Tác động của đặc điểm ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp đến công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu liệu mức độ tác động của đặc điểm ban
giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp đối với việc công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam. Dựa vào dữ liệu của 30 ngân hàng thương mại Việt Nam
chưa niêm yết hoặc đã niêm yết trên các sàn HOSE, HNX, OTC trong giai đoạn 2008 –
2017, bằng phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng phân tích hồi quy GMM, chúng
tôi đã xác định được các nhân tố thuộc ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp có ảnh
hưởng đến công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu góp phần đưa ra cái nhìn tổng quan hơn cho các doanh nghiệp, đồng thời giúp
Nhà nước có định hướng phù hợp trong việc đưa ra các chính sách khuyến khích công bố
trách nhiệm xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của đặc điểm ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp đến công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 34 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẶC ĐIỂM BAN GIÁM ĐỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP ĐẾN CÔNG BỐ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Nguyễn Vĩnh Khương1, Trần Tử Hồ2, Đinh Thị Ngọc Hà3, Nguyễn Thị Phương Ngọc4, Nguyễn Phan Bảo Thi5, Cao Thị Tú Uyên6 1 2 3 4 5 6Trường Đại học Kinh tế - Luật ĐHQG TP.HCM 1khuongnv@uel.edu.vn Ngày nhận bài: 13/04/2019, Ngày duyệt đăng: 07/09/2019 Tóm tắt Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu liệu mức độ tác động của đặc điểm ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp đối với việc công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Dựa vào dữ liệu của 30 ngân hàng thương mại Việt Nam chưa niêm yết hoặc đã niêm yết trên các sàn HOSE, HNX, OTC trong giai đoạn 2008 – 2017, bằng phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng phân tích hồi quy GMM, chúng tôi đã xác định được các nhân tố thuộc ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp có ảnh hưởng đến công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra cái nhìn tổng quan hơn cho các doanh nghiệp, đồng thời giúp Nhà nước có định hướng phù hợp trong việc đưa ra các chính sách khuyến khích công bố trách nhiệm xã hội. Từ khóa: đặc điểm ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp, ngân hàng thương mại. Influence of board of management and firm characteristics to corporate social responsibility disclosure in Vietnamese commercial banks Abstract The study investigated how much influence of board of management and firm characteristics to corporate social responsibility disclosure in Vietnam commercial banks. Based on the data from 30 unlisted and listed banks on the Vietnam stock exchange in the period 2008-2017. Quantitative research method was used to demonstrate the relationship between corporate social responsibility and board of management as well as firm characteristics. General view has been figured out; therefore, Government could orient felicitous regulations to encourage social responsibility disclosure. Keywords: board of management, firm characteristics, commercial banks. VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 35 1. Giới thiệu Thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội” đã xuất hiện trong lý thuyết quản trị và kế toán trong khoảng 45 năm (Wood, 2010). Trách nhiệm xã hội nghĩa là, các tổ chức hay doanh nghiệp được coi là một thực thể của xã hội, đã sử dụng một số nguồn lực của xã hội như lao động, tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, các tổ chức hay doanh nghiệp có nghĩa vụ bù đắp và đóng góp cho cộng đồng và đặc biệt là các bên liên quan tới lợi ích của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, không chỉ các tổ chức kinh tế mà cả xã hội ngày càng tăng mối quan tâm của họ đối với trách nhiệm xã hội (Adams và Frost, 2006; Gulyas, 2009). Bên cạnh việc tập trung chiến lược cho hoạt động kinh doanh và lợi nhuận, gần đây, nhu cầu mở rộng các hoạt động của tổ chức xã hội đã trở nên cấp thiết và đóng vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược. Các