Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học

Bài viết giới thiệu một số sơ đồ có thể sử dụng trong dạy học Tập đọc – phần hướng dẫn học sinh (HS) nắm nội dung và ý nghĩa của bài đọc. Đồng thời bài viết cũng cung cấp một số nhận xét kèm số liệu đánh giá của giáo viên, cán bộ quản lí, HS lớp 5, sinh viên năm thứ 4 ngành giáo dục tiểu học (TH) về mức cần thiết, độ hấp dẫn, tính hiệu quả, tính tiện dụng và độ thường xuyên trong việc sử dụng các loại sơ đồ khi dạy đọc hiểu.

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 1

Trang 1

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 2

Trang 2

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 3

Trang 3

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 4

Trang 4

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 5

Trang 5

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 6

Trang 6

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 7

Trang 7

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 8

Trang 8

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 9

Trang 9

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang Trúc Khang 09/01/2024 3460
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học

Sử dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc ở tiểu học
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
42 
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC TẬP ĐỌC Ở TIỂU HỌC 
 NGUYỄN THỊ LY KHA* 
TÓM TẮT 
Bài viết giới thiệu một số sơ đồ có thể sử dụng trong dạy học Tập đọc – phần hướng 
dẫn học sinh (HS) nắm nội dung và ý nghĩa của bài đọc. Đồng thời bài viết cũng cung cấp 
một số nhận xét kèm số liệu đánh giá của giáo viên, cán bộ quản lí, HS lớp 5, sinh viên 
năm thứ 4 ngành giáo dục tiểu học (TH) về mức cần thiết, độ hấp dẫn, tính hiệu quả, tính 
tiện dụng và độ thường xuyên trong việc sử dụng các loại sơ đồ khi dạy đọc hiểu. 
Từ khóa: dạy học ở tiểu học, sơ đồ, tập đọc, đọc hiểu. 
ABSTRACT 
Using diagrams in teaching reading in primary education 
The article introduces some diagrams which can be used in teaching reading, 
guiding students to understand the content and meaning of the lesson. Moreover, the 
article also provides some comments illustrated with figures from teachers, managerial 
staff, fifth graders and senior students of Primary Education about the necessity, 
attractiveness, effectiveness, convenience and frequency of the use of diagrams in teaching 
reading comprehension. 
Keywords: diagram, reading, reading comprehension, primary education. 
* PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: nguyenthilykha@yahoo.com 
1. Sự cần thiết của sơ đồ trong dạy 
học phân môn Tập đọc 
1.1. Sơ đồ, sơ đồ hóa 
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng 
Phê) sơ đồ là một dạng “hình vẽ quy ước, 
sơ lược, nhằm mô tả đặc trưng nào đó 
của sự vật hay một quá trình nào đó”. 
Dùng sơ đồ để tóm tắt kiến thức là 
