậy, chi phí đại diện của vốn chủ sở hữu lấn át chi phí đại diện của nợ và làm cho việc sử dụng đòn bẩy tài chính có tác động tích cực thúc đẩy hiệu quả hoạt động của DN. Quan điểm này nhất quán với nghiên cứu của Weill (2008) và Berger and Di Patti (2006). Kết quả này ủng hộ cho mối quan hệ dương giữa đòn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động của DN như giả thuyết 1. Hầu hết các biến kiểm soát đều có tác động ý nghĩa đến hiệu quả hoạt động của DN; đồng thời, dấu và mức ý nghĩa của các biến kiểm soát không thay đổi qua cả hai mô hình hàm ý kết quả nghiên cứu thể hiện tính ổn định và bền vững nhất định. Trong khi, mở rộng quy mô được xem là cách mà DN có thể đa dạng hóa sản phẩm và tận dụng tính kinh tế theo mô từ đó giúp nâng cao hiệu quả hoạt động thì điều này dường như không đúng với các DN trong mẫu nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu sử dụng tất cả các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán TpHCM cho nên các DN này phần lớn là các DN có quy mô lớn cho nên việc gia tăng quy mô DN sẽ làm cho DN lãng phí quá nhiều nguồn lực, làm tăng chi phí quản lý nguồn lực, cũng như là tạo ra các vấn đề liên quan tới đạo đức trong DN. Bài nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa tăng trưởng doanh số và hiệu quả hoạt động của DN. Biến thu nhập mong đợi có tác động dương tới hiệu quả hoạt động của DN. Trong mô hình 1, tác giả không tìm thấy tác động của biến tương tác giữa đòn bẩy tài chính và mức độ tập trung của thị trường lên hiệu quả hoạt động của DN. Tuy nhiên, biến HHI bản thân nó lại có tác động dương ý nghĩa lên hiệu quả hoạt động của DN. Điều này chứng tỏ rằng khi mà mức độ tập trung của thị trường gia tăng, mức độ cạnh tranh thấp thì các DN mới sẽ khó tham gia vào thị trường (do tính monopoly cao) và các DN cũ cũng nỗ lực để loại bỏ các DN này vì vậy các DN hiện hành sẽ cố gắng nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Mặc dù biến tương tác trong mô hình 1 không có ý nghĩ nhưng dấu âm của nó cũng thể hiện đúng theo quan điểm mà tác giả đã trình bày, tức là trong thị trường tập trung sự gia tăng đòn bẩy tài chính của DN sẽ khiến cho lợi nhuận DN giảm, DN hoạt động khó khăn, và hiệu quả hoạt động cũng kém theo. Trong mô hình 2, chúng ta thấy rằng hệ số của biến BI mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê hàm ý mức độ cạnh tranh được xem là sẽ kiểm hãm hiệu quả hoạt động DN theo như lý thuyết hiệu quả và mức độ cạnh tranh đã trình bày. Ở đây, tác giả thấy được tác động dương có ý nghĩa của biến tương tác giữa đòn bẩy kinh doanh và BI lên hiệu quả hoạt động của DN. Kết quả này chỉ ra rằng tác động của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN sẽ tăng với mức độ cạnh tranh của thị trường. Kết quả ước lượng từ mô hình 1 và mô hình 2 hoàn toàn thể hiện sự nhất quán với nhau. Để kiểm tra xem biến công cụ trong bài nghiên cứu có phù hợp hay không, tác giả sử dụng kiểm định Sargan được trình bày ở cuối bảng 3. Theo đó, các giá trị p-value của kiểm định Sargan đều không thể hiện ý nghĩa hàm ý các biến công cụ sử dụng trong mô hình là phù hợp và thõa mãn giả định Over- identify. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 421 3. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG GỢI Ý CHÍNH SÁCH Trong bài nghiên cứu này, bên cạnh việc xem xét tác động của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN, tác giả còn xem tác động này bị ảnh hưởng như thế nào bởi mức độ cạnh tranh của thị trường. Với mẫu dữ liệu nghiên cứu bao gồm tất cả các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Tp.HCM (HOSE) trong giai đoạn 2007 – 2015, tác giả tìm thấy tác động dương có ý nghĩa của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN. Để đánh giá mức độ cạnh tranh, bài viết sử dụng biến HHI và BI làm biến đại diện cho mực độ tập trung cũng như mức độ cạnh tranh của