So sánh dao động xung ký và hô hấp ký trong chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở người cao tuổi
Đặt vấn đề: BPTNMT đang là gánh nặng bệnh tật toàn cầu, đặc biệt ở những nước phát triển. Hô hấp ký
là phương pháp dùng để xác định tình trạng tắc nghẽn đường thở ở bệnh nhân bị BPTNMT nhưng khi đo cần
gắng sức và cần sự phối hợp tốt giữa nhân viên và đối tượng được đo trong khi đó dao động xung ký là phương
pháp không xâm lấn, không cần gắng sức, thời gian đo ngắn (40s). Mục đích của nghiên cứu này là so sánh dao
động xung ký và hô hấp ký trong chẩn đoán BPTNMT ở người cao tuổi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích và khảo sát tương
quan gồm 90 bệnh nhân tham gia nghiên cứu trong đó có 50 bệnh nhân bị BPTNMT và 40 người không bị bệnh
lý đường hô hấp. Các thông số khi đo hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC) và dao động xung ký (R5, R20 và
X5). Kết quả của hô hấp ký được so sánh với kết quả của dao động xung ký.
Kết quả: Kết quả đo hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC) và dao động xung (R5, R20 và X5) ở hai nhóm
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trong nhóm bệnh nhân bị BPTNMT chúng tôi tìm thấy độ nhạy
của X5 là 78% và độ nhạy của R5 là 76%. Có sự tương quan giữa X5 với các chỉ số của hô hấp ký (FVC, FEV1
và FEV1/FVC) và cũng tìm thấy tương quan giữa R5 với FVC và FEV1.
Kết luận: Có thể sử dụng DĐXK trong thăm dò chức năng hô hấp ở những bệnh nhân có các triệu chứng
lâm sàng về bệnh lý đường hô mà hợp tác ở mức tối thiểu. X5 thể hiện tình trạng nặng của BPTNMT.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh dao động xung ký và hô hấp ký trong chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở người cao tuổi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hô Hấp 31 SO SÁNH DAO ĐỘNG XUNG KÝ VÀ HÔ HẤP KÝ TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH Ở NGƯỜI CAO TUỔI Nguyễn Thị Sen*, Lê Thị Tuyết Lan** TÓM TẮT Đặt vấn đề: BPTNMT đang là gánh nặng bệnh tật toàn cầu, đặc biệt ở những nước phát triển. Hô hấp ký là phương pháp dùng để xác định tình trạng tắc nghẽn đường thở ở bệnh nhân bị BPTNMT nhưng khi đo cần gắng sức và cần sự phối hợp tốt giữa nhân viên và đối tượng được đo trong khi đó dao động xung ký là phương pháp không xâm lấn, không cần gắng sức, thời gian đo ngắn (40s). Mục đích của nghiên cứu này là so sánh dao động xung ký và hô hấp ký trong chẩn đoán BPTNMT ở người cao tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích và khảo sát tương quan gồm 90 bệnh nhân tham gia nghiên cứu trong đó có 50 bệnh nhân bị BPTNMT và 40 người không bị bệnh lý đường hô hấp. Các thông số khi đo hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC) và dao động xung ký (R5, R20 và X5). Kết quả của hô hấp ký được so sánh với kết quả của dao động xung ký. Kết quả: Kết quả đo hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC) và dao động xung (R5, R20 và X5) ở hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trong nhóm bệnh nhân bị BPTNMT chúng tôi tìm thấy độ nhạy của X5 là 78% và độ nhạy của R5 là 76%. Có sự tương quan giữa X5 với các chỉ số của hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC) và cũng tìm thấy tương quan giữa R5 với FVC và FEV1. Kết luận: Có thể sử dụng DĐXK