Situation of medical solid waste management of some private medical institutions in Thai Nguyen city, Thai Nguyen province
The article analyzes the current situation of medical solid waste
management at 3 medical facilities: Hanoi - Thai Nguyen General
Clinic, Central General Hospital, An Phu General Hospital. The author
uses survey and survey methods to collect information, identify specific
solid waste generated by collecting samples, weighing, measuring and
monitoring the evolution of generated medical solid waste and the
process of treatment of each research facility. Research results show
that the source of medical solid waste generation comes from
professional and daily activities of medical staff and patients' family
members. The volume of daily-life solid waste and hazardous medical
solid waste at medical facilities are different, the volume of hazardous
medical solid waste is much larger than the survey and interview with
medical staff. at each research facility. The collection, storage,
transportation and treatment of medical solid waste are carried out but
not in accordance with the regulations of the Ministry of Health. In
order to well manage medical solid waste at research facilities, it is
necessary to apply a number of solutions synchronously, such as: policy
solutions, economic solutions, treatment technology solutions and
solutions on propaganda and education.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Situation of medical solid waste management of some private medical institutions in Thai Nguyen city, Thai Nguyen province
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 203 - 210 203 Email: jst@tnu.edu.vn SITUATION OF MEDICAL SOLID WASTE MANAGEMENT OF SOME PRIVATE MEDICAL INSTITUTIONS IN THAI NGUYEN CITY, THAI NGUYEN PROVINCE Nguyen Thi Bich Lien 1* , Vi Thuy Linh 1 , Chu Thanh Huy 1 , Pham Huyen Trang 2 1TNU - University of Sciences 2TNU - Technical economic college ARTICLE INFO ABSTRACT Received: 25/4/2021 The article analyzes the current situation of medical solid waste management at 3 medical facilities: Hanoi - Thai Nguyen General Clinic, Central General Hospital, An Phu General Hospital. The author uses survey and survey methods to collect information, identify specific solid waste generated by collecting samples, weighing, measuring and monitoring the evolution of generated medical solid waste and the process of treatment of each research facility. Research results show that the source of medical solid waste generation comes from professional and daily activities of medical staff and patients' family members. The volume of daily-life solid waste and hazardous medical solid waste at medical facilities are different, the volume of hazardous medical solid waste is much larger than the survey and interview with medical staff. at each research facility. The collection, storage, transportation and treatment of medical solid waste are carried out but not in accordance with the regulations of the Ministry of Health. In order to well manage medical solid waste at research facilities, it is necessary to apply a number of solutions synchronously, such as: policy solutions, economic solutions, treatment technology solutions and solutions on propaganda and education. Revised: 21/5/2021 Published: 01/6/2021 KEYWORDS Manage Solid waste Medical Hospital Thai Nguyen City THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TƢ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN Nguyễn Thị Bích Liên1*, Vi Thùy Linh1, Chu Thành