học giả cho rằng những hoạt động như vậy chính là các hoạt động trách nhiệm xã hội (Margolis và Walsh, 2001). Nghiên cứu này đóng góp nhằm lấp khoảng trống nghiên cứu về trách nhiệm xã hội tại Việt Nam. Thứ nhất, kết quả phân tích hồi quy của nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa đặc điểm Ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp và công bố trách nhiệm xã hội. Đặc biệt, chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến các tác động từ đặc điểm ban giám đốc đến công bố trách nhiệm xã hội tại Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu này gia tăng bằng chứng cho tổng quan các nghiên cứu trước đây bằng cách kiểm tra mối liên hệ giữa đặc điểm ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp và công bố trách nhiệm xã hội. Trong khi các nghiên cứu trước đây cung cấp một số bằng chứng về mối liên quan giữa hiệu quả tài chính doanh nghiệp và công bố trách nhiệm xã hội (Li và cộng sự, 2013; Hồ Thị Vân Anh, 2013) và đặc điểm hội đồng quản trị và công bố trách nhiệm xã hội (Janggu và cộng sự, 2014). Đa số các nghiên cứu trên đều nghiên cứu việc công bố trách nhiệm xã hội ở các công ty phi tài chính và rất ít nghiên cứu thực nghiệm đã xem xét mối liên quan giữa đặc điểm ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp và công bố trách nhiệm xã hội, cũng như rất ít nghiên cứu về trách nhiệm xã hội ở ngân hàng thương mại. Cuối cùng, nghiên cứu này cung cấp một số hiểu biết có giá trị về trách nhiệm xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa, các doanh nghiệp Việt Nam dần áp dụng những chuẩn mực đạo đức kinh doanh toàn cầu, nên bài nghiên cứu hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư và nhà quản lý. Hơn nữa, kiến thức về mối liên hệ giữa công bố trách nhiệm xã hội và đặc điểm ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp sẽ có giá trị liên quan đến các nhà đầu tư trong việc đánh giá khả năng quản lý hiệu quả để phát triển bền vững của doanh nghiệp. Nghiên cứu này thực hiện nhằm đánh ... tổng tài sản dao động từ -0,055 đến 0,048 với mức trung bình là 0,007 trong giai đoạn từ 2008 – 2017. Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản dao động trong khoảng từ -0,47 đến 0,368, với giá trị trung bình là 0,023. Giá trị tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp thuộc khoảng 0,001 đến 0,039 với giá trị trung bình là 0,007. Đòn bẩy tài chính dao động từ 0,075 đến 0,97 với mức trung bình là 0,892 trong giai đoạn từ 2008 – 2017. 3.2. Phân tích tương quan Bảng 3 cho thấy quy mô ban giám đốc, giới tính của CEO, quy mô doanh nghiệp và đòn bẩy tài chính có tương quan thuận với trách nhiệm xã hội, trong khi biến còn lại bao gồm tuổi của CEO, tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản và tài sản cố định hữu hình có tương quan nghịch. Tương quan về dấu của các biến phụ thuộc và biến độc lập đều phù hợp với lý thuyết, ngoài trừ những biến tuổi và giới tính CEO và đòn bẩy tài chính. Hệ số tương quan giữa các biến độc lập với nhau đều bé hơn 0,8. Điều này thể hiện không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mối tương quan giữa các biến. Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình CSR BOARD size CEO age CEO gender size ROA CFO PPE- LAG LEV CSR 1,000 BOARDsize 0,224* 1,000 CEOage -0,073 0,005 1,000 CEOgender 0,034* 0,142 -0,135 1,000 SIZE 0,465* 0.463 -0,007 0,221 1,000 ROA -0,016* 0,063 0,187 0,017 -0,111 1,000 CFO -0,088* 0,026 0,053 0,032 -0,010 0,130 1,000 PPELAG -0,062* -0,152 0,191 -0,367 -0,374 0,210 -0,086 1,000 LEV 0,225* 0,201 -0,080 0,061 0,591 -0,213 0,030 -0,387 1,000 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 43 3.3. Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4. Kết quả phân tích hồi quy GMM của mô hình Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Kiểm định t Mức ý nghĩa Ước lượng khoảng tin cậy Lag.CSR 0,458* 0,063 7,27 0,000 0,329 0,587 BOARDsize 0,007*** 0,003 2,37 0,024 0,001 0,013 CEOage 0,0004*** 0,002 0,32 0,753 -0,003 0,004 CEOgender -0,052** 0,027 -1,94 0,062 -0,106 0,003 SIZE 0,017*** 0,002 9,91 0,000 0,014 0,021 ROA -3,839 1,049 -3,66 0,001 -5,985 -1,692 CFO -0,130** 0,047 -2,76 0,010 -0,226 -0,034 PPELAG -9,638 3,644 -2,65 0,013 -17,090 -2,186 LEV -0,357** 0,045 -7,98 0,000 -0,448 -0,266 Kiểm định Arellano- Bond P-value (AR1) 0,002 Kiểm định Arellano- Bond P-value (AR2) 0,461 *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1% Bảng 4 cho thấy kết quả hồi quy liên quan đến mối liên hệ giữa các đặc điểm Ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp và công bố trách nhiệm xã hội trong giai đoạn 2008 – 2017 của các ngân hàng thương mại niêm yết và chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Kiểm định AR(2) cho kết quả giá trị p lớn hơn 0,1, nghĩa là giả thuyết ban đầu về việc không tồn tại mối tương quan chuỗi 2 bậc bị loại bỏ. Do đó, tất cả các kết quả trong GMM đều có ý nghĩa. Như vậy, kết quả ước lượng mô hình theo phương pháp GMM động phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Kết quả cho thấy rằng tất cả các biến độc lập trừ biến Tuổi của CEO (CEOage) đều có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô Ban giám đốc (BOARDsize) tác động thuận chiều đến công bố trách nhiệm xã hội. Các nghiên cứu trước đây đa số đều nghiên cứu về quy mô của hội đồng quản trị (Jizi, 2013; Liao, 2016), chưa đề cập đến số lượng thành viên Ban giám đốc có tác động như thế nào đến công bố trách nhiệm xã hội. Kết quả chỉ ra trong bối cảnh ở Việt Nam, quy mô Ban giám đốc tác động tích cực đến việc công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại. Giới tính của CEO (CEOgender) có tác động TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 44 ngược chiều đến công bố trách nhiệm xã hội. Điều này phù hợp với quan điểm cho rằng phụ nữ có khả năng thực hiện các hoạt động từ thiện nhiều hơn nam giới, do đó sự có mặt của họ trong Ban điều hành sẽ thúc đẩy công bố CSR nhiều hơn (Bear và cộng sự, 2010).Quy mô doanh nghiệp (size) có ảnh hưởng tích cực đến công bố CSR. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây (Muttakin, 2015; Chang và cộng sự, 2015). Hệ số hồi quy của biến lợi nhuận thuần trên tổng tài sản (ROA) thể hiện mối quan hệ ngược chiều với công bố trách nhiệm xã hội, phù hợp với giả thuyết của tác giả. Khi lợi nhuận cao, các ngân hàng thương mại Việt Nam có xu hướng đầu tư tiếp vào các hoạt động sinh lời hơn là các hoạt động liên quan trách nhiệm xã hội nhằm tăng năng lực cạnh tranh của họ trong điều kiện ngày càng có nhiều ngân hàng thành lập ở Việt Nam. Điều này trái ngược với các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội ở các quốc gia khác (Jizi, 2013; Zheng, 2014; Li, 2013; Liao, 2016; Muttakin, 2015) với kết quả ROA thúc đẩy công bố trách nhiệm xã hội. Ngành ngân hàng ở Việt Nam đang dần tiếp cận với những chính sách thể hiện xu hướng quốc tế: quan tâm đến môi trường xã hội, nhưng mức độ thực hiện chưa cao, do đó các ngân hàng chú trọng vào các hoạt động sinh lời hơn là trách nhiệm xã hội.Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản (CFO) có tác động ngược chiều đến công bố trách nhiệm xã hội. Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Chiang (2015) và cho thấy mức độ tác động của CFO rõ rệt hơn so với Janssen (2017). Tương tự ROA, khi ngân hàng có tỷ số CFO cao, tức là ngân hàng đang có hiệu quả kinh doanh tốt, nên sẽ có xu hướng đầu tư vào hoạt động kinh doanh thay vì hoạt động trách nhiệm xã hội. Giá trị tài sản cố định hữu hình (PPE) thể hiện tác động ngược chiều với công bố trách nhiệm xã hội, tương đồng với nghiên cứu của Cochran và Wood (1984). Ngân hàng càng sở hữu nhiều tài sản cố định hữu hình, càng thiếu nguồn lực đầu tư vào các hoạt động khác, cụ thể là hoạt động trách nhiệm xã hội, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu. Hệ số hồi quy của dòn bẩy tài chính (LEV) thể hiện tác động nghịch chiều đối với công bố trách nhiệm xã hội và có ý nghĩa thống kê, nhất quán với nghiên cứu trước đây (Chiu, 2014; Li và Zhang, 2010; Zheng, 2014). 