trong thăm dò chức năng hô hấp ở những bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng về bệnh lý đường hô mà hợp tác ở mức tối thiểu. X5 thể hiện tình trạng nặng của BPTNMT. Từ khóa: BPTNMT: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, DĐXK: dao động xung ký. ABSTRACT COMPARISON OF IMPULSE OSILLOMETRY SYSTEM AND SPIROMETRY FOR DIANGOSIS OF CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE IN ELDERLY. Nguyen Thi Sen, Le Thi Tuyet Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 31 ‐ 35 Background: Chronic obstructive pulmonary disease (COPD) is the global burden, especially in developing countries. Spirometry, that requires maximal forced expiratory efforts, is a method to evaluate the severity of airway obstruction. Impulse Oscillometry (IOS) is a non‐invasive technique to investigate the functions and structure of the lungs. The aim of our study is to investigate which parameters of IOS (R5, X5, R20) correlated with Spirometry parameters (FEV1, FVC, FEV1/FVC), and figure out the sensitivity & specificity of IOS parameters in diagnosis of COPD patients. Method: This is a cross‐sectional research containing 40 healthy people in the first group and 50 COPD patients in the second group. Spirometric measurements (FEV1. FVC, FEV1/FVC) and IOS measurements (R5, X5, R20) were recorded. Pearson or Spearman correlation determined the associations of IOS and Spirometry. Results: Firstly, R5, X5 were significantly correlated (p<0.05) with FEV1, FVC. Furthermore, only X5 related with FEV1/FVC. However, R20 was not related to FEV1, FVC and FEV1/FVC. Secondly, the sensitivity * Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh TP.HCM ** Bộ môn Sinh lý, ĐH Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Sen ĐT: 0909691238 Email: nguyensen24@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 32 of X5 and R5 are 78% and 76% in diagnosis of Vietnamese COPD patients. Conclusion: Reactance measurement (X5) can be a significant value in diagnosis of Vietnamese COPD patients. Impulse Oscillometry can be a potential technique to access the functional pulmonary in COPD patients. Keywords: COPD, IOS, Spirometry ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một bệnh lý thường gặp có thể phòng ngừa và điều trị được, đặc trưng bởi sự tắc nghẽn đường dẫn khí không hồi phục hoàn toàn. Sự tắc nghẽn này thường tiến triển từ từ, kèm theo tăng đáp ứng viêm bất thường của đường dẫn khí cũng như nhu mô phổi đối với phân tử hay khí độc hại. Các bệnh kết hợp và các đợt kịch phát của BPTNMT góp phần vào độ nặng của bệnh trên từng bệnh nhân cụ thể(2). Theo WHO, năm 2008, khoảng 80 triệu người bị BPTNMT từ trung bình đến nặng, tỷ lệ tử vong do BPTNMT đang tăng lên và ước tính hơn 3 triệu người đã chết vào năm 2005 chiếm 5% tổng tỷ lệ tử vong trên toàn cầu(6). Nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật toàn cầu dự đoán nguyên nhân tử vong do BPTNMT sẽ trở thành nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 trên thế giới vào năm 2020, BPTNMT cũng là nguyên nhân gây nên tàn phế đứng hàng thứ 5 trong số các nguyên nhân gây tử vong và tàn tật. Tử vong gia tăng là do những thay đổi về dân số học ở phần lớn các nước và tình trạng hút thuốc lá lan rộng trên toàn cầu, trong đó thay