So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp

So sánh một số tác dụng không mong

muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng

cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô

cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt

huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ

lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ

cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối,

thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực

hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ

sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh

nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg,

>160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều

5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng

10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai

nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các

thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch,

huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong

muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48

giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống -

ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là

6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn

thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê

tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp là 23,3% và

13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy

sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô

hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm.

Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ

sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt).

Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con.

Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng

cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với

phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác

dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không

có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến

chứng nguy hiểm trên mẹ và con.

So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp trang 1

Trang 1

So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp trang 2

Trang 2

So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp trang 3

Trang 3

So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp trang 4

Trang 4

So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 13660
Bạn đang xem tài liệu "So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp

So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - Ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để mổ lấy thai trên sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp
vietnam medical journal n01&2 - FEBRUARY - 2021 
164 
disease. J Crohns Colitis, 2013. 7(12): p. 982-1018. 
7. Gajendran, M., et al., A comprehensive review 
and update on Crohn's disease. Dis Mon, 2018. 
64(2): p. 20-57. 
8. Gajendran, M., et al., A comprehensive review 
and update on ulcerative colitis(). Dis Mon, 2019. 
65(12): p. 100851. 
9. Feakins, R.M. and G. British Society of, 
Inflammatory bowel disease biopsies: updated 
British Society of Gastroenterology reporting 
guidelines. J Clin Pathol, 2013. 66(12): p. 1005-26. 
10. M'Koma, A.E., Inflammatory bowel disease: an 
expanding global health problem. Clin Med 
Insights Gastroenterol, 2013. 6: p. 33-47. 
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA 
 PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP 
VỚI GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐƠN THUẦN ĐỂ MỔ LẤY THAI 
TRÊN SẢN PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TỤT HUYẾT ÁP 
Nguyễn Đức Lam*, Nguyễn Thị Thu Ba** 
TÓM TẮT41 
Mục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong 
muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng 
cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô 
cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt 
huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ 
lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ 
cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối, 
thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực 
hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ 
sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh 
nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg, 
>160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều 
5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng 
10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai 
nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các 
thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch, 
huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong 
muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48 
giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống - 
ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là 
6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn 
thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê 
tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp là 23,3% và 
13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy 
sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô 
hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. 
Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ 
sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt). 
Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. 
Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng 
cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với 
phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác 
dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không 
*Trường ĐHY Hà Nội 
**Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Đức Lam 
Email: lamgmhs75@gmail.com 
Ngày nhận bài: 14.12.2020 
Ngày phản biện khoa học: 25.01.2021 
Ngày duyệt bài: 11.2.2021 
có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến 
chứng nguy hiểm trên mẹ và con. 
Từ khóa: Mổ lấy thai, gây tê tuỷ sống, gây tê tuỷ 
sống - ngoài màng cứng phối hợp, tác dụng không 
mong muốn. 
SUMMARY 
THE COMPARISON OF THE SIDE EFFECTS 
OF COMBINED SPINAL EPIDURAL 
ANESTHESIA VERSUS SPINAL ANESTHESIA 
FOR CESAREAN SECTION IN PREGNANT 
WOMEN WITH HIGH RISK OF 
HYPOTENSION 
Objective: To compare the side effects of 
combined spinal epidural anesthesia versus spinal 
anesthesia for cesarean section in pregnant women 
with high risk of hypotension. Methods: 60 pregnant 
women with high risk of hypotension (polyhydramnios, 
macrosomia or twins) underwent elective cesarean 
delivery were enrolled into this prospective, 
randomized, double-blind study. Patients were 
randomly divided into spinal anesthesia group (Group 
I) or combined spinal – epidural anaesthesia – CSE 
group (Group II). Group I received bupivacaine either 
7 mg, 8 mg or 8,5 mg bupivacaine depending on the 
heigh of patients (160cm) 
with fentanyl 30mcg ; Group II received bupivacaine 5 
mg with fentanyl 30mcg followed by epidural 1% 
lidocaine 10 mL with adrenaline 1:200 000. The side 
effects were recorded during the surgery and 48 hours 
after surgery. Results: The rate of vomiting and 
nausea was 6.67% in CSE group and was 23.3% in 
the spinal anesthesia group (p <0.05). The rates of 
pruritus and chills in the group of combined spinal-
epidural anesthesia group were 23.3% and 13.3% 
compared with 26.6% and 26.6% in spinal anesthesia 
group. No patient suffered from respiratory distress, 
deep sedation, headache, and urinary retention in 
both groups. The infants' 1st and 5th minute Apgar 
scores in both groups were > 8, no significant 
difference). No dangerous complication of mothers 
and newborns was recognized. Conclusions: The 
rate of vomiting and nausea in CSE group was lower 
