So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng)

Học sinh Khmer bậc Tiểu học ở hai khu vực Bình Phước (Đông Nam Bộ) và Trà Vinh, Sóc Trăng (Tây Nam Bộ) đều phải sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, năng lực, mức độ và phạm vi sử dụng ngôn ngữ quốc gia này của học sinh của hai khu vực còn nhiều hạn chế. Vậy, nguyên nhân từ đâu? Bài viết sẽ một phần trả lời

cho câu hỏi trên nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách ngôn ngữ, chính sách giáo dục và những người xây dựng chương trình sách giáo khoa có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn.

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 1

Trang 1

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 2

Trang 2

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 3

Trang 3

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 4

Trang 4

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 5

Trang 5

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 6

Trang 6

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 7

Trang 7

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 8

Trang 8

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 9

Trang 9

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Trúc Khang 09/01/2024 6140
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng)

So sánh năng lực tiếng việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ (trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng)
39 
CHUYÊN MỤC 
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA NGHỆ THUẬT 
SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT CỦA 
HỌC SINH KHMER LỚP 3, 4 VÀ 5 
GIỮA ĐÔNG VÀ TÂY NAM BỘ 
(Trường hợp Bình Phước và Trà Vinh, Sóc Trăng) 
 HỒ XUÂN MAI* 
Học sinh Khmer bậc Tiểu học ở hai khu vực Bình Phước (Đông Nam Bộ) và Trà 
Vinh, Sóc Trăng (Tây Nam Bộ) đều phải sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, năng lực, 
mức độ và phạm vi sử dụng ngôn ngữ quốc gia này của học sinh của hai khu 
vực còn nhiều hạn chế. Vậy, nguyên nhân từ đâu? Bài viết sẽ một phần trả lời 
cho câu hỏi trên nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách ngôn ngữ, chính 
sách giáo dục và những người xây dựng chương trình sách giáo khoa có cái 
nhìn đầy đủ, toàn diện hơn. 
Từ khóa: năng lực, học sinh Khmer, sử dụng, hạn chế 
Nhận bài ngày: 16/5/2019; đưa vào biên tập: 17/5/2019; phản biện: 18/5/2019; 
duyệt đăng: 10/7/2019 
1. DẪN NHẬP 
Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, ngôn 
ngữ giáo dục. Tất cả học sinh đều 
phải học và sử dụng nó để tiếp cận 
các tri thức. Nếu không làm chủ được 
tiếng Việt, học sinh sẽ rất khó để học 
lên những bậc cao hơn, để giao tiếp 
và để phát triển xã hội. Học sinh 
Khmer bậc Tiểu học ở hai khu vực 
Bình Phước (Đông Nam Bộ) và Trà 
Vinh, Sóc Trăng (Tây Nam Bộ) cũng vậy. 
Cuối tháng 4 năm 2019 chúng tôi có 
một đợt khảo sát năng lực tiếng Việt 
của học sinh người Stiêng và Khmer 
ở Bình Phước để phục vụ cho đề tài 
cấp Bộ “Năng lực tiếng Việt của học 
sinh các dân tộc Stiêng và Khmer ở 
Bình Phước: thực trạng và giải pháp”. 
Bài viết này là một phần kết quả của 