Huy1, Phạm Huyền Trang2 1Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên 2Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT Ngày nhận bài: 25/4/2021 Bài báo phân tích thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại 3 cơ sở y tế: Phòng khám Đa khoa Hà Nội – Thái Nguyên, Bệnh viện Đa khoa Trung tâm, Bệnh viện Đa khoa An Phú. Tác giả sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát để thu thập thông tin, xác định chất thải rắn phát sinh cụ thể bằng cách thu mẫu, tiến hành cân đo và theo dõi diễn biến chất thải rắn y tế phát sinh và quy trình xử lý của từng cơ sở nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn phát sinh chất thải rắn y tế từ hoạt động chuyên môn và sinh hoạt của cán bộ y tế, người nhà bệnh nhân. Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn y tế nguy hại tại các cơ sở y tế có sự khác nhau, khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại là lớn hơn nhiều so với điều tra, phỏng vấn nhân viên y tế tại mỗi cơ sở nghiên cứu. Việc thu gom, lưu trữ, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế được thực hiện nhưng chưa theo đúng quy định của Bộ Y tế. Để quản lý tốt chất thải rắn y tế tại các cơ sở nghiên cứu cần áp dụng đồng bộ một số giải pháp như: giải pháp về chính sách, kinh tế, giải pháp công nghệ xử lý và giải pháp về tuyên truyền giáo dục. Ngày hoàn thiện: 21/5/2021 Ngày đăng: 01/6/2021 TỪ KHÓA Quản lý Chất thải rắn Y tế Bệnh viện Thành phố Thái Nguyên DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.4432 * Corresponding author. Email: lienntb@tnus.edu.vn TNU Journal of Science and Technology 226(08): 203 - 210 204 Email: jst@tnu.edu.vn 1. Giới thiệu Chất thải y tế nói chung và chất thải rắn y tế (CTRYT) nói riêng có đặc tính là chứa nhiều yếu tố nguy hiểm tới con người, môi trường. Việc quản lý và xử lý CTRYT là rất cần thiết. Các kết quả nghiên cứu trước đây đã đề cập đến vấn đề quản lý CTRYT tại các bệnh viện. Trong [1] nhóm tác giả đã đưa ra thực trạng quản lý chất thải nguy hại y tế tuyến tỉnh tại Thái Bình. Trong [2] các tác giả đưa ra thực trạng quản lý CTRYT tại sáu bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh. Trong [3] tác giả nghiên cứu việc quản lý CTYT tại một số bệnh viện công thuộc tỉnh Tiền Giang. Trong [4] các tác giả chỉ ra thực trạng quản lý chất thải tại các bệnh viện huyện, tỉnh Yên Bái. Trong những năm gần đây công tác quản lý CTRYT tại Việt Nam được tiến hành hiệu quả và triệt để hơn. Điều này được thể hiện trong việc tuân thủ quy trình thu gom, xử lý chất thải rắn tại các cơ sở y tế. Tuy nhiên, chỉ tại các bệnh viện lớn của nhà nước và số ít các cơ sở chữa bệnh tư nhân với quy mô lớn, hiện đại mới có sự hiểu biết và phương tiện xử lý hiệu quả. Các cơ sở khám chữa tư nhân khác, đặc biệt là các phòng khám tư nhân vừa và nhỏ thì công tác quản lý CTRYT còn nhiều hạn chế. Trong [5] các tác giả đã chỉ ra rằng có sự khác biệt về tỷ lệ phát sinh CTRYT giữa các tuyến bệnh viện, việc thực hiện công tác quản lý CTRYT tuyến trung ương tốt hơn tuy ... o thai, u bóc tách,... 