Tác động của chương trình phát triển nông thôn đến xóa đói giảm nghèo tại xã Chiềng Yên, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Xóa đói giảm nghèo là vấn đề rất quan trọng của mỗi quốc gia, nhất là đối với khu vực nông thôn. Phát triển
nông thôn gắn liền với công tác xóa đói giảm nghèo là cơ sở và tiền đề để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và
nền tảng cho phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia. Vấn đề nghèo đói được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm
kể từ năm 1992. Công tác xóa đói giảm nghèo đã được triển khai mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh, nhất là các vùng
nghèo, xã nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra đó, những năm qua Chính
phủ đã xây dựng và thực hiện nhiều Chương trình, Dự án đầu tư phát triển nông thôn nhằm phát triển toàn diện,
giảm khoảng cách giữa thành thị - nông thôn, giảm tỷ lệ nghèo đói Bài viết này nhằm cung cấp những tác
động của một số chương trình phát triển nông thôn (134, 135) đến xóa đói giảm nghèo tại xã Chiềng Yên,
huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của chương trình phát triển nông thôn đến xóa đói giảm nghèo tại xã Chiềng Yên, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Kinh tế & Chính sách 118 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐẾN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI XÃ CHIỀNG YÊN, HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA Đặng Thị Hoa1, Đặng Văn Phúc2 1,2Trường Đại học Lâm nghiệp TÓM TẮT Xóa đói giảm nghèo là vấn đề rất quan trọng của mỗi quốc gia, nhất là đối với khu vực nông thôn. Phát triển nông thôn gắn liền với công tác xóa đói giảm nghèo là cơ sở và tiền đề để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và nền tảng cho phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia. Vấn đề nghèo đói được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm kể từ năm 1992. Công tác xóa đói giảm nghèo đã được triển khai mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh, nhất là các vùng nghèo, xã nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra đó, những năm qua Chính phủ đã xây dựng và thực hiện nhiều Chương trình, Dự án đầu tư phát triển nông thôn nhằm phát triển toàn diện, giảm khoảng cách giữa thành thị - nông thôn, giảm tỷ lệ nghèo đói Bài viết này nhằm cung cấp những tác động của một số chương trình phát triển nông thôn (134, 135) đến xóa đói giảm nghèo tại xã Chiềng Yên, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Từ khóa: Chương trình, phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn, đói nghèo không chỉ là vấn đề của một vùng, một quốc gia, mà nó còn là vấn đề cấp bách của toàn nhân loại. Với thực tế đó, Việt Nam - một quốc gia đang phát triển, có tỷ lệ đói nghèo cao, là vấn đề đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được chú trọng và là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam đang thực hiên công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta hiện nay, việc xoá đói, giảm nghèo đang hướng mạnh tới thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đây là vấn đề có liên quan tới công bằng, bình đẳng xã hội, ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này được nhấn mạnh trong nhiều văn kiện của Đảng, trở thành hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng, chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề đói nghèo cho từng địa phương, từng đối tượng cụ thể như nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân; tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội; thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn; khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên; có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch về mức sống giữa nông thôn với đô thị. Các chủ trương chính sách xóa đói giảm nghèo được cụ thể hóa bằng các chương trình, các dự án đã và đang triển khai ở các địa phương trên cả nước như chương trình khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; chương trình phát triển nông thôn, thủy lợi, giao thông; chương trình định canh định