đợt khảo sát. 
Bước vào lớp 1, học sinh phải học và 
sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, do 
nhiều nguyên nhân, có những học 
sinh sử dụng tiếng Việt chưa thực sự 
* 
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
 HỒ XUÂN MAI – SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT 
40 
tốt, ngay trong phạm vi trường học. 
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho 
thấy hơn một nửa số học sinh Khmer 
ở bậc học này dưới trung bình môn 
Tiếng Việt. 
Phạm vi không gian và thời gian thực 
hiện khảo sát của bài viết này là 
Trường Tiểu học Lộc Khánh, huyện 
Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước (học k 2 
năm học 2018 - 2019); Trường Tiểu 
học Long Sơn C, huyện Cầu Ngang, 
tỉnh Trà Vinh và Trường Tiểu học Thới 
An Hội 3, xã Thới An Hội, huyện Kế 
Sách, tỉnh Sóc Trăng (học k 2 năm 
học 2016 - 2017). Chúng tôi lấy kết 
quả khảo sát ở Trường Tiểu học Lộc 
Khánh làm chuẩn còn hai trường kia 
là để tham chiếu. 
Đối tượng khảo sát của chúng tôi là 
học sinh Khmer, bậc Tiểu học, mỗi 
khối 10 học sinh, không phân biệt giới 
tính. Như vậy, tổng cộng số học sinh 
khảo sát là: 10 học sinh x 3 khối x 3 
trường = 90 học sinh. Chúng tôi 
không thể khảo sát nhiều hơn 10 học 
sinh bởi có những nơi số học sinh 
giữa các khối không đủ. Trong bài viết 
này, với lớp 3, chúng tôi khảo sát hai 
kỹ năng viết câu và xác định thành 
phần câu. Với hai khối còn lại, chúng 
tôi khảo sát hai kỹ năng viết câu và 
sáng tạo câu, cụ thể là viết câu đúng 
(đủ các thành phần chính, diễn đạt 
trọn ý) và mức độ sử dụng các loại 
câu (số lượng câu, mức độ đúng - sai) 
(theo Thông tư 22). Ngoài ra, chúng 
tôi khảo sát số từ mới mà học sinh 
tích lũy từ lớp 3 đến lớp 5. Khảo sát 
từ mới là để góp phần lý giải vì sao 
học sinh Khmer bậc Tiểu học sử dụng 
tiếng Việt kém. 
Về khái niệm “từ mới”, chúng tôi căn 
cứ vào mục “Mở rộng vốn từ” của 
sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và 
Đào tạo để xác định(1). Như vậy, phạm 
vi nội dung khảo sát của bài viết này 
là: 
- Lớp 3: kỹ năng viết câu và xác định 
thành phần câu. 
- Lớp 4 và 5: kỹ năng viết câu và sáng 
tạo câu. 
2. KHÁI NIỆM “NĂNG LỰC”, “NĂNG 
LỰC NGÔN NGỮ” VÀ “KỸ NĂNG 
NGÔN NGỮ” 
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng 
Việt (2003), thì “năng lực (ability) là 
khả năng làm việc tốt”, chẳng hạn như 
“năng lực cán bộ, năng lực làm 
việc” Nó thuộc cái bên trong của 
mỗi người, tức khả năng vốn có. 
Còn năng lực ngôn ngữ (competenence) 
là “ trong ngôn ngữ có một cơ chế 
sáng tạo, không phụ thuộc vào hoàn 
cảnh giao tiếp. Đó là năng lực ngôn 
ngữ của người nói (), được hình 
thành từ rất sớm, ngay từ khi còn rất 
nhỏ” (Nguyễn Đức Dân, 1986: 227). 
Nói cách khác, đó là khả năng sử 
dụng ngôn ngữ khi không phụ thuộc 
vào hoàn cảnh, điều kiện giao tiếp. 
Chẳng hạn, khi sử dụng tiếng mẹ đẻ, 
chúng ta không chú ý tới các quy tắc 
ngữ pháp bởi nó đã được hình thành 
từ khi mới học nói và tồn tại dưới 
dạng tiềm thức. Chúng ta sử dụng nó 
để nói. Đó là năng lực ngôn ngữ phổ 
quát, mọi người đều có. Nó khác với 