giữa ngành. Tác giả nhận thấy, trung bình đòn bẫy tài chính thể hiện tác động dương đến hiệu quả hoạt động của các DN niêm yết trên sàn HOSE; trong đó, tác động của đòn bẫy tài chính khác nhau đối với mức độ cạnh tranh của từng ngành khác nhau. Cụ thể, tác động của đòn bẫy tài chính thể hiện rõ rệt hơn ở các ngành có mức độ tập trung thấp hay mức độ cạnh tranh cao. Kết quả từ ước lượng GMM sử dụng biến công cụ cho đòn bẩy tài chính thể hiện sự phù hợp với mô hình nghiên cứu khi thỏa mãn tất cả các kiểm định có liên quan. Dấu và ý nghĩa của các biến hầu như không thay đổi qua hai mô hình với biến cạnh tranh khác nhau cho thấy tính ổn định và bền vững của mô hình nghiên cứu. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra hai gợi ý chính sách cho các DN Việt Nam. Đầu tiên, các DN Việt Nam có thể cải thiện đáng kể hoạt động của mình khi gia tăng tỷ lệ đòn bẩy sử dụng khi mà DN đang còn khá thận trọng trong việc gia tăng nợ để tài trợ cho các dự án đầu tư. Thứ hai, bên cạnh việc giúp các DN nhận ra tác động tích cực của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả hoạt động của DN, tác giả còn chỉ ra rằng lợi ích của đòn bẩy tài chính dường như thể hiện tốt hơn đối với các DN trong ngành / lĩnh vực có mức độ cạnh tranh cao hay các ngành / lĩnh vực có mức độ tập trung thấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Beiner, S., Schmid, M. M., & Wanzenried, G. (2011). Product market competition, managerial incentives and firm valuation. European Financial Management, 17(2), 331-366. Berger, A. N., & Di Patti, E. B. (2006). Capital structure and firm performance: A new approach to testing agency theory and an application to the banking industry. Journal of Banking & Finance, 30(4), 1065-1102. Bhagat, S., & Bolton, B. (2008). Corporate governance and firm performance. Journal of corporate finance, 14(3), 257-273. Bolton, P., & Scharfstein, D. S. (1990). A theory of predation based on agency problems in financial contracting. The American Economic Review, 93-106. Boone, J. (2008). A new way to measure competition. The Economic Journal, 118(531), 1245-1261. Boone, J., Griffith, R., & Harrison, R. (2005). Measuring competition (Research Paper No. 022). Advanced Institute of Management. Boone, J., Van Ours, J. C., & Wiel, H. v. d. (2007). How (not) to measure competition. Booth, L., Aivazian, V., Demirguc‐Kunt, A., & Maksimovic, V. (2001). Capital structures in developing countries. The journal of finance, 56(1), 87-130. Brander, J. A., & Lewis, T. R. (1986). Oligopoly and financial structure: The limited liability effect. The American Economic Review, 956-970. Campello, M. (2003). Capital structure and product markets interactions: evidence TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 422 from business cycles. Journal of financial economics, 68(3), 353-378. Campello, M. (2006). Debt financing: Does it boost or hurt firm performance in product markets? Journal of financial economics, 82(1), 135-172. Chavalier, J., & Scharfstein, D. (1996). Capital market imperfections and countercyclical markups. Amer. Econ. Rev, 86, 703-725. Chevalier, J. A. (1995a). Capital structure and product-market competition: Empirical evidence from the supermarket industry. The American Economic Review, 415-435. Chevalier, J. A. (1995b). Do LBO supermarkets charge more? An empirical analysis of the effects of LBOs on supermarket pricing. The journal of finance, 50(4), 1095-1112. Dasgupta, S., & Titman, S. (1998). Pricing strategy and financial policy. The Review of Financial Studies, 11(4), 705-737. DeAngelo, H., & Masulis, R. W. (1980). Optimal capital structure under corporate and personal taxation. Journal of financial economics, 8(1), 3-29. Demsetz, H. (1973). Industry structure, market rivalry, and public policy. The Journal of Law and Economics, 16(1), 