4. Kết luận và kiến nghị Kết quả nghiên cứu cho thấy, ngoại trừ tuổi của CEO không cho thấy mức ý nghĩa về mặt thống kê, các đặc điểm Ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp đều tác động đến công bố trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tác giả cũng đề cập một vài hạn chế nghiên cứu và hướng nghiên cứu trong tương lai. Thứ nhất, vấn đề công bố thông tin của nhóm ngân hàng trong mẫu dữ liệu không đầy đủ nên không thể thu thập tất cả dữ liệu để được kết quả chính xác nhất. Thứ hai, do thời gian và kiến thức còn hạn hẹp nên tác giả chỉ chọn một mô hình để đo lường trách nhiệm xã hội. Thứ ba, bài viết loại bỏ các doanh nghiệp tài chính cũng như dữ liệu trước năm khủng hoảng tài chính 2008 nên không sử dụng cho các ngành đặc thù như đã đề cập. Thứ tư, các nghiên cứu nước ngoài chủ yếu nghiên cứu về tác động của hội đồng quản trị cũng như sử dụng các biến độc lập trong nghiên cứu của tác giả làm biến kiểm soát nên bài viết còn hạn chế về nghiên cứu và lý thuyết VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 45 nền. Nghiên cứu tương lai có thể xem xét để lựa chọn đối tượng nghiên cứu, quy mô mẫu và phương pháp nghiên cứu đa dạng hơn nhằm tăng độ tin cậy cho kết quả. Đối với các quy định, chính sách của Nhà nước Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, bài nghiên cứu sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ về việc công bố trách nhiệm xã hội đặc biệt là đo lường tác động của đặc điểm ban giám đốc và đặc điểm doanh nghiệp đến công bố trách nhiệm xã hội, từ đó có những chính sách khuyến khích thực hiện trách nhiệm xã hội cũng như công bố những thông tin này một cách hiệu quả hơn. Hiện nay, trong thông tư 155/2015- BTC về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán do Bộ Tài chính ban hành, chưa đề cập đến công bố thông tin về trách nhiệm xã hội, trong khi vấn đề này đang ngày càng được nhiều doanh nghiệp nhận thức và thực hiện. Các hoạt động trách nhiệm xã hội tuy là tự nguyện, nhưng các cơ quan nhà nước cũng cần đưa ra những chính sách, khung pháp lý cụ thể để các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội, từ đó đẩy mạnh thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các hoạt động này hơn. Đối với ngân hàng Đối với các ngân hàng niêm yết và chưa niêm yết, bài nghiên cứu sẽ giúp ngân hàng nhìn nhận về trách nhiệm xã hội cũng như vận dụng mối quan hệ giữa đặc điểm Ban giám đốc, đặc điểm doanh nghiệp và công bố trách nhiệm xã hội phù hợp để phát triển ngân hàng một cách bền vững và hoàn toàn tự nguyện công bố các hoạt động trách nhiệm xã hội. Sự phát triển bền vững của doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng sẽ đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội. Các ngân hàng cần chú trọng hơn đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội thông qua áp dụng Chiến lược phát triển bền vững do Chính phủ phê duyệt, giai đoạn từ 2011 – 2020 cũng như tăng cường công bố thông tin trên Báo cáo thường niên, Báo cáo phát triển bền vững, Hiện nay, khi việc phát triển một doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là phát triển về qui mô, doanh thu, lợi nhuận, mà còn là phát triển về thương hiệu, niềm tin của người tiêu dùng, người lao động cũng như chủ sở hữu đối với doanh nghiệp, công bố trách nhiệm xã hội cần được nghiêm túc nhìn nhận và thực hiện rộng rãi. Tài liệu tham khảo Adam, C. and Frost, G. R. R. (2006). Accessibility and functionlity of the corporate web site: Implication for sustainability reporting. Business Strategy and the Environment, 15 (4), pp. 275-287. Hồ Thị Vân Anh (2013). Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. Barnea, A. and Rubin, A. (2010). Corporate social responsibility as a conflict between shareholders. Journal of Business Ethics, 97 (1), pp. 71-86. Bear, S., Rahman, N. and Post, C. (2010). The impact of board diversity and gender composition on corporate social responsibility and firm reputation. Journal of Business Ethics, 97 (2), pp. 207-221 Branco, M. C. and Rodrigues, L. L. (2008). Factors influencing social responsibility disclosure by Portuguese companies. Journal of Business Ethics, 83 (4), pp. 685-701. Chiang, J. J. Taylor, S. E and Bower, J. E. (2015). Early adverity, neural development and information. Rewiev Article, 75 (8), TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 46 pp. 887-907. Chiu, S. I. (2014). The