than in spinal anesthesia group, p < 0.05. Other side 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 499 - THÁNG 2 - SỐ 1&2 - 2021 
165 
effects on mothers and newborns did n ... uyết áp nặng có thể gây 
trụy mạch, ngừng tuần hoàn, mất ý thức, viêm 
phổi hít ở người mẹ và có thể gây thiếu oxy, 
toan hoá, tổn thương thần kinh ở thai nhi[1]. 
Một trong các cơ chế gây tụt huyết áp nặng ở 
sản phụ sau gây tê tủy sống là do “Hội chứng 
chèn ép chủ”. Theo Corke BC, các sản phụ có 
nguy cơ cao tụt huyết áp sau gây tê tủy sống để 
mổ lấy thai là: các sản phụ đa thai, đa ối, thai 
to do tình trạng chèn ép tĩnh mạch chủ nặng 
nề hơn [2]. Vì vậy, các phương pháp nhằm hạn 
chế tụt huyết áp ở các đối tượng sản phụ này là 
đặc biệt cần thiết để đảm bảo an toàn cho cả mẹ 
và con. Tê tuỷ sống với liều thấp thuốc tê là một 
phương pháp hiệu quả để giảm những biến động 
huyết động do tê tuỷ sống gây ra cho mổ lấy 
thai [3. Để đạt được độ tê mong muốn tê tủy 
sống liều thấp cần phối hợp với tê ngoài màng 
cứng phối hợp bởi có thể tiêm thêm thuốc tê 
qua ngoài màng cứng khi mức tê chưa đủ mà 
không làm tăng tác dụng phụ của hai phương 
pháp này [4]. Đã có nhiều nghiên cứu về gây tê 
tủy sống và ngoài màng cứng phối hợp để giảm 
liều thuốc tê khi gây tê tủy sống nhưng chưa có 
nghiên cứu đánh giá các tác dụng không mong 
muốn của phương pháp này trên các sản phụ có 
nguy cơ cao tụt huyết áp khi gây tê tủy sống. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm 
mục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong 
muốn của phương pháp gây tê tủy sống -ngoài 
màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn 
thuần để vô cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có 
nguy cơ cao tụt huyết áp. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu được 
tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ lấy 
thai chủ động tại Khoa Gây mê hồi sức, Bệnh 
viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 1/2020 đến tháng 
8/2020. 
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các sản phụ có 
nguy cơ cao bị tụt huyết áp khi gây tê tủy sống: 
đa thai (từ hai thai trở lên), đa ối (chỉ số ối AFI 
trên 250mm) không có dị tật thai nhi đã được 
chẩn đoán, thai to (ước tính cân nặng con >3,5 
kg); ASA I,II. 
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các sản phụ có bệnh lý 
như: tiền sản giật nặng, suy tim, bệnh lý tim có 
tăng áp động mạch phổi, viêm gan, suy thận, 
Basedow tiến triển, sản phụ có chống chỉ định 
của gây tê tủy sống và ngoài màng cứng, có mất 
máu quá 500ml trong mổ, sản phụ không đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 
*Phương pháp: thử nghiệm lâm sàng, ngẫu 
nhiên, có so sánh. 
*Cách thức tiến hành: Bệnh nhân được lựa 
chọn vào nghiên cứu và đồng ý tham gia nghiên 
cứu sẽ được bốc thăm ngẫu nhiên để chia thành 
hai nhóm bằng nhau. Cả hai nhóm đều được 
chuẩn bị khám, kiểm tra xét nghiệm, giải thích 
phương pháp gây tê, đặt đường truyền tĩnh 
mạch kim G18, truyền dịch Ringerlactac 
10ml/kg, theo dõi SpO2, huyết áp, điện tim, gây 
tê bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng trái cong 
lưng tôm hoặc tư thế ngồi đầu cúi. 
- Nhóm I (Nhóm gây tê tủy sống đơn thuần): 
Tiến hành gây tê tủy sống ở L2-L3. Liều 
Bupivacaine tính theo chiều cao (Bệnh nhân cao 
160cm: 8,5mg) phối hợp với 0,03mg Fentanyl. 
- Nhóm II (Nhóm gây tê tủy sống - ngoài 
màng cứng phối hợp): gây tê ngoài màng cứng 
ở L2-3, xác định khoang ngoài màng cứng bằng 
kỹ thuật mất sức cản với bơm tiêm chứa dịch 
NaCl 0,9%. Luồn catheter lên phía đầu sản phụ 
và để sâu 3-5 cm trong khoang ngoài màng 
cứng, dùng liều test là 60 mg Lidocain 2%, gây 
tê tủy sống ở L3-4 với 5mg Bupivacaine và 
0,03mg fentanyl, sau đó tiêm thêm 100mg 
lidocaine 2% qua catheter ngoài màng cứng và 
đánh giá mức độ ức chế cảm giác 2 phút/lần. Bổ 
sung các liều thuốc tê Lidocain 2% mỗi lần 40 