1-9. Demsetz, H., & Lehn, K. (1985). The structure of corporate ownership: Causes and consequences. Journal of political economy, 93(6), 1155-1177. Demsetz, H., & Villalonga, B. (2001). Ownership structure and corporate performance. Journal of corporate finance, 7(3), 209-233. Fama, E. F., & French, K. R. (2002). Testing trade-off and pecking order predictions about dividends and debt. Review of financial studies, 15(1), 1-33. Fudenberg, D., & Tirole, J. (1986). A" signal-jamming" theory of predation. The RAND Journal of Economics, 366-376. Ghosh, S. (2008). Leverage, foreign borrowing and corporate performance: firm-level evidence for India. Applied Economics Letters, 15(8), 607-616. Grossman, S. J., & Hart, O. D. (1983). An analysis of the principal-agent problem. Econometrica: Journal of the Econometric Society, 7-45. Jensen, M. C. (1986). Agency costs of free cash flow, corporate finance, and takeovers. The American economic review, 76(2), 323-329. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976). Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and ownership structure. Journal of financial economics, 3(4), 305-360. King, M. R., & Santor, E. (2008). Family values: Ownership structure, performance and capital structure of Canadian firms. Journal of Banking & Finance, 32(11), 2423-2432. Kovenock, D., & Phillips, G. M. (1997). Capital structure and product market behavior: An examination of plant exit and investment decisions. The Review of Financial Studies, 10(3), 767-803. Maksimovic, V., & Titman, S. (1991). Financial policy and reputation for product quality. The Review of Financial Studies, 4(1), 175-200. Margaritis, D., & Psillaki, M. (2010). Capital structure, equity ownership and firm performance. Journal of Banking & Finance, 34(3), 621-632. Maury, B. (2006). Family ownership and firm performance: Empirical evidence from Western European corporations. Journal of corporate finance, 12(2), 321-341. Modigliani, F., & Miller, M. H. (1958). The cost of capital, corporation finance and the theory of investment. The American economic review, 48(3), 261-297. Myers, S. C. (1977). Determinants of corporate borrowing. Journal of financial economics, 5(2), 147-175. Opler, T. C., & Titman, S. (1994). Financial distress and corporate performance. The journal of finance, 49(3), 1015-1040. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 423 Phillips, P. A., & Sipahioglu, M. A. (2004). Performance implications of capital structure: evidence from quoted UK organisations with hotel interests. The Service Industries Journal, 24(5), 31-51. Titman, S. (1984). The effect of capital structure on a firm's liquidation decision. Journal of financial economics, 13(1), 137-151. Wanzenried, G. (2003). Capital structure decisions and output market competition under demand uncertainty. International Journal of Industrial Organization, 21(2), 171-200. Weill, L. (2008). Leverage and corporate performance: does institutional environment matter? Small Business Economics, 30(3), 251-265. THE IMPACT OF INTERACTIVE RELATIONSHIP BETWEEN FINANCING POLICY AND INDUSTRY COMPATITION ON FIRM PERFORMANCE Abstract The research examines the influence of market competition on the relationship between financial leverage and firm performance. The data includes 302 companies listed on Ho Chi Minh Stock Exchange (HOSE) from 2007 to 2015 in a range of 13 different industries. Due to the problem of endogeneity in the empirical model, GMM method is applied with tangibility and non-debt tax shield as instrument variables. The result indicates that leverage has a positive impact on firm performance and that this effect gets stronger in the markets with high levels of competition. Key words: Compatitiveness, Capital Structure,Performance
File đính kèm:
- tac_dong_cua_viec_su_dung_chinh_sach_vay_no_trong_moi_quan_h.pdf