hoạt động quen thuộc với cả thầy và trò 
ngay từ bậc TH, thậm chí từ bậc học 
mầm non [9]. Trong dạy học, sơ đồ được 
sử dụng thường bao gồm đường nét và 
hoặc hình ảnh kèm từ ngữ biểu thị nội 
dung bài học, trong đó từ ngữ giữ vai trò 
cốt yếu, đường nét và hình ảnh là yếu tố 
bổ trợ (xin xem (x.) [3], [7], [10]). 
Biện pháp sơ đồ hóa các đơn vị 
kiến thức để giúp người học nắm vững 
kiến thức thường được sử dụng khi ôn 
tập, củng cố bài học. Tuy nhiên cũng có 
thể sử dụng các kiểu sơ đồ trước và sau 
khi HS tiếp xúc với văn bản [11]. 
Ở trường TH Việt Nam, sơ đồ, sơ 
đồ hóa thường được giáo viên (GV) sử 
dụng khi dạy học các môn Tự nhiên và 
Xã hội, Lịch sử, Địa lí, Khoa học; việc sử 
dụng sơ đồ trong dạy học Tập đọc vẫn 
còn xa lại với không ít GV (x. bảng 3, 
bảng 4). Bài viết này bàn đến việc sử 
dụng sơ đồ trong dạy học đọc hiểu cho 
HS TH ở bước củng cố nội dung bài học. 
Có nhiều loại sơ đồ được nhắc đến, 
như bản đồ tư duy, Plot Diagram (sơ đồ 
cốt truyện), sơ đồ Venn, bản đồ khái 
niệm, Graphic (bảng biểu), sơ đồ mạng 
nhện, sơ đồ cấu trúc, sơ đồ địa học, v.v.. 
Và cũng có nhiều cách gọi cho các loại 
sơ đồ, chẳng hạn gọi theo chức năng: sơ 
đồ tóm tắt, bản đồ khái niệm, sơ đồ quá 
trình; gọi theo hình dạng: sơ đồ mạng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
43 
nhện, sơ đồ cành cây, sơ đồ đường tròn, 
biểu đồ bong bóng [3], [6], [8], [10]. Do 
phạm vi vấn đề bàn đến là sử dụng sơ đồ 
trong dạy học Tập đọc cho HS TH, nên ở 
bài viết này, chúng tôi dùng cách gọi thứ 
hai, cách gọi thường gặp, ngoại trừ 
những trường hợp đã được thuật ngữ hóa 
như bản đồ tư duy, sơ đồ Venn và những 
khi trích dẫn. 
1.2. Việc sử dụng sơ đồ trong dạy học 
Tập đọc 
1.2.1. Hoạt động đọc, ngay từ lớp đầu 
tiên của bậc TH, không chỉ dừng lại ở 
việc phát thành lời những điều đã được 
viết ra, theo đúng trình tự mà còn phải 
hiểu những gì đã đọc được. Chương trình 
môn Tiếng Việt (TV) ở TH cũng chỉ rõ 
yêu cầu của phân môn Tập đọc: HS phải 
hiểu được nội dung của đoạn, bài; nắm 
được ý nghĩa giáo dục chứa đựng trong 
bài đọc (với HS lớp 4, 5 còn có yêu cầu 
“biết nhận xét về nhân vật trong các văn 
bản tự sự”) [1], [2]. 
1.2.2. Để tìm hiểu về vấn đề sử dụng sơ 
đồ trong bước củng cố của tiết Tập đọc, 
chúng tôi đã tiến hành khảo sát qua bảng 
hỏi (215 GV, 238 HS lớp 5 tại TPHCM 
và Bình Dương, Đắk Lắk; 94 SV năm thứ 
4 ngành Giáo dục TH1); đồng thời, trực 
tiếp phỏng vấn một số GV và cán bộ 
quản lí ở một số trường TH trên địa bàn 
TPHCM về việc sử dụng sơ đồ trong dạy 
học Tập đọc, như đánh giá về mức cần 
thiết, độ hấp dẫn, tính tiện dụng, (Thời 
gian thu thập số liệu cuối tháng 4-2015). 
Chúng tôi cũng tiến hành tập huấn cho 40 
GV TH về sử dụng sơ đồ trong dạy học 
Tập đọc vào tháng 11-2014 và tiến hành 
thử nghiệm sử dụng sơ đồ trong dạy học 
đọc hiểu một số bài ở lớp 1, 2, 5. 
Bảng & biểu đồ 1. Ý kiến về mức độ cần thiết của sơ đồ trong dạy học Tập đọc (%) 