cư; chương trình tư vấn, dịch vụ, chuyển giao khoa học công nghệ; chương trình giải quyết việc làm; chương trình tín dụng; chương trình giáo dục, y tế; chương trình bảo vệ môi trường Chiềng Yên là xã vùng III miền núi, thuần nông lâm, nguồn thu của của nhân dân trong xã Kinh tế & Chính sách 119TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Chiềng Yên có 8 dân tộc anh em chung sống đoàn kết, hầu hết dân số của xã là đồng bào dân tộc thiểu số như: Dao, Thái, Mường, Mông sống chủ yếu dựa vào việc trồng trọt, chăn nuôi. Chiềng Yên thuộc đối tượng đầu tư của một số chương trình, dự án phát triển của Chính Phủ. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, một số chính sách đã được triển khai trên địa bàn xã như Chương trình 134, Chương trình 135, Chương trình hỗ trợ các xã nghèo về cơ sở hạ tầng, điều kiện sinh hoạt, hỗ trợ sản xuất Từ khi triển khai các chương trình phát triển nông thôn trên địa bàn xã, đời sống của bà con trong xã được cải thiện đáng kể, điển hình là bản Leo, bản Suối Mực, bản Nà Bai là ba bản nhận được nhiều hỗ trợ từ chương trình 134, 135. Các chương trình phát triển nông thôn đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực như góp phần trong công tác xóa đói giảm nghèo, cải thiện bộ mặt của xã về kinh tế - văn hóa – xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, thúc đẩy sản xuất, giao thông hàng hóa giữa các địa bàn lân cận, giảm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các chính sách xóa đói giảm nghèo vẫn còn tồn tại một số hạn chế như trình độ văn hóa và chuyên môn của cán bộ ... 00 100 100 3. Trẻ em 6 – 11 tuổi được uống Vitamin A Người 357 478 692 II. Giáo dục 1. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được đến trường % 83 96 100 2. Tỷ lệ học sinh học phổ thông và các bậc học cao hơn % 14 34 56 Nguồn: UBND xã Chiềng Yên Kinh tế & Chính sách 123TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 * Về giáo dục: Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường trước và sau khi có các chương trình hỗ trợ tăng gần 20%. Giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ trẻ em đến trường đúng độ tuổi là 100% và tỷ lệ học sinh học phổ thông đã đạt 56%. Những năm gần đây, luôn có những học sinh cố gắng vượt khó đạt điểm cao trong các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng. Nhìn chung, qua những con số trên, cho thấy công tác giáo dục và y tế sau khi có sự đầu tư của các chương trình phát triển nông thôn đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, chất lượng dạy học, khám chữa bệnh vẫn còn là một bài toán khó, cần sự kết hợp của nhiều cấp, nhiều ban ngành trong giải quyết những vấn đề này nhất là với một xã chiếm tới 95% là đồng bào dân tộc thiểu số. 3.4. Tác động đến môi trường của xã Chiềng Yên Mục tiêu của các chương trình phát triển nông thôn là phát triển theo hướng bền vững, có nghĩa là việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường. Các chương trình phát triển này góp phần bảo vệ hệ sinh thái tại địa phương. Thông qua các dự án giao đất giao rừng cho người dân trồng và quản lý, chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, một phần làm tăng thu nhập của người dân, mặt khác làm giảm các hoạt động chặt phá rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy. Các đợt tập huấn, hướng dẫn các kỹ thuật và phương thức chăn nuôi giúp người dân biết cách chăn thả gia súc, gia cầm đúng nơi, tránh ô nhiễm môi trường nước và môi trường không khí, làm giảm các loại bệnh như da liễu, tiêu hóa... Cụ thể: những năm về trước, người dân tộc Mường (bản Nà Bai), Thái (bản Niên, Bống Hà) có tập quán ở nhà sàn, các loại gia súc gia cầm như trâu, bò, lợn gà được chăn thả ngay bên dưới gầm nhà sàn, gây mất vệ sinh trong sinh hoạt của người dân, ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước. Từ khi có sự đầu tư của Chính phủ, các nhà sàn dần được thay thế bằng nhà xây kiên cố, gia súc gia cầm được nuôi nhốt trong chuồng trại, cách ly với ngôi nhà và nguồn nước sử dụng. Hiện nay, ở các bản trong xã đều có tổ bảo vệ rừng của bản để tham gia công tác tuyên truyền và bảo vệ khu rừng được xã phân công, vì vậy đã hạn chế tương đối nạn phá rừng làm nương, nạn săn bắt thú rừng đã giảm so với những năm về trước. 