sự thực hiện ngôn ngữ (performence). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
41 
Bởi, sự thực hiện ngôn ngữ là cách 
thức một người thể hiện cái vốn có; là 
cái thực tế, cụ thể hóa năng lực ngôn 
ngữ; là cái biểu hiện cụ thể của năng 
lực ngôn ngữ. Nó thuộc kỹ năng ngôn 
ngữ (skill). Khi sử dụng ngôn ngữ ở 
dạng chủ động, tức tìm cách diễn đạt 
sao cho hiệu quả nhất, bắt buộc 
chúng ta phải cần tới các kỹ năng như 
thay đổi cấu trúc, ... áo khoa, tức chủ 
ngữ) và những câu sai cũng rất giống 
nhau (1, 2, 3, 4, 6, 7, 8). 
3.2. Học sinh lớp 4 và lớp 5 
Môn Tiếng Việt của hai khối này có ba 
yêu cầu chính là tập đọc, luyện từ và 
câu (gồm mở rộng vốn từ, dấu câu, 
viết câu đơn giản/xác định các bộ 
phận câu (lớp 4); liên kết câu, các loại 
câu (lớp 5)) và Tập làm văn. Để kết 
quả khảo sát đi vào chiều sâu, với hai 
khối này, chúng tôi chỉ chọn khảo sát 
hai yêu cầu kỹ năng viết câu (đúng-sai) 
và khả năng sáng tạo câu. Khảo sát 
hai kỹ năng trên sẽ trả lời được các 
 HỒ XUÂN MAI – SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT 
44 
câu hỏi về kỹ năng đọc hiểu, vốn từ và 
khả năng viết, sử dụng các loại câu 
(câu đơn, câu đơn mở rộng, câu ghép, 
câu ghép nhiều mệnh đề). 
3.2.1. Kỹ năng viết câu 
Lớp 4: 
Để khảo sát kỹ năng này, mỗi khối 
chúng tôi cho một đề Tập làm văn 
(không có trong sách giáo khoa nhưng 
đúng chủ đề của chương trình), yêu 
cầu thực hiện trong 30 phút nhằm 
xem những loại câu nào học sinh 
thường sử dụng, số câu đúng/có 
nghĩa - sai/không có nghĩa. Cụ thể, 
lớp 4 là “Em hãy tả chú chim bồ câu” 
(thuộc văn miêu tả loài vật, trọng tâm 
của học k 2) và lớp 5 là “Em hãy 
miêu tả một dòng sông” (thuộc văn 
miêu tả cảnh, trọng tâm của học k 2). 
Chúng tôi cũng chỉ khảo sát những 
câu có nghĩa. Kết quả như Bảng 4 
dưới đây. 
Nhận xét: 
- Hầu hết học sinh đều sử dụng câu 
đơn, cho dù ở khối này đã được học 
câu ghép (từ tuần 24). Kết quả này 
phù hợp với đặc điểm, với khả năng 
diễn đạt của học sinh và với yêu cầu 
của chương trình (chỉ giới thiệu câu 
ghép). Học sinh lớp 4 đã được học 
thành phần trạng ngữ từ lớp 3 nhưng 
số câu có trạng ngữ thu được chỉ 
khoảng 1/6 số câu đúng. Điều này phù 
hợp với học sinh lớp 4 bởi trạng ngữ 
sẽ được học kỹ hơn ở lớp 5. 
- Số câu đúng, câu đơn, câu ghép và 
câu có trạng ngữ viết trong 30 phút 
của học sinh Khmer ở ba địa phương 
không quá khác biệt. So với lớp 3, kết 
quả này là đáng mừng, vì: (1) Tất cả 
học sinh lớp 4 đều đã diễn đạt tốt suy 
nghĩ của mình (số câu có trạng ngữ 
tăng và học sinh đã sử dụng được 
câu ghép); (2) Số câu đúng tăng hơn 
gấp 6 lần so với lớp 3 chứng tỏ chỉ 
cách nhau một năm học, học sinh đã 
tích lũy rất tốt các kỹ năng ngôn ngữ. 
Tuy nhiên, trong 30 phút mà chỉ có tối 
Bảng 4. Khảo sát kỹ năng viết câu của học sinh lớp 4 
Địa phương 
Tổng số câu 
đúng/10 bài 
Tốc độ trung bình 
(làm tròn) 
Loại câu (/câu đúng) Số câu có 
trạng ngữ Câu đơn Câu ghép 
Lộc Ninh 30 1p/ 1 câu 24/30 6/30 4/30 
Trà Vinh 30 1p/ 1 câu 26/30 4/30 4/30 
Sóc Trăng 28 1,1p/ 1 câu 22/28 6/28 6/28 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
. 
Bảng 5. Khảo sát kỹ năng viết câu của học sinh lớp 5 
Địa phương 
Tổng số câu 