Biểu đồ 1 cho thấy phần lớn GV 
(78,7%), HS (72,9%), nhất là SV (91,4%) 
đều cho rằng sơ đồ “cần” và “rất cần” khi 
dạy học phân môn Tập đọc. Số ý kiến 
cho rằng vai trò của sơ đồ “bình thường” 
(GV: 6,9%, SV: ... ______________________________________________________________ 
48 
2.1.6. Sơ đồ đường thẳng phù hợp với những truyện có nhân vật chính chỉ “đi theo” 
một tuyến duy nhất, như truyện Người liên lạc nhỏ, Người mẹ (TV3, t.1). Chẳng hạn, 
có thể tóm tắt và biểu diễn theo dạng sơ đồ đường thẳng cho truyện Người mẹ như sau: 
Nhìn chung, do sơ đồ đường tròn với 
yêu cầu các tình tiết diễn ra theo tiến trình 
khép kín và sơ đồ đường thẳng với yêu cầu 
nhân vật chính chỉ đi theo một tuyến duy 
nhất, nên hai kiểu sơ đồ này có “độ phổ” 
không như sơ đồ mạng sự kiện, bản đồ tư 
duy, vòng tròn trung tâm, sơ đồ Venne, 
bản đồ câu chuyện Nếu dùng 2 kiểu sơ 
đồ này, GV cần xác định xem truyện có 
thảo mãn yêu cầu như vừa nêu hay không. 
2.1.7. Bản đồ câu chuyện (plot diagram) 
thường dùng cho các bài đọc dạng truyện 
kể [5]. Ngoài ra, kiểu sơ đồ này cũng có 
thể sử dụng cho bài miêu tả có tính tiến 
trình, như bài Hội vật (TV3, t.2), Hội thổi 
cơm thi ở Đồng Vân (TV5, t.2) hoặc bài 
Mời vào (TV1, t.2), v.v.. Nếu dùng kiểu 
sơ đồ này, GV cần hướng dẫn HS xác 
định nhân vật, thời gian, nơi chốn và 
hành động của nhân vật trong bối cảnh 
không gian, thời gian đã xác định; hoặc 
xác định đối tượng miêu tả trong tiến 
trình tiến triển của nó. Và loại sơ đồ này 
cần sắp xếp theo trình tự diễn tiến của 
câu chuyện. Chẳng hạn, qua hệ thống câu 
hỏi của SGK, GV hướng dẫn HS lập bản 
đồ câu chuyện cho truyện Người mẹ như 
sau: 
2.1.8. Sơ đồ mạng từ ngữ biểu thị hoạt 
động và đặc điểm của nhân vật. Dạng sơ 
đồ này phù hợp với văn bản đọc ở dạng 
truyện hoặc văn bản miêu tả đặc điểm 
của đối tượng. GV có thể tạo hứng thú 
cho HS bằng cách cho HS tìm hình ảnh 
hoặc vẽ phác họa về nhân vật và viết 
cáctừ ngữ biểu thị hành động, tính cách 
của nhân vật theo hệ thống logic ngữ 
nghĩa của bài đọc. 
Vd: Có thể minh họa sơ đồ mạng từ 
ngữ cho truyện đọc Vì sao thờn bơn méo 
miệng như sau: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
49 
2.2. Một vài điểm cần lưu ý khi sử 
dụng sơ đồ trong dạy học đọc hiểu 
(1) Về chọn từ khóa 
a. Khi tìm từ khóa biểu thị chủ đề 
của bài đọc nên chú ý tựa đề vì phần 
nhiều các bài Tập đọc trong SGK TH đều 
có tựa đề đặt theo kiểu nêu khái quát nội 
dung của văn bản, như Bàn tay mẹ, Chim 
chích bông, Quà của bố, Phong cảnh đền 
Hùng, Làng mạc ngày mùa 
b. Khi tìm từ khóa của biểu thị các 
tiểu chủ đề, cần chú ý câu mở đoạn/bài, 
kết đoạn/bài; chú ý các động từ, tính từ 
biểu thị hoạt động, đặc điểm quá trình 
của sự vật, sự việc được nói tới (xem ví 
dụ minh họa cho các kiểu sơ đồ đã nêu). 
(2) Về cách thức và quy trình 
a. Việc sơ đồ hóa nội dung bài đọc 
cần được tiến hành cùng với tiến trình 