3.5. Các tác động đến kinh tế của các hộ điều tra 3.5.1. Tác động về vốn Tình hình vay vốn và hỗ trợ vốn từ các chương trình phát triển nông thôn của các hộ điều tra được thể hiện trong bảng 5. Bảng 5. Vốn cho SXKD và XDCB của các hộ điều tra Chỉ tiêu Lãi suất (%/tháng) Số lượng (1000đ) Cơ cấu (%) 1. Vốn SXKD Vốn tự có 112.100 7,5 Vốn vay NHNN và PTNT 1 220.000 14,5 Vốn vay NHCSXH huyện Vân Hồ 0,6 456.000 30,1 Vốn CT 135 hỗ trợ không hoàn lại Cây giống 0 210.400 13,9 Con giống 0 325.000 21,5 Thức ăn chăn nuôi, phân bón 0 0 0 Tổng vốn SXKD 1.323.500 87,5 2. Vốn XDCB Vốn tự có 13.400 0,9 Vốn vay NHCSXH huyện Vân Hồ 0,6 82.000 5,4 Vốn địa phương hỗ trợ 0 20.600 1,36 Vốn CT 134 hỗ trợ không hoàn lại 0 73.000 4,83 Tổng vốn XDCB 189.000 12,5 Tổng vốn 1.512.500 100 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra tháng 3,4 năm 2016 Kinh tế & Chính sách 124 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 Bảng 5 cho thấy số trong cơ cấu vốn SXKD, chủ yếu là vốn người dân vay ngân hàng. Vốn từ Chương trình 135 hỗ trợ không hoàn lại chiếm 35,4%, bao gồm hỗ trợ về cây giống, con giống sự hỗ trợ này đã làm giảm tương đương 35,4% chi phí sản xuất mà người dân phải bỏ ra, đồng thời có tác động không nhỏ đến công tác khuyến khích sản xuất nông nghiệp: hỗ trợ những cây giống, con giống có khả năng chống chịu tốt, rút ngắn thời gian chăn nuôi, canh tác, cho năng suất cao, giúp người dân tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Về cơ cấu vốn XDCB, trong số 100 hộ điều tra, có 10 hộ thuộc đối tượng đầu tư của chương trình 134, được hỗ trợ về xây dựng nhà ở. Mỗi hộ được Chương trình hỗ trợ số tiền 7.300.000 đồng/hộ, địa phương hỗ trợ 2.060.000 đồng/hộ, Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện Vân Hồ cho vay số tiền 8.200.000 đồng/hộ, với mức lãi suất ưu đãi là 0,6%/tháng. Tổng vốn xây dựng cơ bản của các hộ điều tra là 189.000.000 đồng. Chương trình hỗ trợ này giúp những người nghèo có hoàn cảnh khó khăn xóa nhà tạm, có được cuộc sống ổn định hơn, từng bước nâng cao thu nhập và mức sống cho gia đình. 3.5.2. Tác động đến chi phí Thực trạng hỗ trợ các loại chi phí cho SXNN được thể hiện ở bảng 6 và 7. Đối với chi phí vật nuôi: Bảng 6. Chi phí vật nuôi của các hộ điều tra Vật nuôi Thời gian/lứa (tháng) Chi phí (1.000đ) Dịch vụ thú y (1.000đ) Tổng chi phí (1.000đ) Hỗ trợ từ chương trình 135 Giống Thức ăn Số vốn (1.000đ) Tỷ lệ vốn/tổng CP (%) Trâu 12 230.000 95.500 6.000 331.500 230.000 28,5 Bò 12 200.000 92.000 6.000 298.000 200.000 24,8 Lợn 6 120.000 50.000 6.000 176.000 120.000 14,9 Tổng 550.000 237.500 18.000 805.500 550.000 68,2 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra tháng 3,4 năm 2016 Bảng 6 thể hiện các loại chi phí cho những vật nuôi chính mang lại thu nhập cho các hộ dân, chủ yếu là gia súc. Các chương trình PTNT hỗ trợ chi phí chăn nuôi của các hộ gia đình bằng cách hỗ trợ không hoàn lại tất cả các loại con giống (trâu, bò và lợn nuôi với mục đích sinh sản), người nuôi chỉ chịu chi phí thức ăn và chi phí chăm sóc thú y. Tổng chi phí hỗ trợ của Chương trình 135 là 550.000 triệu đồng, chiếm 68,2% tổng chi phí chăn nuôi. Trong đó hỗ trợ về trâu, bò là nhiều hơn cả, chiếm 53,3% tổng chi phí chăn nuôi. Đối với chi phí cây trồng chính: Bảng 7 cho thấy năm 2015, Chương trình 135 hỗ trợ cho ngành trồng trọt bằng hình thức hỗ trợ các loại cây giống như lúa, ngô... Đây là các loại giống tốt, cho năng suất cao. Tuy nhiên, các loại phân bón như đạm, kali, NPK là do các hộ dân tự mua. Tổng số tiền hỗ trợ của Chương trình 135 là 25.570 triệu đồng, chiếm 15,7% tổng chi phí cho ngành trồng trọt. Trong đó chỉ hỗ trợ về giống cây trồng, do phải hỗ trợ với cho tất cả các hộ nghèo trong toàn xã và hỗ trợ cả chăn nuôi và trồng trọt nên Chương trình 135 chỉ hỗ trợ con giống, cây giống và kĩ thuật sản xuất. Tuy vậy, những sự hỗ trợ hữu ích này làm giảm chi phí mà người dân phải bỏ ra, đồng thời giúp người dân tăng thu nhập, nâng cao mức sống. 3.5.3. Tác động đến thu nhập Kết