3.2. Thực trạng công tác thu gom chất thải rắn y tế của ba cơ sở nghiên cứu Bảng 2 cho thấy, dụng cụ chứa và thu gom CTRYT tại ba cơ sở y tế tư nhân Thái Nguyên: Thùng đựng rác thải trong bệnh viện: sử dụng các thùng nhựa hoặc sọt rác có lót túi bóng nilon (màu xanh, vàng, đen) và có nắp đậy (sọt rác không có). Vị trí các thùng được bố trí ở các phòng khám, chữa bệnh, dọc hành lang và nhà vệ sinh. Thùng rác đặt ở những vị trí dễ nhìn, đông người qua lại và những vị trí phát sinh nhiều chất thải. Thùng rác có hai lớp, làm bằng nhựa PE (Polyetylen) có độ bền cao và không có bánh xe. Bên ngoài các thùng không có vạch báo hiệu ở mức ¾ hộp và ghi dòng chữ “KHÔNG ĐƯỢC ĐỰNG QUÁ VẠCH NÀY”. Việc sử dụng sọt rác và không ghi vạch báo hiệu là thực hiện chưa đúng như quy chế quản lý chất thải y tế tại Quy chế 43/2007/QĐ-BYT và thông tư số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT. Dụng cụ chứa và thu gom CTRSH tại các phòng bệnh nhân nội trú và phòng hành chính: mỗi phòng bệnh đều có các thùng nhựa lót túi hoặc sọt rác nilon màu xanh hoặc màu đen, có đậy nắp, mở bằng đạp chân và bên ngoài có ghi “RÁC THẢI SINH HOẠT”. Việc lót túi bóng màu đen và sử dụng sọt rác là không đúng quy định. Tại các phòng tiêm và phòng xét nghiệm đều được trang bị hộp (tận dụng chai truyền dịch) đựng kim tiêm, khi đầy được bỏ vào thùng rác (sọt rác) có lót túi bóng màu vàng (PKĐK HN- TN). Như vậy, việc bỏ kim tiêm vào túi bóng màu vàng là chưa đúng. Về túi nilon: các cơ sở sử dụng 4 loại túi (túi màu xanh đựng chất thải sinh hoạt, túi màu vàng đựng chất thải lây nhiễm, túi màu đen đựng chất thải nguy hại và túi màu trắng đựng chất thải tái chế. Tuy nhiên, màu trắng và màu đen không được sử dụng nhiều nên tỷ lệ cán bộ nhân viên y tế và bệnh nhân biết đến chiếm tỷ lệ nhỏ. Bệnh viện luôn có sẵn túi nilon để thay thế khi túi đầy. Trong ba cơ sở y tế tư nhân thì chỉ có BVĐKTT có xây nơi lưu trữ CTRYT (2 ngăn bằng bê tông có tấm che và ghi “Rác thải sinh hoạt”, “Rác thải y tế”. Nhưng hiện tại không sử dụng mà để vào xe đẩy bằng tay. Còn PKĐK HN-TN và BVĐKAP lưu trữ tại hành lang tầng 2 và nơi để xe của cơ sở y tế đó. Nhìn chung, cả ba cơ sở đã có ý thức chấp hành việc thu gom CTRYT và phần nào đáp ứng yêu cầu theo Quy chế quản lý chất thải y tế do Bộ Y tế ban hành (BVĐKAP và BVĐKTT thực hiện theo Quy chế 43/2007/QĐ-BYT ngày 30 tháng 11 năm 2007 Quản lý chất thải bệnh viện; PKĐK HN-TN thực hiện theo Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT- BTNMT ngày 31/12/2015 của liên Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải y tế và Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT về việc Ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế). Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý chất thải y tế tại PKĐK HN-TN ít được đầu tư hơn cả. BVĐKTT có hệ thống cơ sở vật chất tốt nhất. Qua kết quả điều tra phỏng vấn thì toàn bộ cán bộ, nhân viên y tế được phỏng vấn đều trả lời: tại cơ sở y tế (phòng khám hoặc bệnh viện) đã thực hiện công việc phân loại chất thải rắn y tế tại nguồn và theo đúng quy định của Bộ Y tế. Theo điều tra thực tế thể hiện ở bảng 3, hiện tại công tác phân loại tại các khoa của ba cơ sở đã được thực hiện nhưng còn phiến diện, chưa nghiêm ngặt: Màu túi bóng còn sử dụng sai theo quy định của Bộ Y tế. Ví dụ: chất thải hoá học nguy hại phải cho vào túi màu đen thì tại BVĐKTT có ngày lại cho vào túi màu vàng, PKĐK HN-TN lại để chất thải lây nhiễm vào túi màu đen và khi các chai chống thủng hết thì để vật sắc nhọn vào túi bóng màu vàng. Ngoài ra, BVĐKTT để các bệnh phẩm (CTRYTNH) vào túi màu xanh, không đúng quy định. Đây là loại chất thải lây nhiễm cao vì có chứa các vi sinh vật gây bệnh. Có thể nói BVĐKAP thực hiện công tác này tốt hơn cả, sau đó đến BVĐKTT và cuối cùng là PKĐK HN-TN. Như vậy, cho thấy công tác phân loại ở PKĐK HN-TN cần học hỏi và có sự điều chỉnh. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 203 - 210 208 Email: jst@tnu.edu.vn Bảng 2. Phương tiện thu gom CTRYT của ba cơ sở nghiên cứu TT Tên cơ sở Phƣơng tiện thu gom PKĐK HN-TN BVĐKTT BVĐKAP 1 Túi nilon đựng CTRYT 3 màu (xanh, vàng, đen) đựng chất thải sinh hoạt, rác thải y tế và chất thải phóng xạ 3 màu (xanh, vàng, đen) đựng rác thải sinh hoạt, rác thải y tế và chất thải phóng xạ 3 màu (xanh, vàng, đen) đựng chất thải sinh hoạt, chất thải y tế và chất thải phóng xạ 2 Thùng rác Mỗi khoa đặt 1 thùng rác có lót túi bóng màu xanh hoặc vàng bên trong, ngoài khoa và hành lang có thùng rác lót túi màu đen bên trong tương ứng với từng loại CTRYT Mỗi khoa đặt 1 thùng rác có lót túi bóng màu xanh hoặc màu vàng hoặc màu đen bên trong tương ứng với từng loại CTRYT Mỗi khoa đặt 1 thùng rác có lót túi bóng màu xanh hoặc màu vàng hoặc màu đen bên trong tương ứng với từng loại CTRYT 3 Thùng rác đặt tại nơi lưu giữ cuối cùng Để ở ban công, cạnh nhà vệ sinh tầng 2 Có xây nơi lưu giữ rác (2 ngăn bằng bê tông có tấm che và ghi “Rác thải sinh hoạt”, “Rác thải y tế”. Nhưng hiện tại không sử dụng mà để vào xe đẩy bằng tay 1 thùng 120 ml màu xanh (ghi rác thải dân dụng, 2 thùng 80 ml (rác thải y tế màu vàng, rác thải tái chế màu trắng) 4 Hộp đựng kim tiêm Có (tận dụng chai truyền dịch), hạn chế (chỉ có ở phòng tiêm cho bệnh nhân), hộp đựng kim tiêm đầy thì lại cho vào túi bóng màu vàng Có (tận dụng chai truyền dịch), hạn chế (chỉ có ở phòng tiêm và phòng xét nghiệm cho bệnh nhân) Có (tận dụng chai truyền dịch), hạn chế (chỉ có ở phòng tiêm cho bệnh nhân) 5 Nơi để rác thải/ lưu giữ CTRYT Để ở ban công, cạnh nhà vệ sinh tầng 2 Nhà để xe Gầm cầu thang/nhà để xe (Nguồn: Số liệu điều tra - 2020) Bảng 3. Phân loại CTRYTNH của ba cơ sở nghiên cứu Thái Nguyên TT Tên PKĐK HN-TN BVĐKTT BVĐKAP 1 Chất thải lây nhiễm sắc nhọn như kim tiêm, mảnh thuỷ tinh vỡ Được cho vào chai nhựa (tận dụng các chai nhựa sẵn có như chai truyền dịch,), đầy chai nhựa thì lại để vào túi bóng màu vàng Được cho vào chai nhựa (tận dụng các chai nhựa sẵn có như chai truyền dịch (đường),) Được cho vào chai nhựa (tận dụng các chai nhựa sẵn có như chai truyền dịch,) 2 Bông băng, gạc, các bệnh phẩm, Được cho vào túi màu đen hoặc vàng để dưới đất (không có sọt rác) Để vào túi màu đen (hết túi đen thì để vào túi màu xanh) được lót trong sọt rác Để vào túi màu vàng được lót trong sọt rác 3 Chất thải hoá học nguy hại, chất phóng xạ (các vỏ chai, lọ thuốc chứa các chất độc hóa học, hóa chất, dược phẩm hết hạn sử dụng) Cho vào túi màu đen rồi buộc chặt mang để vào ban công tầng 2. Chất thải rắn y tế nguy hại được phòng khám ký kết hợp đồng với Công ty Urenco 10 để xử lý. Cho vào túi màu vàng rồi buộc chặt mang ra chỗ xe rác đẩy bằng tay để - Phòng chứa chất thải y tế. Bệnh viện thuê Công ty Anh Đăng xử lý CTRYTNH. Cho vào túi màu đen rồi buộc chặt mang để vào thùng rác ghi rác thải độc hại ở gầm cầu thang – nhà gửi xe. Chất thải rắn y tế nguy hại được bệnh viện ký kết hợp đồng với Công ty Urenco 10 xử lý. (Nguồn: Số liệu điều tra - 2020) Qua bảng 4 cho thấy, công tác thu gom và vận chuyển của ba cơ sở đều thực hiện thủ công (bằng tay). Các cơ sở cho CTRYT vào các túi rác theo màu sắc quy định của Bộ Y tế. Đến giờ quy định thì hộ lý sẽ dồn túi tại mỗi khoa. Túi đầy được hộ lý buộc cổ túi lại. Hộ lý sẽ mang các túi đó đến nơi lưu trữ của bệnh viện. CTRYTNH không được xử lý sơ bộ tại nơi phát sinh mà chỉ mang để trước cửa của bệnh viện để Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp 10 – URENCO 10 (PKĐK HN-TN, BVĐKAP) vận chuyển, xử lý. Còn BVĐKTT thuê Công ty Anh Đăng vận chuyển và xử lý chất thải y tế nguy hại. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 203 - 210 209 Email: jst@tnu.edu.vn Tuy nhiên, công tác thu gom và vận chuyển CTRYT tại BVĐKAP khá tốt, quan sát bằng mắt thường chúng tôi thấy tại đây khá sạch sẽ. Phỏng vấn một số bệnh nhân tại ba cơ sở nghiên cứu cho thấy đa số bệnh nhân hài lòng với môi trường tại BVĐKAP. Bảng 4. Thu gom và vận chuyển CTRYT của ba cơ sở nghiên cứu TT Tên PKĐK HN-TN BVĐKTT BVĐKAP 1 Vật chứa Có túi bóng xanh, vàng hoặc đen tại mỗi khoa/phòng Có túi bóng (xanh, vàng hoặc đen) lót trong sọt rác đặt tại mỗi khoa/phòng, Có túi bóng (xanh, vàng hoặc đen) lót trong sọt rác đặt tại mỗi khoa/phòng 2 Dụng cụ thu gom Xách bằng tay các túi bóng đựng chất thải y tế tới nơi lưu giữ của cơ sở. Xách bằng tay các túi bóng đựng chất thải y tế tới nơi lưu giữ của cơ sở. Xách bằng tay các túi bóng đựng chất thải y tế tới nơi lưu giữ của cơ sở. 3 Lượng CTR chứa trong mỗi túi Dồn túi sau đó được buộc cổ túi lại. Dồn túi, mỗi túi được đựng đầy tới miệng túi, sau đó buộc lại Mỗi túi chỉ đầy tới 3/4 túi, sau đó buộc cổ túi lại. 4 Tần suất thu gom 2 lần/ngày (sáng, chiều) 2 lần/ ngày (chiều và tối) 2 lần/ngày (chiều và tối) 5 Chất thải lây nhiễm cao/CTRYTNH Không được xử lý sơ bộ tại nơi phát sinh Không được xử lý sơ bộ tại nơi phát sinh Không được xử lý sơ bộ tại nơi phát sinh 6 Thời gian vận chuyển chất thải ra thùng rác - Sáng 6h - Chiều 13h30 - Chiều 13h30 - Tối 9h30 - Chiều 13h30 - Tối 10h00 (Nguồn: Số liệu điều tra - 2020) 3.3. Thực trạng công tác xử lý chất thải rắn y tế của ba cơ sở nghiên cứu * Đối với chất thải y tế nguy hại Xử lý ban đầu: Một số khoa/phòng tại ba cơ sở nói trên phát sinh CTRYTNH có mức độ lây nhiễm cao, gây độc cho con người như chất thải phóng xạ, chất thải liên quan đến giải phẫu, Các CTRYTNH này trước khi đưa ra thùng chứa và vận chuyển đến nơi lưu giữ rác đều không được xử lý sơ bộ/ban đầu ngay tại nơi phát sinh mà chỉ cho vào túi bóng màu vàng hoặc màu đen không ghi ký hiệu rồi buộc lại. Đối với CTR như lam kính vỡ, đĩa thạch, ống làm test kiểm tra, bơm kim tiêm, dao mổ, bộ Troca dùng để mở màng phổi, dây truyền dịch, sông dẫn lưu khí – lưu dịch, lọ lấy đờm để làm xét nghiệm, ống lấy mẫu máu – nước tiểu bệnh phẩm của phòng xét nghiệm đều được bỏ vào túi bóng trước khi mang ra thùng để rác. - Các chai lọ đựng dung dịch chứa phóng xạ phục vụ cho chụp X quang được để riêng sau đó các hộ lý mang đi bán cho người thu mua phế liệu. Chỉ có BVĐKAP thực hiện đổi lại nhà sản xuất. - CTRYT của BVĐKAP, PKĐK HN-TN sẽ được Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp 10 – URENCO 10 vận chuyển từ nơi để rác của bệnh viện về tập trung, xử lý tại khu xử lý chất thải công nghiệp, nguy hại. Còn BVĐKTT thuê Công ty Anh Đăng vận chuyển và xử lý CTRYTNH. * Đối với CTR thông thường - Các chất thải tái chế: Ba phòng khám đã tiến hành thu gom các chất thải tái chế bao gồm: các chai nhựa đựng dịch truyền, chai lọ thủy tinh không chứa các thành phần nguy hại như giấy báo, bìa, thùng carton, Tại cả ba phòng khám, các hộ lý đã tiến hành thu hồi vỏ chai thuốc dịch truyền, lon nước ngọt, bìa carton, vỏ hộp, phim X quang. Chất thải tái chế được hộ lý bán cho người mua ve chai/đồng nát và tiền thu được thì hộ lý hưởng. Sau đó, công việc tái chế như thế nào thì các các cơ sở y tế tư nhân không quan tâm. - Các CTRSH: Tại BVĐKTT và BVĐKAP, CTRSH được phân loại và thu gom riêng biệt với CTRYTNH. Tại các buồng tiêm, nhà vệ sinh, của các khoa/phòng được trang bị các túi màu xanh hoặc đen lót trong các sọt rác hoặc thùng nhỏ có nắp mở bằng đạp chân để thu gom CTR thông thường. Các