đúng/10 bài 
Tốc độ trung bình 
(làm tròn) 
Loại câu (/câu đúng) Số câu có 
trạng ngữ Câu đơn Câu ghép 
Lộc Ninh 40 7,5p/ 1 bài 32/40 8/40 12/40 
Trà Vinh 38 7,8p/ 1 bài 32/38 6/38 10/38 
Sóc Trăng 38 7,8p/ 1 bài 30/38 8/38 10/38 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
45 
đa 30 câu (cao nhất) đúng, trung bình 
2,7 câu/1 bài thì vẫn chưa đạt như 
mong muốn và học sinh vẫn phải rèn 
luyện nhiều hơn. Như vậy, tốc độ viết 
của học sinh giữa ba địa phương 
không quá khác biệt (Bảng 5). 
Lớp 5 
- Ở lớp 5, số câu ghép đã tăng. Có ba 
nguyên nhân chính: (1) Các học sinh 
đã tích lũy tốt các kỹ năng, năng lực 
tiếng Việt; (2) Là lớp cuối cấp, chuẩn 
bị để thi vào bậc Trung học Cơ sở nên 
được học sinh đầu tư nhiều và kỹ hơn; 
(3) Lớp 5 chủ yếu học loại câu ghép. 
Tuy nhiên, như vậy là đáng lo: khi học 
loại câu nào thì học sinh chỉ chủ yếu 
sử dụng loại câu đó thì đặc điểm học 
lệch, học tủ càng đáng lưu ý hơn. 
Nhận xét: 
- So với lớp 4, số lượng câu đúng của 
lớp 5 tăng 1/3; số câu ghép tăng hơn 
3 lần còn số câu có trạng ngữ tăng gấp 
2 lần. 
- Tương tự như lớp 4, năng lực, kỹ 
năng tiếng Việt của học sinh Khmer 
lớp 5 ở cả ba địa phương đều không 
cách biệt nhau. 
3.2.2. Kỹ năng sáng tạo câu 
Với học sinh lớp 4: 
Bước 1: Chọn 5 câu trong sách giáo 
khoa và yêu cầu bỏ trạng ngữ để tạo 
câu mới. Học sinh thực hiện trong 10 
phút: (1) “Được phát động từ tháng 4 
năm 2001 nhằm nâng cao ý thức 
phòng tránh tai nạn cho trẻ em, cuộc 
thi đã nhận được sự hưởng ứng của 
đông đảo thiếu nhi cả nước” (bài “Vẽ 
về cuộc sống an toàn”); (2) “Nhưng bù 
lại, nó có cái lưỡi để bắt mồi rất lợi 
hại” (bài “Luyện tập xây dựng đoạn 
văn miêu tả con vật”); (3) “Ngày hôm 
đó, vương quốc nọ như có phép mầu 
làm thay đổi” (bài “Vương quốc vắng 
nụ cười”); (4) “Theo một thống kê 
khoa học, mỗi ngày, trung bình người 
lớn cười 6 phút, mỗi lần cười kéo dài 
độ 6 giây” (bài “Tiếng cười là liều 
thuốc bổ”) và (5) “Xưa kia, người ta cứ 
nghĩ rằng trái đất là trung tâm của vũ 
trụ, còn mặt trời, mặt trăng và muôn 
ngàn vì sao quay xung quanh cái tâm 
này” (bài “Dù sao trái đất vẫn quay”). 
Tất cả những câu này đều được trích 
trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 
2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 
2017. 
Kết quả như sau (Bảng 6). 
Bảng 6. Kết quả khảo sát kỹ năng sáng 
tạo câu của học sinh lớp 4 
Địa phương 
Bỏ đúng 
trạng ngữ 
Ghi chú 
Lộc Ninh 4 (/10HS) Chỉ tính những 
học sinh đúng từ 
3 câu trở lên 
Trà Vinh 4 
Sóc Trăng 2 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
Bước 2: Yêu cầu học sinh thay chủ 
ngữ, vị ngữ và trạng ngữ trong những 
câu trên bằng những chủ ngữ, vị ngữ 
và trạng ngữ tương ứng. Kết quả như 
sau (Bảng 7). 
Nhận xét: 
- Hầu hết học sinh không hiểu hoặc 
hiểu rất kém về câu. 
- Khả năng tái hiện câu của học sinh 
đều rất thấp. 
 HỒ XUÂN MAI – SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT 
46 
Với học sinh lớp 5: 
Bước 1: Chọn 5 câu ghép trong sách 
giáo khoa và yêu cầu học sinh tách 
thành những câu độc lập. Học sinh 
thực hiện trong 10 phút: (1) “Dưới 
những nhát búa hăm hở của anh, con 
cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy 
lên đành đạch” (bài “Cách nối các vế 
câu ghép”); (2) “Vì con khỉ này rất tinh 
nghịch nên các anh thường phải cột 
dây” (bài “Nối các vế câu ghép bằng 
quan hệ từ”); (3) “Tuy bốn mùa là vậy 
nhưng mỗi mùa Hạ Long lại có những 
nét riêng biệt, hấp dẫn lòng người” 
(bài “Nối các vế câu ghép bằng quan 
hệ từ”); (4) “Ngày nay, trên đất nước 
ta, tuy công an làm nhiệm vụ giữ gìn 
trật tự an ninh nhưng mỗi một người 
dân đều có trách nhiệm bảo vệ công 
cuộc xây dựng hòa bình” (bài “Nối các 
vế câu ghép bằng quan hệ từ”) và (5) 
“Theo báo cáo của Phòng Cảnh sát 
giao thông thành phố, trung bình mỗi 
đêm có 1 vụ tai nạn và 4 vụ va chạm 
giao thông” (bài “Mở rộng vốn từ: Trật 
tự - an ninh”). Tất cả những câu này 
đều được trích trong sách giáo khoa 
Tiếng Việt 5, tập 2, Nhà xuất bản Giáo 
dục Việt Nam, 2011. 
Kết quả như sau (Bảng 8). 
Bảng 8. Kết quả khảo sát kỹ năng sáng 
tạo câu của học sinh lớp 5 
Địa phương Đúng Ghi chú 
Lộc Ninh 2 (/10HS) Chỉ tính những 
học sinh đúng từ 
2 câu trở lên 
Trà Vinh 4 
Sóc Trăng 2 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
Bước 2: Cho 5 câu đơn ngoài sách 
giáo khoa, yêu cầu học sinh thêm 
quan hệ từ để tạo thành câu ghép: (1) 
Nó chẳng bao giờ siêng. Nó phải nhận 
kết quả đáng xấu hổ thôi; (2) Mưa như 
trút nước. Tuấn vẫn đi học rất đúng 
giờ; (3) Ông tôi thường xuyên luyện 
tập. Ông tôi tuy tuổi cao nhưng rất 
khỏe; (4) Đường xa lại khó đi. Chúng 
tôi vẫn tới đúng giờ nên được mọi 
người hoan nghênh; (5) Cả xóm đều 
nghèo. Bọn tôi vẫn không bỏ học cho 
nên tất cả thầy cô giáo đều thương 
còn bạn bè thì quý mến. 
Kết quả như sau (Bảng 9). 
Bảng 9. Kết quả khảo sát kỹ năng tạo 
câu ghép của học sinh lớp 5 
Địa phương 
Đúng yêu 
cầu 
Ghi chú 
Lộc Ninh 4 (/10HS) Chỉ tính những 
học sinh đúng từ 
2 câu trở lên 
Trà Vinh 4 
Sóc Trăng 2 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
Bảng 7. Kết quả khảo sát kỹ năng sáng tạo câu của học sinh lớp 4 
Địa phương 
Kết quả (/10 học sinh) 
Ghi chú 
Thay chủ ngữ đúng Thay vị ngữ đúng Thay trạng ngữ đúng 
Lộc Ninh 4 4 2 
Chỉ tính những 
học sinh đúng từ 
3 câu trở lên 
Trà Vinh 2 2 1 
Sóc Trăng 4 6 2 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
. 
. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
47 
Nhận xét: 
- Tất cả đều đúng ở câu 1, 2 và sai ba 
câu còn lại. Sở dĩ như vậy là vì những 
câu này có quan hệ từ nên học sinh 
không xác định được. 
- Qua hai kết quả trên, chúng ta thấy 
đáng lo, bởi: 
. Những câu trong Bước 1 có trong 
sách giáo khoa, thuộc những tiết 
chính khóa, học sinh đã được học 
nhưng có 22/30 học sinh làm sai còn 
ở Bước 2 là 20/30 học sinh sai. Chỉ có 
một cách giải thích duy nhất là học 
sinh không hiểu (có thể vì chương 
trình khó so với trình độ; nhiều bài, 
môn học nên học sinh không đủ thời 
gian luyện tập...). 
. Hơn hai phần ba học sinh làm sai, 
cho dù đây là chương trình trọng tâm 
của học k 2. 
3.3. Mấy ghi nhận và suy nghĩ về 
thực trạng tích lũy từ mới 
Kết quả khảo sát cho thấy số từ học 
sinh từ lớp 3 đến lớp 5 tích lũy được 
ở học k 2(2) như Bảng 10 (số trung 