dạy đọc, không nên để đến bước củng cố 
mới thực hiện sơ đồ hóa và hướng dẫn 
HS cách thức sơ đồ hóa. 
b. Cần và nên để HS tham gia quá 
trình sơ đồ hóa tóm tắt nội dung bài đọc. 
c. GV và HS vẽ phác thảo (nếu vẽ 
được) hoặc chọn sẵn các hình ảnh minh 
họa cho các nhân vật trong bài đọc. 
d. Tùy theo nội dung và cách trình 
bày của bài đọc để lựa chọn kiểu sơ đồ 
phù hợp. Chẳng hạn truyện Người mẹ có 
thể tóm tắt và biểu diễn theo sơ đồ sự 
kiện nhưng không thể theo sơ đồ đường 
tròn. Với truyện Ngựa, thỏ và hổ hoặc 
Một trí khôn hơn trăm trí khôn, Hũ bạc 
người cha ta có thể sử dụng bản đồ câu 
chuyện để tóm tắt, nhưng không thể dùng 
kiểu sơ đồ đường thẳng như truyện 
Người mẹ. Mỗi một văn bản Tập đọc, tùy 
thuộc vào nội dung văn bản, sự kiện và 
diễn tiến của các sự kiện được miêu tả, 
GV có thể lựa chọn kiểu sơ đồ phù hợp. 
2.3. Đánh giá của giáo viên, học sinh, 
sinh viên về các loại sơ đồ 
Việc tìm hiểu ý kiến của GV, HS và 
SV (x.1.2.2) được chúng tôi tiến hành 
bằng cách đưa câu hỏi và hướng dẫn đề 
nghị họ đánh giá về các nội dung (“bạn 
đã sử dụng”, “chưa từng sử dụng”; tính 
dễ sử dụng và tính hấp dẫn được tính 
theo thang điểm 1–10; trong bảng hỏi 
không có phần giới thiệu các loại sơ đồ 
với mục đích để tìm hiểu xem bao nhiêu 
GV, SV biết hoặc có nghe về loại sơ đồ 
được đề cập). 
Bảng 4.Việc sử dụng sơ đồ của giáo viên và sinh viên 
 Đã sử dụng Chưa sử dụng Không có ý kiến 
Cành cây GV 63,2 0,8 36,0 SV 53,7 14,2 32,1 
Vòng tròn 
trung tâm 
GV 8,7 6,6 84,7 
SV 38,8 27,5 33,7 
Bản đồ 
tư duy 
GV 18,6 16,1 65,3 
SV 26,9 37,2 35,9 
Đường tròn GV 8,1 6,7 85,2 SV 9,7 48,1 42,2 
Mạng 
sự kiện 
GV 9,6 7,9 82,5 
SV 15,3 42,8 41,9 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
50 
Đường thẳng GV 43,5 3,2 53,3 
SV 30,2 29,1 40,7 
Bản đồ 
câu chuyện 
GV 10,5 7,2 82,3 
SV 52,8 25,1 22,1 
Mạng từ ngữ GV 20,3 8,2 71,5 SV 5,7 76,1 18,2 
Bảng 4 cho thấy phần lớn GV đã bỏ 
trống ô “sử dụng hay chưa”, nhất là với 
các kiểu sơ đồ vòng tròn trung tâm, bản 
đồ tư duy, đường tròn, bản đồ câu 
chuyện và mạng từ ngữ. Tìm hiểu về 
nguyên do của hiện tượng trên, chúng tôi 
nhận được các câu trả lời, như “vì dạy 
lớp 1”, “không rõ về sơ đồ được hỏi”, 
“mới lạ quá, chưa được biết”, v.v.. Con 
số này rất đáng lưu tâm khi thực tế những 
năm vừa qua, “bản đồ tư duy” là khái 
niệm thường xuyên được bàn tới trong 
đổi mới giảng dạy ở TH, và GV được tập 
huấn chuyên đề về sử dụng bản đồ tư duy 
trong dạy học. Số liệu trên tương thích 
với số liệu về điểm GV đánh giá cho tính 
dễ sử dụng, GV đã đánh giá tính tiện 
dụng của sơ đồ vừa nêu trên thấp hơn hẳn 
(x. Bảng & biểu đồ 5). SV thì khác, số 
SV chưa sử dụng nhiều so với GV, 
nhưng số SV không có ý kiến thì ít hơn 
hẳn. Thêm vào đó, phần cho điểm của SV 
cho mỗi loại sơ đồ đều có vẻ hợp lí hơn? 
Nghi vấn này không phải là không có cơ 
sở. Chẳng hạn số điểm GV cho sơ đồ 
đường thẳng: 8,6; sơ đồ đường tròn: 5,5 