đổi dân số học chiếm ưu thế hơn(2). Thực tế, hô hấp ký khi đo cần sự phối hợp thật tốt giữa bệnh nhân và kỹ thuật viên, bên cạnh đó còn những mặt hạn chế nhất định như những bệnh nhân già yếu, những bệnh nhân bị các bệnh lý nhược cơ hay bệnh thần kinh cơ rất khó khăn để thực hiện đo hô hấp ký. Mặt khác, tuổi cao cũng là một vấn đề làm cho tình trạng bệnh BPTNMT nặng nề hơn, đồng thời đo hô hấp ký cũng gặp khó khăn hơn ở người cao tuổi, nếu chỉ đơn thuần dựa vào hô hấp ký để chẩn đoán BPTNMT thì sẽ bỏ sót tần suất bệnh rất nhiều. Sự ra đời của dao động xung ký được xem như là một kỹ thuật thay thế và bổ trợ cho hô hấp ký. Ưu điểm lớn của dao động xung ký là không cần gắng sức, bệnh nhân hợp tác ở mức tối thiểu và thời gian đo ngắn. Vì vậy dao động xung ký có thể đo được ở những bệnh nhân không thể làm hô hấp ký như bệnh nhân già yếu, bệnh nhân đang trong đợt cấp của BPTNMT, bệnh nhân bị mềm đường dẫn khí... Dao động xung ký đã được Hội Hô hấp châu Âu (European Respiratory Society ‐ ERS) xem là một phương pháp thăm dò chức năng hô hấp thường quy cho cả trẻ em và người lớn(5). Năm 2006, Hội Lồng ngực Hoa Kỳ (American Thoracic Society ‐ ATS) cùng với Hội Hô hấp châu Âu đã viết hướng dẫn thăm dò chức năng Hô hấp ở trẻ mẫu giáo trong đó có giới thiệu dao động xung ký(1). Mục tiêu Mục tiêu tổng quát Xác định giá trị của dao động xung ký trong chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở người cao tuổi. Mục tiêu chuyên biệt + Xác định mối tương quan giữa các chỉ số của dao động xung ký (R5, R20, X5) với các chỉ số của hô hấp ký (FVC, FEV1, FEV1/FVC) ở nhóm bệnh nhân bị BPTNMT. + Xác định điểm cắt, độ nhạy, độ chuyên của dao động xung ký, gồm các chỉ số R5, R20 và X5. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Những bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên có các triệu chứng hô hấp ghi bị BPTNMT đến khám tại Trung tâm Chăm sóc sức khỏe cộng đồng (TTCSSKCĐ), thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 1/2012 đến tháng 4/2013. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hô Hấp 33 Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích và khảo sát tương quan. Tiêu chuẩn chọn bệnh Lâm sàng có các triệu chứng gợi ý ở một người ≥ 60 tuổi: + Ho kéo dài: có thể từng cơn và không có đàm, thường vào buổi sáng sớm khi thức dậy (giai đoạn sớm của bệnh), về sau xuất hiện mỗi ngày kèm theo nhiều đàm. + Tiết đàm kinh niên: bất kỳ kiểu tiết đàm kinh niên nào cũng có thể báo hiệu BPTNMT. + Khó thở: khởi đầu khó thở kín đáo thường rõ khi gắng sức, xuất hiện dai dẳng và ngày càng tiến triển nặng hơn theo thời gian. + Có tiền sử tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá (bao gồm cả các loại thuốc lá của địa phương) chủ động hoặc thụ động, các loại bụi và hóa chất nghề nghiệp, khói do đun bếp (than, củi, biogas,...) và do đốt các loại nhiên liệu (lò sưởi,...) mà thông khí kém. Tiêu chuẩn loại trừ Hen phế quản, viêm phổi, ung thư phế quản, lao phổi tiến triển, giãn phế quản. Bệnh nhân thực hiện đo chức năng hô hấp không hợp tác hoặc hợp tác kém, giản đồ hô hấp ký và dao động xung ký không đạt chuẩn, những trường hợp có đáp ứng với thuốc giãn phế quản. Bệnh nhân có một số bệnh lý kết hợp làm ảnh hưởng đến chức năng phổi như bệnh lý thần kinh cơ, suy tim, gù