khu vực hành chính cũng được bố trí đặt các thùng nhỏ có nắp mở bằng đạp chân bên trong lót túi nilon màu xanh để thu gom. Ở PKĐK HN-TN hai loại này được thu gom TNU Journal of Science and Technology 226(08): 203 - 210 210 Email: jst@tnu.edu.vn và cho vào túi màu xanh hoặc đen. Tuy nhiên ở cả ba cơ sở, sau khi phân loại và thu gom xong túi bóng đựng CRTRYTNH và túi bóng đựng CTRSH lại được tập kết chung tại khu lưu giữ. Đến giờ quy định hộ lý mang các túi này ra vỉa hè (BVĐKTT thì đẩy xe để rác ra trước cửa bệnh viện), tại đó công nhân vệ sinh môi trường của thành phố sẽ tiến hành thu gom và vận chuyển về bãi tập kết rác 1 (khu vực gần Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên). CTRYT của BVĐKAP và PKĐK HN-TN sẽ được Công ty cổ phần môi trường và công trình đô thị Thái Nguyên vận chuyển từ nơi để rác của bệnh viện mang đến chôn lấp, xử lý theo đúng quy định tại Bãi rác Đá Mài, cách TP. Thái Nguyên 20 km về phía Tây Nam của thành phố. Còn BVĐKTT thì thuê Công ty Anh Đăng thu gom và xử lý CTRYT. 4. Kết luận Khối lượng CTRYT tại ba cơ sở y tế phát sinh tương ứng với lượt người đến khám bệnh tại các cơ sở, dao động từ 4,2 – 15,5 kg/ngày CTRSH, 0,5 – 3,8 kg/ngày CTRYTNH tại PKĐK HN- TN; khối lượng CTRSH từ 8,7 – 27,5 kg/ngày và CTRYTNH từ 2,0 – 6,6 kg/ngày tại BVĐKTT; khối lượng CTRSH từ 7,3 – 23,5 kg/ngày và CTRYTNH từ 1,7 – 5,1 kg/ngày tại BVĐKAP. Công tác quản lý CTRYT tại ba cơ sở nghiên cứu cơ bản tuân thủ quy định của Bộ Y tế tuy nhiên trong quá trình quản lý vẫn còn có những sai sót, tồn tại có thể khắc phục được. Một số giải pháp chúng tôi kiến nghị để nâng cao công tác quản lý CTRYT tại các cơ sở y tế bao gồm: Quan tâm, hỗ trợ hơn bác sỹ, y tá, kỹ thuật viên và đặc biệt là hộ lý trong việc phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý sơ bộ CTRYTNH của phòng khám bằng những việc làm như trợ cấp, khen thưởng, tuyên dương; Đầu tư hơn nữa trang thiết bị phục vụ cho công tác phân loại, thu gom, lưu trữ CTRYT; Tăng cường thanh tra, giám sát của các đơn vị hữu quan; Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, lắp đặt đầy đủ hơn quy định, hướng dẫn tại cơ sở. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1] T. N. A. Pham, X. T. Bui, and H. C. Vo, "Current situation of hazardous medical waste management at the provincial level in Thai Binh," TNU Journal of Science and Technology, vol. 225, no. 15, pp. 103 - 110, 2020. [2] T. T. Le, N. P. Dao, H. D. Dinh, T. T. Nguyen, T. V. Vu, and T. T. Pham, "Current situation of medical solid waste management in six provincial general hospitals," Research Journal Medical research, vol. 21(1), pp. 56 - 63, 2003. [3] K. Ngo and H. N. Le, "Situation of medical solid waste management in some public hospitals in Tien Giang province in 2014," Journal of Medicine in Ho Chi Minh City, vol. 20, no. 5, pp. 497 - 506, 2016. [4] T. T. Le, N. P. Dao, T. T. Nguyen, and T. H. Vu, "Current situation of waste management in district hospitals, Yen Bai province," Journal of medical research, vol. 32(6), pp. 274 - 281, 2004. [5] T. T. Dam, T. H. Nguyen, and V. T. Tran, "Situation of generation and solid waste management at central and provincial hospitals in 2015 – 2016," Journal of Medicine - Military School, no. 9, pp. 44 - 50, 2019. [6] T. H. Nguyen and T. N. T. Nguyen, "Medical solid waste management at Thai Nguyen Central General Hospital," TNU Journal of Science and Technology, vol. 120, no. 06, pp. 147 - 152, 2014.
File đính kèm:
- situation_of_medical_solid_waste_management_of_some_private.pdf