điểm; hoặc sơ đồ vòng tròn trung tâm: 
5,1 và sơ đồ cành cây 8,7 điểm; trong khi 
2 nhóm sơ đồ vừa nêu đều có chung yêu 
cầu và cách thức thể hiện cũng như độ 
phổ của chúng (x. mục 2.1.). 
Bảng& biểu đồ 5. Ý kiến GV & SV về tính dễ sử dụng 
của các loại sơ đồ (tính theo thang điểm 10) 
Những số liệu vừa nêu cũng không mâu thuẫn với những số liệu về tính hiệu quả 
và tính hấp dẫn của từng kiểu sơ đồ được biểu thị qua bảng & biểu 6 dưới đây. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
51 
Bảng & biểu đồ 6. Ý kiến của GV, HS, SV 
 về tính hiệu quả và tính hấp dẫn (tính theo thang điểm 10) 
Kết quả thống kê cho thấy Bản đồ 
tư duy, Mạng sự kiện, Bản đồ câu chuyện 
là những kiểu sơ đồ được SV đánh giá 
cao về tính hiệu quả và tính hấp dẫn, 
nhưng GV thì ngược lại; hoặc đánh giá 
cho sơ đồ đường thẳng: GV: 8,1; SV: 6,5. 
Còn những sơ đồ quen thuộc như sơ đồ 
cành cây, sơ đồ đường tròn được đánh 
giá tương đương. Những số liệu ở bảng-
biểu 5 và số liệu ở bảng biểu 5 cho phép 
ta có thể nhận xét: SV được tiếp cận 
nhiều sơ đồ dùng cho việc củng cố bài 
đọc hơn so với GV. 
Ngoài ra, bảng biểu 6 còn cung cấp 
số liệu khá lí thú. Đó là GV cho điểm về 
tính hiệu quả và tính hấp dẫn của các loại 
sơ đồ không chênh lệch đáng kể so với 
HS nhưng chênh lệch khá nhiều so với 
điểm đánh giá của SV. Những số liệu 
trên cũng có thể giúp hình dung có không 
ít GV chưa hiểu đầy đủ về ý nghĩa và tính 
hiệu quả của mỗi loại sơ đồ và điều này 
ảnh hưởng trực tiếp tới HS. Mặt khác, 
những số liệu trên cũng thống nhất với 
kết quả thu được qua phần trả lời ngắn ở 
bảng hỏi cũng như qua trao đổi trực tiếp: 
nhiều GV chưa biết sử dụng các kiểu sơ 
đồ như Bản đồ tư duy, Mạng sự kiện, Bản 
đồ câu chuyện; trong khi nhiều SV đã 
được thực hành các kiểu sơ đồ trên. 
3. Một vài ý kiến rút ra qua thử 
nghiệm sơ đồ trong dạy học Tập đọc 
Trong học kì 2, năm học 2014 – 
2015, chúng tôi đã cùng một nhóm GV 
thử nghiệm các loại sơ đồ trên trong dạy 
Tập đọc cho HS khối 1, 2, và 5. Sau đây 
là ý kiến của GV qua thử nghiệm7: 
 Việc sử dụng sơ đồ trong dạy 
học đọc hiểu là cần thiết bởi tính hữu ích 
và tính khả thi của nó. 
 Nếu cho HS cùng tham gia vào 
quá trình tóm tắt bằng sơ đồ, HS sẽ hứng 
thú hơn. Tuy nhiên ban đầu khá tốn thời 
gian và công sức, do cả thầy và trò chưa 
quen, do thói quen của cách dạy “bám sát 
sách hướng dẫn – không sử dụng sơ đồ”. 
Nếu sử dụng sơ đồ tóm tắt, HS và 
cả GV đều được rèn luyện thao tác tìm từ 
khóa, và từ sơ đồ tóm tắt nêu nội dung 
bài và rút ra thông tin hàm ngôn. 
HS chỉ hứng thú với những sơ đồ 
có thêm hình ảnh minh họa ngộ nghĩnh, 
màu sắc tươi sáng. 
Sơ đồ Bản đồ câu chuyện được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
52 
chọn nhiều hơn so với sơ đồ cây sự kiện, 
sơ đồ vòng tròn trung tâm, và sơ đồ mạng 
từ ngữ. Nếu sử dụng sơ đồ mạng từ ngữ 
thì cần dùng kèm hình ảnh minh họa. 
 Khi dạy học Tập đọc cho HS lớp 