mg/cách 2-4 phút cho đến khi ức chế cảm giác 
đau đến T6. 
Tất cả các bệnh nhân đều được theo dõi 
mạch, huyết áp, nhịp tim 2 phút 1 lần trong 10 
phút đầu tiên, 5 phút 1 lần cho tới kết thúc phẫu 
thuật, mức ức chế cảm giác, vận động và các tác 
dụng không mong muốn tại các thời điểm của 
phẫu thuật và 24 giờ đầu sau mổ. Sử dụng các 
thuốc vận mạch để duy trì huyết áp tâm thu trên 
10% huyết áp nền của bệnh nhân bằng ephedrin 
hoặc phenylephrin. 
vietnam medical journal n01&2 - FEBRUARY - 2021 
166 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Thông số NC Nhóm GTTS (n = 30) Nhóm GTTS+NMC (n = 30) p 
BMI 21,35 ±1,40 21,15±1,23 >0,05 
Chiều cao (m) 1,59±0,49 1,57±0,06 >0,05 
Tuổi (năm) 31,433±5,56 28,57±4,26 >0,05 
Tuổi thai (tuần) 38,87±1,19 38,77±1,33 >0,05 
Đa thai 2 (6,6%) 5 (16,6%) >0,05 
Con to (>3500 g) 24 (80%) 23 (76,6%) >0,05 
Đa ối 3 (10%) 6 (20%) >0,05 
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các đặc điểm của bệnh nhân ở hai nhóm. 
2. Ảnh hưởng trên hô hấp 
2.1. Ảnh hưởng lên tần số thở 
14
16
18
20
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T13 T14 T15 T16 T17 T18 T19 T19
Nhóm I Nhóm II
Biểu đồ 1. Thay đổi tần số thở trong mổ 
Nhận xét: Tần số thở của các bệnh nhân ở hai nhóm có xu hướng giảm dần và trở về bình 
thường. Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm tại tất cả các thời điểm nghiên cứu. 
2.2. Ảnh hưởng lên bão hòa oxy mao mạch 
96.5
97
97.5
98
98.5
99
99.5
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T13 T14 T15 T16 T17 T18 T19 T20
Nhóm I Nhóm II
Biểu đồ 2. Thay đổi tần bão hòa oxy trong mổ 
Nhận xét: Không có sự khác biệt về bão hòa oxy của các bệnh nhân hai nhóm tại tất cả các thời 
điểm nghiên cứu. 
3. Các tác dụng không mong muốn khác 
Bảng 3.2. Tác dụng không mong muốn trên mẹ 
Thông số NC Nhóm GTTS (n = 30) Nhóm GTTS+NMC (n = 30) p 
An thần sâu 0 (0%) 0(0%) >0,05 
Suy hô hấp 0(0%) 0(0%) >0,05 
Ngứa 8(26,6%) 7(23,3%) >0,05 
Rét run 8(26,6%) 4(13,3%) >0,05 
Buồn nôn, nôn 7(23,3%) 2(6,67%) <0,05 
Bí tiểu 0(0%) 0(0%) >0,05 
Đau đầu 0(0%) 0(0%) >0,05 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 499 - THÁNG 2 - SỐ 1&2 - 2021 
167 
Nhận xét: Tỷ lệ nôn, buồn nôn của nhóm gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối hợp thấp hơn 
so với nhóm gây tê tủy sống đơn thuần. 
Bảng 3.3. Tình trạng trẻ sơ sinh 
Thông số NC 
Nhóm GTTS 
(n = 30) 
Nhóm GTTS+NMC 
(n = 30) 
p 
Hỗ trợ hô hấp 0 (0%) 0(0%) >0,05 
Apgar 1 phút >8 30(100%) 30(100%) >0,05 
Apgar 5 phút >8 30(100%) 30(100%) >0,05 
Cân nặng trung bình (kg) - 1 thai 3,704±0,325 3,772±0,244 >0,05 
Cân nặng trung bình con (kg) - đa thai 2,67± 0,245 2,62 ±0,125 >0,05 
Nhận xét: Ở cả 2 nhóm không trẻ nào có điểm Apgar < 8 điểm ở phút thứ 1, không có trẻ nào 
cần sự hỗ trợ hô hấp. Chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh ở 2 nhóm không có sự khác biệt với p> 0.05 
IV. BÀN LUẬN 
Kết quả ở bảng 3.1. cho thấy: Không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm 
nghiên cứu về các đặc điểm chung như: tuổi mẹ, 
tuổi thai, chiều cao, cân nặng, BMI Tỷ lệ bệnh 
nhân có các yếu tố nguy cơ tụt huyết áp cũng 
không có sự khác biệt giữa nhóm I và nhóm II, 
phần lớn bệnh nhân có thai to 80%, 10% đa thai 
và 10% đa ối. 
1. Tác dụng không mong muốn trên 
người mẹ 
1.1. Ảnh hưởng lên hô hấp. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, không gặp bệnh nhân nào ở 
cả hai nhóm có biểu hiện khó thở, suy hô hấp, 
giảm tần số thở < 10 lần/phút, tụt bão hoà oxy 
mao mạch (SPO2<90 %), cũng không gặp bệnh 
nhân nào phải hỗ trợ hô hấp trong và sau mổ. 
Nguyên nhân gây suy hô hấp sau gây tê tủy 
sống, gây tê ngoài màng cứng thường là do: 
Thuốc tê lan lên cao khi gây tê tủy sống mức 
cao, liều cao hoặc gây tê ngoài màng cứng tiêm 
nhầm thuốc tê vào khoang dưới nhện (gây tê tuỷ 
sống toàn bộ) gây ức chế trung tâm hô hấp, ức 
chế cơ hoành Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