vẹo cột sống. Thu thập số liệu Bệnh nhân đến khám được hỏi bệnh sử, tiền sử, mức độ khó thở theo thang đo độ mMRC và khám lâm sàng. Chụp X quang để loại trừ những bệnh lý tại phổi như là: lao phổi tiến triển, ung thư phổi, giãn phế quản. Bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn chọn bệnh sẽ được tiến hành thu thập các thông tin cơ bản, nhân trắc như tuổi, giới tính, BMI, tình trạng hút thuốc lá và được đo đồng thời hô hấp ký và dao động xung ký. Kết quả hô hấp ký và dao động xung ký được đọc dựa theo tiêu chuẩn của Hội Lồng ngực Hoa Kỳ và Hội Hô hấp châu Âu. Các thông số đuợc nhập liệu và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả được trình bày dưới dạng tỉ lệ hay trị số trung bình và độ lệch chuẩn. Dùng phép kiểm chi bình phương (Chi‐Squared test), phép kiểm t và Fisher để so sánh sự khác biệt giữa 2 nhóm. Dùng hàm Spearman và Pearson để đánh giá tương quan, dùng đường cong ROC để tính độ nhạy, độ chuyên, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm. Nghiên cứu được thực hiện dưới sự chấp thuận của hội đồng y đức của Trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng thành phố Hồ Chí Minh. KẾT QUẢ Nghiên cứu của chúng tôi gồm 90 bệnh nhân đến khám tại phòng khám hô hấp của Trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng từ 1/2012 đến 4/2013. Đặc điểm dân số nghiên cứu: ‐ Tuổi trung bình: 69±9, gồm 83 nam và 7 nữ. ‐ Bệnh nhân chủ yếu là nam giới chiếm 92%, tỉ lệ nam/nữ là 4/1 ‐ 64% BN có hút thuốc lá với trung bình số gói năm theo tiêu chuẩn quốc tế là 23,6 ± 14,5, đã ngưng hút chiếm 34%, vẫn còn 30% BN bị BPTNMT đang hút thuốc lá. ‐ BMI giữa 2 nhóm không có sự khác biệt với p > 0,05. ‐ BN bị BPTNMT chủ yếu ở giai đoạn III và IV chiếm hơn 60%, trên 60% BN khó thở từ độ II trở lên. Đặc điểm hô hấp ký (FVC, FEV1, FEV1/FVC) và dao động xung ký (R5, R20 và X5) được tóm tắt ở bảng 1. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 34 Bảng 1: Đặc điểm cơ bản, hô hấp ký và dao động xung ký trong hai nhóm nghiên cứu Các giá trị Nhóm không bệnh Nhóm BPTNMT P n 40 50 Tuổi 67,4 ± 4,8 69,7 ± 9,3 0,133 Nam/Nữ 46/4 37/3 < 0,001 FVC (lít) 3,0 ± 0,7 (90,4 ± 12,6%) 2,2 ± 0,7 (66,5 ± 19,7 %) < 0,0001 FEV1 (lít) 2,8 ± 0,5 (90,2 ± 14,3%) 1,0 ± 0,5 (41,3 ± 20,5 %) < 0,0001 FEV1/FVC (%) 83,7 ± 6,7 47,5 ± 17,5 < 0,0001 R5 (kPa.l/s) 0,37 ± 0,07 0,55 ± 0,16 < 0,0001 R20 (kPa.l/s) 0,26 ± 0,07 0,39 ± 0,06 < 0,0001 X5 (kPa.l/s) -0,10 ± 0,04 -0,41 ± 0,26 < 0,0001 R5 và R20 tăng rõ rệt trong khi đó X5 sụt giảm đáng kể ở nhóm BPTNMT so với nhóm không bị bệnh. Bảng 2: Độ nhạy, độ chuyên, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của dao động xung ký ở nhóm BPTNMT Dao động xung ký Điểm cắt Độ nhạy Độ chuyên Giá trị tiên đoán dương Giá trị tiên đoán âm R5 ≥ 0,43 76 80 82,6 72,7 R20 ≥ 0,37 62 85 83,7 64,1 X5 ≥ 0,16 79 90 90,6 76,6 Độ nhạy độ chuyên giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm ở nhóm BPTNMT thể hiện trên bảng 2. Biểu đồ 1:Tương quan giữa R5 với FVC và R5 với FEV1 ở nhóm BPTNMT Biểu đồ 2:Tương quan giữa X5 với FVC, FEV1 và FEV1/FVC ở nhóm BPTNMT KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Trong kết quả nghiên của chúng tôi có sự tăng rõ rệt R5 và R20, sự sụt giảm nhiều chỉ số X5 ở nhóm BPTNMT so với nhóm không bị bệnh (p < 0,0001). Chúng