bình đã được làm tròn). 
Nếu học k 1 cũng bấy nhiêu từ mới 
thì mỗi năm học sinh bậc học này sẽ 
tích lũy được bao nhiêu? Vì chương 
trình không bắt buộc học sinh phải 
nhớ tất cả, cho nên, thực tế, học sinh 
chỉ nhớ một số từ. Nếu so với Tân 
Hán ngữ giáo trình (Đại học Bắc Kinh, 
2001), New Concept English (L.G. 
Alexander, 1994) hay một số giáo 
trình dạy ngoại ngữ khác, chúng ta 
thấy nguyên nhân vì sao hết bậc Tiểu 
học, học sinh chúng ta vẫn rất khó 
khăn trong diễn đạt. Đó là: 
Việc phân bố từ mới của sách giáo 
khoa chưa thật sự hợp lý, thiếu logic. 
Bởi lẽ, càng lên lớp trên thì số từ mới 
phải càng nhiều, đáp ứng nhu cầu 
giao tiếp và tâm lý - độ tuổi, nhưng 
như đã thấy, hai lớp cuối lại là những 
lớp có số từ mới ít nhất, đặc biệt là 
lớp 4. 
Một điểm rất đáng chú ý khác là trong 
tổng số 49 từ mới, không có từ nào từ 
thuộc lớp từ nông thôn - làng quê 
(0%); không có từ nào thuộc phương 
ngữ Nam Bộ (0%), 1 từ thuộc trung du - 
miền núi (2%, làm tròn), 8 từ thuộc 
ngôn ngữ vùng văn hóa Bắc Bộ 
(16,3%). Cấu trúc như vậy là chưa 
cân đối và sẽ dẫn tới tình trạng mai 
một đặc trưng tiếng nói vùng/miền 
(xem thêm Hồ Xuân Mai, 2015: 295-
302). 
Cơ cấu lớp từ mới cũng bất hợp lý, vì 
trong 49 từ chỉ có 1 từ chỉ gia đình 
Bảng 10. Kết quả khảo sát từ mới trong sách giáo khoa từ lớp 3 đến lớp 5 
Lớp Tổng số từ tích lũy ở học k 2 Trung bình/tuần 
Loại từ 
Từ đơn tiết Từ đa tiết 
3 29 1,8 từ/1tuần 2 24 
4 8 0,5 từ/1 tuần 0 8 
5 12 0,7 từ/1 tuần 3 9 
Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. 
. 
 HỒ XUÂN MAI – SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT 
48 
(2%); 25 từ chỉ các vấn đề xã hội 
(51%) và 3 từ chỉ thiên nhiên (6,1%). 
Như vậy, từ chỉ nông thôn - làng quê, 
gia đình và thành phố rất ít. 
Về mục tiêu, cơ cấu và phân bố như 
trên là không phù hợp, bởi các Thông 
tư 30, 22 và mục tiêu của bậc học là 
xây dựng tình cảm, yêu thương gia 
đình, cha mẹ, ông bà. 
Về kiến thức, thực tế trên sẽ không 
đáp ứng được yêu cầu của bậc học 
và nhu cầu giao tiếp. Yêu cầu là khi 
học sinh học hết bậc học này phải sử 
dụng tiếng Việt tốt, có khả năng diễn 
đạt được ý nghĩ của mình hoặc/và sử 
dụng từ ngữ để diễn đạt nội dung 
nghe người khác nói. Còn về nhu cầu, 
chúng ta thấy với số lượng từ như vậy, 
chắc chắn học sinh sẽ gặp không ít 
khó khăn khi học lên những lớp cao 
hơn. 
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
Tuy chưa đầy đủ, bao quát nhưng 
những kết quả trên cho thấy năng lực 
tiếng Việt của học sinh người Khmer 
ở bậc Tiểu học nói riêng, cụ thể là ở 
Lộc Ninh, Bình Phước (và cả ở Trà 
Vinh và Sóc Trăng) chưa đạt yêu cầu, 
mục tiêu đặt ra. Năng lực tiếng Việt 
của học sinh người Khmer ở hai khu 
vực còn hạn chế (từ lớp 3 đến lớp 5). 
Có nhiều nguyên nhân nhưng một 
trong những nguyên nhân quan trọng 
nhất thuộc chương trình sách giáo 
khoa. Số lượng từ mới từ sách giáo 
khoa quá hạn chế đã phần nào khiến 
cho học sinh thiếu hẳn vốn từ vựng để 
diễn đạt. Nên tăng cường số lượng từ 
mới cho tất cả các khối; bố trí, cấu 
trúc cân đối và hợp lý hơn. Sau mỗi 
học k , thậm chí là sau mỗi bài học, 
cần có bảng từ mới như cách làm của 