không có bệnh nhân nào có mức ức chế cảm 
giác lên trên D2, do đó, không gặp biến chứng 
suy hô hấp trong mổ. Suy hô hấp sau mổ lấy 
thai ở bệnh nhân được vô cảm bằng gây tê tủy 
sống, gây tê ngoài màng cứng cũng có thể do sử 
dụng morphin liều thấp khi gây tê tủy sống hoặc 
morphin tiêm ngoài màng cứng vì morphin gây 
ức chế trung tâm hô hấp ở hành não, ở đây 
chúng tôi không dùng morphin tuỷ sống hoặc 
morphin ngoài màng cứng nên hạn chế được 
biến chứng này. Ngoài ra, suy hô hấp cũng còn 
có thể do phù phổi cấp khi bù dịch tinh thể quá 
nhanh, chúng tôi có sử dụng dịch truyền nhanh 
để nâng huyết áp nhưng có kết hợp với thuốc co 
mạch (ephedrin, phenylephrin), do đó, lượng 
dịch truyền không quá nhiều nên không gây biến 
chứng này. Gây tê tủy sống, ngoài màng cứng 
phối hợp có tỷ lệ tụt huyết áp thấp hơn so với 
gây tê tủy sống đơn thuần nên nguy cơ quá tải 
dịch cũng sẽ thấp hơn. 
1.2. Tác dụng an thần. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi có sử dụng fentanyl cho cả nhóm 
gây tê tủy sống đơn thuần và nhóm gây tê tủy 
sống - ngoài màng cứng phối hợp, đây là thuốc 
họ morphin nên thuốc cũng có tác dụng ức chế 
chọn lọc trên hệ thần kinh trung ương, tác dụng 
lên hệ limbic, do đó, có tác dụng an thần. Tuy 
nhiên, tất cả các bệnh nhân ở hai nhóm của 
chúng tôi đều tỉnh táo, không gặp trường hợp 
nào bị an thần sâu (ngủ gà hoặc ngủ khó đánh 
thức) phải điều trị. 
1.3. Nôn, buồn nôn. Nôn là một trong 
những tác dụng không mong muốn thường gặp 
nhất trong gây mê và gây nên khó chịu cho 
người bệnh chỉ sau đau. Nôn, buồn nôn có thể 
xảy ra trong mổ hoặc sau mổ. Nếu xảy ra trong 
mổ ngay sau gây tê thường do tụt huyết áp gây 
thiếu máu não gây kích thích trung tâm nôn ở 
hành não.Trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh nhân 
nôn hoặc buồn nôn ở nhóm 1 là 23,3%, nhóm 2 
là 6,67%. Kết quả này tương đương với Nguyễn 
Đức Lam là 13,33% và 6,67%[7]. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, nhóm gây tê tủy sống - ngoài 
màng cứng phối hợp có tỷ lệ tụt huyết áp là 
10% thấp hơn nhóm gây tê tủy sống (66,7%) 
nên tác dụng phụ nôn và buồn nôn cũng ít hơn 
(6,67% so với 23,33%). Đây cũng là một trong 
những ưu điểm của phương pháp gây tê tủy 
sống - ngoài màng cứng phối hợp. 
1.4. Ngứa. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
tỷ lệ ngứa của hai nhóm lần lượt là 26,6% và 
23,3%. Tỷ lệ này thấp hơn của Nguyễn Hoàng 
Ngọc (37,4% ở nhóm sử dụng 0,1mg morphin 
và 42,31% ở nhóm sử dụng 0,15mg morphin) có 
thể do chúng tôi không sử dụng morphin khi gây 
tê tủy sống [8]. Tuy tỷ lệ ngứa khá cao nhưng 
tất cả các bệnh nhân của chúng tôi đều ngứa ở 
mức độ nhẹ, chịu đựng được và tự hết sau 1-2 
giờ và không cần điều trị. 
vietnam medical journal n01&2 - FEBRUARY - 2021 
168 
1.5. Rét run. Rét run gặp ở 26,6% bệnh 
nhân nhóm gây tê tủy sống và 13,3% bệnh nhân 
ở nhóm gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối 
hợp, không có sự khác biệt với p >0,05. Rét run 
tuy không nguy hiểm nhưng gây khó chịu cho 
bệnh nhân. Cơ chế của rét run sau gây tê vùng 
đến nay vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ nhưng 
thường gặp trong các trường hợp sản phụ lo 
lắng, nhiệt độ môi trường lạnh, truyền nhiều 
dịch, nhất là truyền vào bệnh nhân dịch lạnh, 
do kích thích các ổ cảm thụ nhiệt của ống sống 
do thuốc tê lạnh. Có thể giải thích kết quả của 
chúng tôi: một phần là do truyền nhiều dịch và 
truyền tốc độ nhanh trong gây tê. Các bệnh 
nhân rét run của chúng tôi đều được điều trị dễ 
dàng bằng ủ ấm, nếu không đỡ thì tiêm tĩnh 
mạch 30mg dolargan. 
1.6. Bí tiểu. Bí tiểu là do tác dụng của thuốc 
tê lên tủy sống do ức chế thần kinh phó giao 
cảm chi phối bàng quang làm giãn cơ vòng bàng 
quang gây tăng thể tích tối đa của bàng quang. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh 
nhân có bí tiểu sau khi rút sonde tiểu 24 giờ sau 