tôi tìm thấy sự tương quan nghịch mức độ trung bình giữa R5 với FVC (r = ‐0,40, p = 0,004) và FEV1 (r = ‐0,40 và p = 0,004) ở nhóm BPTNMT (Biểu đồ 1). Tìm thấy tương quan thuận chặt chẽ giữa X5 với FVC (r = 0,49 và p = 0,0001) và FEV1 (r = 0,55 và p = 0,0001) và tương quan thuận mức độ trung bình giữa X5 với FEV1/FVC (r = 0,40 và p = 0,004) ở nhóm BPTNMT (Biểu đồ 2). Không tìm thấy tương quan của R20 với các chỉ số hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC). Độ nhạy của X5 và R5 là 78% và 76% ở nhóm BPTNMT. Năm 2010, Nikkah M và cộng sự tìm thấy độ nhạy của R5 và X5 lần lượt là 58% và 76% như vậy kết quả của chúng tôi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hô Hấp 35 cũng tương tư như tác giả không có sự khác biệt nhiều. Năm 2009, Winkler và cộng sự tìm thấy độ nhạy của dao động xung ký khá cao tới 94% ở nhóm BPTNMT. Tỉ lệ này cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có thể do phương pháp và chẩn đoán khác với chúng tôi và đồng thời cỡ mẫu tham gia nghiên cứu của tác giả cao hơn nên cũng đưa đến sự khác biệt này. Năm 2010, Peter M.A.C và cộng sự tiến hành nghiên cứu ECLIPSE cũng tìm thấy độ nhạy của R5 R20 và X5 lần lượt là 61%, 86% và 34%. Có sự tăng R5 rõ rệt ở nhóm BPTNMT so với 2 nhóm chứng và R5 càng tăng khi độ nặng cảu bệnh càng tăng. Các tác giả không tìm thấy sự thay đổi của R20 trong cả ba nhóm và cũng không có sự thay đổi khi độ nặng của bệnh tăng lên. Khi so sánh DĐXK (R5, R20 và X5) với hô hấp ký (FVC, FEV1 và FEV1/FVC) chúng tôi tìm thấy sự tương quan nghịch giữa R5 với FVC và FEV1 (Bảng 1) và thấy tương quan thuận chặt chẽ giữa X5 với FVC và FEV1, tương quan thuận mức độ trung bình giữa X5 với FEV1/FVC (Bảng 2). Năm 2012, Lipworth và cộng sự cùng tìm thấy sự tương quan nghịch chặt chẽ giữa R5 với FVC và FEV1, tương quan thuận mức độ trung bình giữa X5 với FVC. KIẾN NGHỊ Như vậy có thể sử dụng DĐXK trong thăm dò chức năng hô hấp ở những bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng về bệnh lý đường hô hấp. Có thể dùng DĐXK để thay thế hô hấp ký ở những bệnh nhân không thể đo được hô hấp ký. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Celli BR, MacNee W, and committe members (2004). “Standard for the diagnosis and treatment of patients with COPD summary of the ATS/ERS position paper, 23, pp. 932‐ 946. 2. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease (2010). “Global Strategy for the diagnosis, management and Prevention of Chronic Obstructive pulmonary disease”. NHLBI/WHO workshop report update, .com. 3. Lipworth BJ, Anderson WJ (2012). “Relationship between impulse oscillometry, spirometry and dyspnoea in COPD”, J R Coll Physicians Edinb, 42, pp. 111‐115. 4. Nikkhah M, et al (2011). “Comparison of Impulse Osillometry System and Spirometry for Diagnosis of Obstructive Lung Disorders”. Tanaffos, 10(1), pp. 19‐25. 5. Oostveen E, MacLeod D, Lorino.H et al. (2003). “The forced oscillation technique in clinical practice: motholodogy, recommendations and future developments”. Eur Respir J, 22, pp. 1026‐1041. 6. World Health Organisation (2005). Chronic obstructive pulmonary disease, Burden. Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
File đính kèm:
- so_sanh_dao_dong_xung_ky_va_ho_hap_ky_trong_chan_doan_benh_p.pdf