Relation between Life Stress and Smartphone Addiction on Taiwanese University Students: A Mediation Model of Learning Self-Efficacy and Social Self-Efficacy. Computer in Human Behavior. Cochran, P. L. and Wood, R. A. (1984). Corporate social responsibility and financial performance. Academy of Management Journal, 27 (1), pp. 42-56. Cowen, S. S., Ferreri, L. B. and Parker, L. D. (1987). The impact of corporate characteristics on social responsibility disclosure: A typology and frequency- based analysis. Accounting, Organizations and Society, 12 (2), pp. 111-122. Gulyás, A. (2009). Coporate social responsibility in the British media industries preliminary findings. Ter és Tarsadalom Journal, 23 (2), pp. 155-169. Haniffa, R. M. and Cooke, T. E. (2005). The impact of culture and governance on corporate social reporting. Journal of Accounting and Public Policy, 24 (5), pp. 391-430. Ho, P. L. and Taylor, G. (2013). Corporate governance and different types of voluntary disclosure: Evidence from Malaysian listed firms. Pacific Accounting Review, 25 (1), pp. 4-29. Holder-Webb, L., Cohen, J., Nath, L. and Wood, D. (2009). The supply of corporate social responsibility disclosures among U.S. firms. Journal of Business Ethics, 84 (4), pp. 497-527. Janssen, D. (2017). Corporate Social Responsibility. Culture and Earnings Management. Master thesis, Raboud University Nijmegen, Netherlands. Jizi, M. I., Salama, A., Dixon, R. and Stratling, R. (2013). Corporate governance and corporate social responsibility disclosure: Evidence from the US banking sector. Journal of Business Ethics, 125 (4), pp. 601-615. Kaur, A. and K. Lodhia, S. (2014). The state of disclosures on stakeholder engagement in sustainability reporting in Australian local councils. Pacific Accounting Review, 26 (1/2), pp. 54-74. Nguyễn Vĩnh Khương (2018). Quản trị công ty và công bố thông tin trách nhiệm xã hội tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 254 (8), tr. 81-89. Li, Q., Luo, W., Wang, Y. and Wu, L. (2013). Firm performance, corporate ownership, and corporate social responsibility disclosure in China. Business Ethics: A European Review, 22 (2), pp. 159-173. Liao, L., Lin, T. P. and Zhang, Y. (2018). Corporate board and corporate social responsibility assurance: Evidence from China. Journal of Business Ethics, 150 (1), pp. 211-225. Muttakin, M. B., Khan, A. and Subramaniam, N. (2015). Firm characteristics, board diversity and corporate social responsibility: evidence from Bangladesh. Pacific Accounting Review, 27 (3), pp. 353-372. Oh, W. Y., Chang, Y. K. and Cheng, Z. (2014). When CEOcareer horizon problems matter for corporate social responsibility: The moderating roles of industry-level discretion and blockholder ownership. Journal of Business Ethics. doi:10.1007/s10551-014-2397-z. Pathan, S. (2009). Strong boards, CEO power and bank risk-taking. Journal of Banking and Finance, 33 (7), pp. 1340-1350. Pelled, L. H., Eisenhardt, K. and Xin, K. R. (1999). Exploring the black box: An analysis of work group diversity, conflict and performance. Administrative Science Quarterly, 44 (1), pp. 1-28. Ullmann, A. (1985). Data in search of a theory: A critical examination of the relationships among social performance, VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 47 social disclosure, and economic performance of US firms. Academy of Management Review, 10 (3), pp. 540-557. Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015). Lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26 (8), tr. 54-70 Watson, A., Shrives, P. and Marston, C. (2002). Voluntary disclosure of accounting ratios in the UK. The British Accounting Review, 34 (4), pp. 289-313. Wood, D. J. (2010). Measuring corporate social performance: A review. International Journal of Management Reviews, 12, pp. 50-84. Zheng, L., Balsara, N. and Huang, H. (2014). Regulatory pressure, blockholders and corporate social responsibility (CSR) disclosures in China. Social Responsibility Journal, 10 (2), pp. 226-245.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_dac_diem_ban_giam_doc_va_dac_diem_doanh_nghiep.pdf