quả điều tra 100 hộ cho thấy tác động tích cực của các chương trình, dự án được đầu tư trên địa bàn xã tới tổng thu nhập, cơ cấu thu nhập và thu nhập bình quân của các hộ được điều tra. Kinh tế & Chính sách 125TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 Bảng 7. Chi phí cây trồng chính của các hộ điều tra Chi phí ĐVT Cây lúa Cây ngô Tổng Hỗ trợ từ Chương trình 135 1. Chi phí vật chất Tính thành tiền (1.000đ) Tỷ lệ hỗ trợ/ tổng CP (%) a. Giống Số lượng Kg 255 340 25.570 15,7 Giá đ/kg 25.000 85.000 Thành tiền 1.000đ 6.375 28.900 35.275 b. Phân chuồng Số lượng Khối 120 90 0 0 Giá đ/khối 400.000 400.000 Thành tiền 1.000đ 48.000 36.000 84.000 c. Đạm Số lượng Kg 65 310 0 0 Giá đ/kg 14.000 14.000 Thành tiền 1.000đ 910 4.340 5.250 d. Kali Số lượng Kg 70 310 0 0 Giá đ/kg 14.000 14.000 Thành tiền 1.000đ 980 4.340 5.320 e. NPK Số lượng Kg 85 340 0 0 Giá đ/kg 6.000 6.000 Thành tiền 1.000đ 510 2.040 2.550 f. Thuốc trừ sâu 1.000đ 5.000 0 5.000 0 0 2. Chi phí lao động LĐ gia đình LĐ gia đình 0 0 3. Chi phí dịch vụ 0 0 a. Thuê cày bừa 1.000đ 25.500 0 25.500 b. Phí bảo vệ nội đồng 1.000đ 0 0 Tổng chi phí 1.000đ 162.895 25.570 15,7 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra tháng 3,4 năm 2016 Kinh tế & Chính sách 126 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 Bảng 8. Thu nhập của 100 hộ điều tra ĐVT: 1000đ Chỉ tiêu Cây trồng Vật nuôi, thủy sản Doanh thu 2.580.000 1.860.900 Chi phí 162.895 805.500 Thu nhập 2.417.105 1.055.400 Thu nhập khác 58.000 Tổng thu nhập 3.472.505 TNBQ người/năm 7.388 TNBQ người/tháng 616 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra tháng 3, 4 năm 2016 Bảng 8 cho thấy được thu nhập từ ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng rất lớn, khoảng hơn 2/3 tổng thu nhập của các hộ điều tra. Đó là kết quả của các Chương trình PTNT, qua các hướng đầu tư như hỗ trợ giống tốt, chuyển giao kỹ thuật sản xuất, canh tác. Thu nhập khác chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập, cho thấy nguồn thu chủ yếu của người dân là từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thu nhập bình quân người/tháng là trên 600.000 đồng, vượt xa so với chuẩn nghèo là 400.000 đồng, cho thấy mức sống của người dân được nâng lên, công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện khá tốt, đa số các hộ trong phạm vi điều tra đều đã và đang dần thoát nghèo. Bảng 9. Tình hình nghèo đói của các hộ điều tra Chỉ tiêu Trước khi có 135 và 134 Sau khi có 135 và 134 (năm 2015) Tổng số hộ 100 Hộ nghèo (thu nhập dưới 400.000 đồng/người/tháng) 99 13 Hộ cận nghèo (thu nhập từ 401.000 đến 520.000 đồng/người/tháng) 1 58 Hộ thoát nghèo (thu nhập trên 520.000 đồng/người/tháng) 0 29 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra tháng 3,4 năm 2016 Bảng 9 cho ta thấy sự chuyển biến tích cực về tình hình nghèo đói trong phạm vi nghiên cứu: số hộ nghèo trước khi có các Chương trình phát triển nông thôn là 99 hộ, sau khi các Chương trình này được triển khai, số hộ nghèo giảm đáng kể, qua kết quả điều tra tháng 3 và tháng 4, số hộ nghèo trong mẫu 100 hộ đại diện chỉ còn 13 hộ. Trên thực tế điều tra thì nhiều hộ dù đã thoát nghèo nhưng vẫn xin trở thành hộ nghèo để hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước vì vậy số hộ nghèo và cận nghèo rất cao so với thực tế. Hộ cận nghèo và hộ thoát nghèo hiện nay chiếm tới 87% số hộ được điều tra. Điều đó cho thấy những tác động tích cực không nhỏ của các chương trình hỗ trợ tới đời sống của người dân, giúp người dân từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Kinh tế & Chính sách 127TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 IV. KẾT LUẬN Chiềng Yên là một xã nghèo vùng núi, thuộc một trong những xã đặc biệt khó khăn. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu của đời sống, sinh hoạt và sản xuất thiếu về số lượng và kém về chất lượng. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu là sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc thực hiện, triển khai các Chương trình phát triển nông thôn trên địa bàn xã là rất cần thiết để nâng cao đời sống của người dân trong xã lên mặt bằng chung của xã hội. Trong những năm qua, đã có nhiều Chương trình, Dự án PTNT được thực hiện trên địa bàn xã Chiềng Yên như Chương trình 134, Chương trình 135 theo các giai đoạn Với các hình thức hỗ trợ xây dựng và tu bổ cơ sở hạ tầng, khuyến khích phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân cho đến nay đã thu được những thành quả nhất định. Có thể thấy rõ nhất là sự phát triển về kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, năm 2015, các ngành XDCB – TTCN đang dần hình thành và ngành dịch vụ đóng góp vai trò với khoảng 6,73% cơ cấu thu nhập của xã. Công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện tốt, giai đoạn 2012 – 2015, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 66,03% xuống còn 60,5%. Thu nhập bình quân của xã đạt khoảng 11,8 triệu đồng/người/năm, xấp xỉ thu nhập bình quân toàn huyện. Các chỉ tiêu về xã hội cũng được cải thiện đáng kể. Về y tế, tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng luôn đạt 100% qua các giai đoạn. Trước và sau khi có tác động của các Chương trình, số trẻ em được uống Vitamin A tăng 2 lần. Về giáo dục, trẻ Mầm non 5 tuổi được ra lớp đạt 100%, phổ cập Tiểu học và THCS là 99%. Bên cạnh những tác động tích cực của các Chương trình, vẫn còn tồn tại một số yếu điểm và hạn chế trong công tác thực hiện cần được khắc phục như: tốc độ triển khai thực hiện các Chương trình chậm, công tác quản lý bộc lộ nhiều yếu kém, chưa thu hút được sự quan tâm của người dân Nguyên nhân là do trình độ quản lý của cán bộ cơ sở còn thấp, công tác tuyên truyền chưa tốt, nguồn vốn còn hạn chế. Để phát huy những điểm mạnh và đẩy lùi những khó khăn, hạn chế, chúng ta cần có các hoạt động đồng bộ của các ban ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, cần có sự đồng lòng của cán bộ nhân dân trong quá trình thực hiện, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các Chương trình PTNT tới công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn xã Chiềng Yên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. UBND xã Chiềng Yên (2005), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 134 giai đoạn 2001 – 2005, Chiềng Yên, Vân Hồ, Sơn La. 2. UBND xã Chiềng Yên (2005), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2001 – 2005, Chiềng Yên, Vân Hồ, Sơn La. 3. UBND xã Chiềng Yên (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 134 giai đoạn 2005 – 2010, Chiềng Yên, Vân Hồ, Sơn La. 4. UBND xã Chiềng Yên (2010 - 2015), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, Chiềng Yên, Vân Hồ, Sơn La. 5. UBND xã Chiềng Yên (2015), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II, III, trên địa bàn xã Chiềng Yên, Chiềng Yên, Vân Hồ, Sơn La. Kinh tế & Chính sách 128 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017 EFFECT OF RURAL DEVELOPMENT PROGRAMS TO POVERTY REDUCTION IN CHIENG YEN COMMUNE, VAN HO DISTRICT, SON LA PROVINCE Dang Thi Hoa1, Dang Van Phuc2 1,2Vietnam National University of Forestry SUMMARY Poverty reduction is a critical issue of any country, especially in rural areas. Rural development, which is associated with the work of poverty reduction, is the basis and precondition for economic stability, politic, society and platform for economic development of each country. Poverty issues have been specially interested by Party and State since 1992. Work of poverty reduction has been powerfully implemented in almost all provinces, especially poor areas, poor communes in northern mountainous part. In order to solve the problems, the Government has built and implemented many programs, investment projects for rural development to develop comprehensively and shorten the gap between urban – rural, reduce poverty levels in many years. This article aims to provide the effect of some rural development programs (134, 135) on poverty reduction in Chieng Yen commune, Van Ho district, Son La province. Keywords: Poverty reduction, program, rural development. Ngày nhận bài : 15/8/2016 Ngày phản biện : 12/11/2016 Ngày quyết định đăng : 25/12/2016
File đính kèm:
- tac_dong_cua_chuong_trinh_phat_trien_nong_thon_den_xoa_doi_g.pdf