Tân Hán ngữ giáo trình, New Concept 
English hay một số giáo trình ngoại 
ngữ khác và bắt buộc học sinh phải 
thuộc, nắm chắc trước khi chuyển 
sang bài mới. Nên có chế độ bắt buộc 
mỗi học sinh phải tích lũy số lượng từ 
cần thiết và có hiểu biết căn bản một 
số loại câu mới được xét lên lớp. Kèm 
theo đó là cần thay đổi phương pháp 
giảng dạy, giúp học sinh chủ động và 
linh hoạt hơn trong diễn đạt. Có như 
vậy mới tránh được cách diễn đạt đơn 
điệu bằng chủ yếu câu đơn một nòng 
cốt như đã nêu ở trên. 
Nhìn trên bình diện quốc gia, ngoài 
lớp từ toàn dân, cần phân bố số từ 
vựng sao cho thật hợp lý, đảm bảo từ 
của mỗi vùng/miền đều có trong 
chương trình theo một tỷ lệ như nhau, 
có chú giải, so sánh để học sinh (và 
có thể là giáo viên) hiểu và sử dụng. 
Theo chúng tôi, nên bỏ một số bài/nội 
dung chưa thật sự phù hợp với từng 
khối và tăng thời lượng cho phần 
luyện tập để học sinh nắm kỹ bài học, 
môn học. 
Chúng tôi cho rằng đây mới là giải 
pháp thiết thực để nâng cao năng lực 
tiếng Việt cho học sinh bậc học này. 
 CHÚ THÍCH 
(1) 
Mục đích của bài viết là đề xuất giải pháp nâng cao năng lực tiếng Việt, cho nên, chúng tôi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
49 
chỉ trình bày kết quả khảo sát và nguyên nhân của thực trạng đó, mà không đề cập các chi 
tiết về khảo sát như câu hỏi, bảng hỏi 
(2) 
Học k 2 có 17 tuần, từ tuần 19 đến tuần 35. Riêng tuần 35 là để ôn thi học k nên thực tế 
học sinh chỉ học 16 tuần. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Alexander, L.G. 1994. New Concept English, Trần Văn Thành và Lê Thanh Yến dịch 
và chú giải. TPHCM: Nxb. TPHCM. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2007, 2016. bộ sách giáo khoa Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5, 
tập 1 và tập 2. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2014. Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT về Khung năng lực 
ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam. 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2014. Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT, ngày 28/8/2014. 
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2016. Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT về Quy định đánh giá 
học sinh tiểu học. 
6. Đại học Bắc Kinh. 2001. Tân Hán ngữ giáo trình (3 tập), Trương Văn Giới và Lê Khắc 
Kiều Lục biên dịch. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia. 
7. Hồ Xuân Mai. 2015. Tiếng Việt và sự phát triển văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia-Sự thật. 
8. Hội đồng Châu Âu (Council of Europe). Common European Framework of Reference 
(CEFR - Khung tham chiếu chung năng lực học ngoại ngữ Châu Âu) 
9. Hội đồng Giáo dục Mỹ. 2014. The American Council on the Teaching of Foreign 
Languages (ACTFLE - Quy tắc giảng dạy ngoại ngữ Hoa K ). 
10. Nguyễn Đức Dân. 1986. “Năng lực ngôn ngữ và sự thực hiện ngôn ngữ”, trong 
Ngôn ngữ học: Khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
11. Nguyễn Như Ý (chủ biên). 2003. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_nang_luc_tieng_viet_cua_hoc_sinh_khmer_lop_3_4_va_5.pdf