1, phần Luyện tập tổng hợp (sau phần 
Học vần), vẫn có thể sử dụng sơ đồ một 
cách hiệu quả. (Nhận định này phù hợp 
với nghiên cứu sử dụng sơ đồ, bảng biểu 
trong dạy trẻ mầm non của McDermott 
công bố năm 2012 [8] và thực tế dạy học 
ở một số trường quốc tế hiện nay tại 
TPHCM. Đó là bản đồ tư duy, sơ đồ 
Venn, bản đồ câu chuyện được sử dụng 
cho cả trẻ mầm non. 
4. Một vài bàn luận thêm về vấn đề 
sử dụng sơ đồ trong dạy học đọc hiểu 
4.1. Có thể nói với ưu thế của cách biểu 
thị bằng đường nét kết hợp từ ngữ, hình 
ảnh, màu sắc, sơ đồ dùng để khái quát 
hóa nội dung bài đọc gây hứng thú và 
góp phần nâng cao chất lượng đọc hiểu. 
4.2. Việc dùng sơ đồ không chỉ là các 
thao tác sơ đồ hóa thuần túy mà còn là sự 
tích hợp của các hoạt động rèn kĩ năng 
hiểu nghĩa từ ngữ trong văn bản đọc; kĩ 
năng nhận diện sự kiện, tình tiết; kĩ năng 
nắm các ý và sắp xếp thành dàn ý; kĩ 
năng xác định các ý chính và tóm tắt; kĩ 
năng xác định chủ đề; kĩ năng suy luận 
để nắm ý của đoạn, bài. 
4.3. Sơ đồ là một trong những phương 
tiện tiện ích, còn sơ đồ hóa là một trong 
những biện pháp hữu hiệu có thể giúp 
GV hướng dẫn HS nắm chắc nội dung 
bài đọc đồng thời rèn luyện các thao tác 
tư duy, rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho 
HS. Khi dạy Tập đọc, GV cần tìm hiểu 
để biết sử dụng các loại sơ đồ trước và 
sau khi đọc hiểu. [11] 
Ngoài ra, tuy chỉ bàn đến vấn đề sử 
dụng sơ đồ trong dạy đọc hiểu nhưng 
những ý kiến của GV giải thích cho việc 
“không sử dụng sơ đồ mặc dù thấy sơ đồ 
rất hữu ích” là “do tuân thủ sách GV”, 
“cán bộ kiểm tra đánh giá giờ dạy thường 
lấy sách GV làm cơ sở” khiến chúng ta 
có thể nghĩ tới việc vẫn rất cần giúp GV 
và các cấp quản lí thay đổi quan niệm 
“SGK là pháp lệnh”, “GV phải tuân thủ 
theo từng bước hướng dẫn của sách GV” 
để thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng. 
Không lệ thuộc SGK, làm chủ chương 
trình kế hoạch dạy học là những yêu cầu 
mà GV cần đạt đến để có thể đáp ứng sự 
đổi thay của giáo dục sau 2015. 
Lời cảm ơn: Tác giả bài viết trân trọng gửi lời cảm ơn tới ThS Nguyễn Thị Yên Hà, 
Điều phối viên Giáo dục của tổ chức Tầm nhìn Thế giới tại Việt Nam bởi những góp ý sắc 
sảo cùng việc tạo điều kiện cho tác giả hướng dẫn 40 giáo viên tiểu học huyện Hải Lăng, 
tỉnh Quảng Trị thử nghiệm các kiểu sơ đồ trong dạy đọc hiểu vào tháng 11-2014. Tác giả 
cũng xin được cảm ơn TS Vũ Thị Ân và ThS Nguyễn Lương Hải Như về những góp ý cùng 
những chia sẻ tài liệu để bài viết có chất lượng hơn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
53 
1 Những SV này đều đã qua 2 kì thực tập sư phạm (tổng cộng 22 tuần) tại trường TH. 
2 Số liệu trên cũng gợi suy đoán GV chưa đủ “dũng cảm” để nói sự thật về việc sử dụng sơ đồ của chính họ, 
cái cảm giác sợ bị đánh giá ít nhiều ảnh hưởng tới câu trả lời của họ; mặc dù người khảo sát đã cam đoan chỉ 
dùng trong nghiên cứu và giữ bí mật về người cung cấp thông tin. 