mổ lấy thai, không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa hai nhóm. 
1.7. Đau đầu. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi không gặp trường hợp nào đau đầu sau gây 
tê ở cả hai nhóm. Có thể giải thích điều này là 
do chúng tôi gây tê tủy sống bằng kim nhỏ loại 
27G. Điều này cho thấy: Phương pháp gây tê tủy 
sống - ngoài màng cứng phối hợp nếu không 
gây thủng màng cứng khi gây tê ngoài màng 
cứng thì tỷ lệ đau đầu sẽ không khác biệt so với 
gây tê tủy sống đơn thuần. 
2. Tác dụng không mong muốn trên con. 
Tất cả các trẻ sơ sinh của hai nhóm đều có điểm 
Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 lớn hơn 8 
điểm, không gặp trẻ sơ sinh nào cần hỗ trợ hô 
hấp hoặc hồi sức sơ sinh. Tuy nhiên, để đánh giá 
tác động của phương pháp vô cảm trên thai nhi 
cần xét nghiệm pH máu động mạch rốn của trẻ 
sơ sinh, nghiên cứu của chúng tôi không làm xét 
nghiệm này, đây cũng là hạn chế của nghiên cứu 
của chúng tôi, tuy nhiên, theo các nghiên cứu 
nước ngoài, chỉ số này cũng không khác biệt 
giữa sơ sinh của bà mẹ được vô cảm bằng hai 
phương pháp trên, có thể do thời gian tụt huyết 
áp trong mổ của hai nhóm đều không kéo dài 
nên ít ảnh hưởng đến tình trạng sơ sinh [5], [6]. 
V. KẾT LUẬN 
Trong vô cảm để mổ lấy thai ở sản phụ có 
nguy cao tụt huyết áp, phương pháp gây tê tuỷ 
sống - ngoài màng cứng phối hợp (liều 5 mg 
bupivacaine kết hợp với ngoài màng cứng 10 ml 
lidocain 1% và bổ sung lidocain ngoài màng 
cứng nếu cần) ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với 
phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần (6,67% 
so với 23,3%; p < 0,05). Các tác dụng không 
mong muốn khác trên mẹ và con không có sự 
khác biệt giữa hai nhóm (Tỷ lệ ngứa, rét run ở 
nhóm gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối 
hợp là 23,3% và 13,3% so với 26,6% và 26,6% 
ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần; không gặp 
bệnh nhân nào bị suy hô hấp, an thần sâu, đau 
đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. Điểm Apgar phút thứ 
nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ sinh ở hai nhóm 
đều > 8, không có sự khác biệt). Không gặp các 
biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Corke BC, Datta S, Ostheimer GW, Weiss JB, 
Alper MH. Spinal anaesthesia for Caesarean 
section. The influence of hypotension on neonatal 
outcome. Anaesthesia. Tháng Sáu 
1982;37(6):658-62. 
2. Kiefer RT, Ploppa A, Dieterich HJ. [Aortocaval 
compression syndrome]. Anaesthesist. Tháng 
Mười-Một 2003;52(11):1073-83; quiz 1084. 
3. Roofthooft E, Van de Velde M. Low-dose spinal 
anaesthesia for Caesarean section to prevent 
spinal-induced hypotension. Curr Opin 
Anaesthesiol. Tháng Sáu 2008;21(3):259-62. 
4. Choi D-H, Ahn H-J, Kim J-A. Combined low-
dose spinal-epidural anesthesia versus single-shot 
spinal anesthesia for elective cesarean delivery. Int 
J Obstet Anesth. Tháng Giêng 2006;15(1):13-7. 
5. Teoh WHL, Thomas E, Tan HM. Ultra-low dose 
combined spinal-epidural anesthesia with 
intrathecal bupivacaine 3.75 mg for cesarean 
delivery: a randomized controlled trial. Int J Obstet 
Anesth. 1 Tháng Mười 2006;15(4):273-8. 
6. Wang LZ, Zhang YF, Hu XX, Chang XY. A 
randomized comparison of onset of anesthesia 
between spinal bupivacaine 5 mg with immediate 
epidural 2% lidocaine 5 mL and bupivacaine 10 mg 
for cesarean delivery. Int J Obstet Anesth. 1 Tháng 
Hai 2014;23(1):40-4. 
7. Nguyễn Đức Lam. Đánh giá hiệu quả của 
phương pháp gây tê tuỷ sống và gây tê tuỷ sống - 
Ngoài màng cứng phối hợp để mổ lấy thai ở bệnh 
nhân tiền sản giật nặng. đại học y Hà Nội; 2013. 
8. Nguyễn Hoàng Ngọc. Đánh giá tác dụng gây tê 
dưới màng nhện bằng bupivacain liều thấp kết hợp 
với fentanyl trong mổ lấy thai. 2003. 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_mot_so_tac_dung_khong_mong_muon_cua_phuong_phap_gay.pdf