3 Biểu điểm chấm phần đọc trong bài kiểm tra định kì: đọc đúng 6 điểm; đọc hiểu 4 điểm; trong đọc hiểu 
gồm hiểu nội dung bài đọc 2 điểm, hiểu từ ngữ ngữ pháp có trong bài đọc: 2 điểm. 
4 Các sơ đồ trong bài viết này vừa là kết quả thu thập từ sáng kiến kinh nghiệm của GV vừa là kết quả tìm 
hiểu của tác giả và đã triển khai qua một vài đợt tập huấn chuyên đề “Dạy đọc hiểu cho HS TH” trong năm 
học 2014 – 2015. 
5 Để tiện cho việc trình bày, tên sách giáo khoa (SGK) và tập sách sẽ được viết tắt, vd: “TV2, t.1” sẽ dùng để 
chỉ SGK Tiếng Việt lớp 2, tập 1. 
6 Sơ đồ Venn còn gọi “sơ đồ tập hợp” là một loại sơ đồ dùng biểu thị các mối quan hệ logic có thể có giữa 
một số lượng hữu hạn các tập hợp. Sơ đồ Vennkhông chỉ được sử dụng để dạy lí thuyết tập hợp sơ cấp, cũng 
như minh họa mối quan hệ tập hợp đơn giản trong xác suất, logic học, thống kê, mà còn được sử dụng trong 
nghiên cứu, giảng dạy về ngôn ngữ học, sinh học. Sơ đồ Venn cổ điển với ba vòng tròn được John Venn, một 
nhà triết học và toán học người Anh, xác lập năm 1881 [10]. 
7 Số liệu ở tất cả các bảng biểu, như đã nêu ở 1.2.2., không lấy từ nhóm thử nghiệm các kiểu sơ đồ trong dạy 
học đọc hiểu và nhóm tập huấn ở Quảng Trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học tiếng Việt – 
nhìn từ tiểu học, Nxb Giáo dục Việt Nam. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 
1,2,3,4,5, Văn bản số 9832/BGD&ĐT-GDTH ngày 01/9/2006. 
3. Đỗ Thị Châu (2007), Sơ đồ hóa tài liệu dạy học như là một công cụ chủ yếu trong 
dạy học, Tạp chí Giáo dục, kì 1 số 153. 
4. Nguyễn Hồng Hưng (2013) Nguyên lí Design thị giác, Nxb Đại học Quốc gia 
TPHCM. 
5. Chang, P., (2015), Teaching and learning with graphic organizers, Download at 
english.tyhs.edu.tw/epaper/epaper15/teach_share.pdf. Truy cập ngày 20-5-2015. 
6. Docimo, K.. Plot diagrams and narrative arcs, download at 
www.storyboardthat.com/articles/education/plot-diagram. Truy cập ngày 20-5-2015. 
7. Birbili, M. (2006), “Mapping Knowledge: Concept Maps in Early Childhood 
Education”, Early Childhood Research & Practice (ECRP) 8 (2), 2006. 
8. McDermott, M. J. (2012), Using graphic organizers in preschool, Teaching young 
children 5(5), pp.29-31. 
9. Tony Buzan (2009), Bản đồ tư duy trong công việc, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 
10. Walbert, D. (2006), Higher order thinking with Venn diagrams. Conference of the 
North Caronila Association for Educational Communications and Technology, 
download at  Truy cập ngày 10-4-2015. 
11. Waxlerr, A. (2005), Three easy ways to increase reading comprehension, In How to 
improve reading, download at 
ways-increase-reading-comprehension/. Truy cập ngày 10-4-2015. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 29-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 15-5-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_so_do_trong_day_hoc_tap_doc_o_tieu_hoc.pdf