Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên

Thể chế được xem như nền tảng cơ bản của phát triển kinh tế, sử dụng tài nguyên bền vững và

tái tạo các hệ sinh thái tự nhiên - xã hội. Chính vì thế, sự thay đổi hệ thống thể chế có ý nghĩa

quan trọng, hoặc kích thích hoặc kiềm hãm sự phát triển. Điều này được chứng minh một cách cụ

thể qua thành quả phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong hơn 20 năm thực thi chính sách đổi

mới kinh tế. Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp, đổi mới chính sách kinh tế và tự do hoá thị

trường nói chung và các chính sách nông nghiệp, đất đai, quản lý tài nguyên nói riêng đã làm

thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn và sinh kế nông hộ. Tuy nhiên, các chính sách này có sự tác

động khác nhau lên sinh kế của các nhóm nông hộ khác nhau, hay nói cách khác các nhóm nông

hộ khác nhau hưởng lợi khác nhau từ cải cách thể chế và điều này quyết định đến sinh của kế của

nông hộ cũng như các hành vi sử dụng và bảo tồn đất đai và tài nguyên của họ. Chính vì thế,

nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá sự tác động của chính sách kinh tế, đất

đai, bảo tồn tài nguyên, cũng như điều kiện thị trường lên sinh kế nông hộ thông qua nghiên cứu

trường hợp tại xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia

Cát tiên.

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 1

Trang 1

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 2

Trang 2

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 3

Trang 3

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 4

Trang 4

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 5

Trang 5

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 6

Trang 6

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 7

Trang 7

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 8

Trang 8

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 9

Trang 9

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang baonam 8100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên

Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên
Hội thảo Môi trường và Phát triển bền vững, Vườn Quốc gia Côn Đảo, 18/06/2010 – 20/06/2010 
Workshop on Environment and Sustainable Development, Con Dao National Park, 18th– 20th June 2010 
__________________________________________________________________________________________ 
Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm VQG Cát Tiên 140 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thụy – Đại học Nông Lâm Tp. HCM  
SINH KẾ NÔNG HỘ TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI: 
NGHIÊN CỨU TẠI MỘT CỘNG ĐỒNG VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN 
Hà Thúc Viên1 và Ngô Minh Thụy2 
1 Khoa Môi trường và Tài nguyên,2Khoa Quản lý Đất đai và Bất động sản 
ĐT: 08-37245694; 0946500198 
Email: htvien2002@yahoo.com, htvien@hcmuaf.edu.vn 
TÓM TẮT 
 Thể chế được xem như nền tảng cơ bản của phát triển kinh tế, sử dụng tài nguyên bền vững và 
tái tạo các hệ sinh thái tự nhiên - xã hội. Chính vì thế, sự thay đổi hệ thống thể chế có ý nghĩa 
quan trọng, hoặc kích thích hoặc kiềm hãm sự phát triển. Điều này được chứng minh một cách cụ 
thể qua thành quả phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong hơn 20 năm thực thi chính sách đổi 
mới kinh tế. Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp, đổi mới chính sách kinh tế và tự do hoá thị 
trường nói chung và các chính sách nông nghiệp, đất đai, quản lý tài nguyên nói riêng đã làm 
thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn và sinh kế nông hộ. Tuy nhiên, các chính sách này có sự tác 
động khác nhau lên sinh kế của các nhóm nông hộ khác nhau, hay nói cách khác các nhóm nông 
hộ khác nhau hưởng lợi khác nhau từ cải cách thể chế và điều này quyết định đến sinh của kế của 
nông hộ cũng như các hành vi sử dụng và bảo tồn đất đai và tài nguyên của họ. Chính vì thế, 
nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá sự tác động của chính sách kinh tế, đất 
đai, bảo tồn tài nguyên, cũng như điều kiện thị trường lên sinh kế nông hộ thông qua nghiên cứu 
trường hợp tại xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia 
Cát tiên. 
Từ khoá: Thể chế, chính sách đất đai, sinh kế, nông hộ, Vườn Quốc gia Cát Tiên. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nông thôn Việt Nam đã và đang thay đổi nhanh chóng về mọi mặt từ khi Đảng và Nhà nước 
thực hiện chính sách đổi mới kinh tế được khởi xướng vào giữa thập niên 80. Đặc biệt là việc 
thực thi chính sách đổi mới quản lý nông nghiệp và chính sách đất đai thông qua giảm dần vai trò 
của hợp tác xã nông nghiệp và thừa nhận nông hộ như một đơn vị kinh tế độc lập. Nông hộ được 
giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, một số cải cách trong các lĩnh vực 
liên quan cũng tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn như: Tài chính và 
tín dụng nông thôn, tự do hoá thị trường, chính sách xuất nhập khẩu và chính sách giá, quản lý và 
bảo tồn tài nguyên... 
Đổi mới chính sách kinh tế và quản lý tài nguyên ở cấp vĩ mô đã làm thay đổi một cách cơ bản 
sở hữu và tiếp cận nguồn lực sản xuất của nông hộ, tiếp cận các cơ hội kinh tế do đổi mới chính 
sách vĩ mô mang lại. Nông hộ được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định 
sản xuất và tái đầu tư vào sản xuất, và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất của họ. Điều 
1 Khoa Môi trường và Tài nguyên 
2 Khoa Quản lý Đất đai và Bất động sản 
Hội thảo Môi trường và Phát triển bền vững, Vườn Quốc gia Côn Đảo, 18/06/2010 – 20/06/2010 
Workshop on Environment and Sustainable Development, Con Dao National Park, 18th– 20th June 2010 
__________________________________________________________________________________________ 
Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm VQG Cát Tiên 141 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thụy – Đại học Nông Lâm Tp. HCM  
này quyết định chiến lược sinh kế và sử dụng tài nguyên của nông hộ. Tuy nhiên, sự khác biệt 
trong năng lực sản xuất giữa các nông hộ làm cho họ lựa chọn chiến lược sinh kế cũng khác 
nhau. Nghiên cứu này chọn xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng, thuộc khu vực vùng 
đệm Vườn Quốc gia Cát Tiên có điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội - văn hoá đa dạng làm địa 
bàn nghiên cứu điểm với các mục tiêu chính như sau: 
• Đánh giá sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi dưới sự tác động của đổi mới chính 
sách kinh tế, đất đai, quản lý và bảo tồn tài nguyên, và các chính chính sách và dự án phát triển 
liên quan. 
• Đề xuất các giải pháp để tăng cường năng lực, phát triển sinh kế nông hộ bền vững và quản 
lý sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên. 
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
• Tìm hiểu tiến trình thực thi chính sách đất đai, quản lý và bảo tồn tài nguyên, và các 
chương trình phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn nghiên cứu. 
• Đánh giá nguồn lực và khả năng tiếp cận nguồn lực sản xuất, mô hình chiến lược sinh kế 
của nông hộ dưới sự tác động của việc thực thi chính sách đất đai, quản lý và bảo tồn tài nguyên, 
và các chương trình phát triển kinh tế- xã hội. 
CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu này dựa vào khung lý thuyết về mối quan hệ giữa thể chế và sinh kế ... n phát triển mang lại đã thúc đẩy quá trình thâm canh sâu trong 
nông nghiệp và phát triển nông nghiệp thương mại để tăng thu nhập trên đơn vị đất đai. Phát triển 
nông nghiệp tăng thu nhập đã thúc đẩy tăng nguồn thu từ lao động làm thuê và buôn bán nhỏ do 
tăng nhu cầu lao động và tu dùng. Chăn nuôi mặc dù chưa phải là nguồn thu chính của nông hộ, 
nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy xu hướng chăn nuôi thương mại và đa dạng hoá loại hình 
chăn nuôi cũng phát triển. 
Bảng 6: Thu nhập và cấu trúc thu nhập nông hộ4 
Đvt: Triệu đồng 
Nội dung 1998 2008 -/+ -/+%
Lúa 2,07 11,28 9,21 445
Cây hằng năm khác 0,17 0,87 0,70 401
Cây công nghiệp lâu năm 2,80 13,27 10,47 374
Chăn nuôi 0,61 3,78 3,17 520
Làm thuê, buôn bán nhỏ 2,84 4,96 2,12 75
Tổng 8,49 34,17 25,67 302
 (Nguồn: Điều tra nông hộ 2008-2009) 
 Mặc dù nguồn thu nhập từ thu lượm lâm sản không tính toán trong nguồn thu, nhưng qua số 
liệu điều tra, cho thấy sinh kế của người dân địa phương vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào rừng. 
Các loại tài nguyên chính mà người dân vẫn tiếp tục khai thác sử dụng từ VQG Cát Tiên như: gỗ, 
củi, lồ ô, song mây, măng le, cá và các loại rau rừng nó đóng một vai trò quan trọng trong sinh kế 
nông hộ nhất là các hộ nghèo, thiếu đất sản xuất và dân tộc thiểu số, nó vừa là nguồn thu nhập, 
nguồn lương thực, thực phẩm, nguồn thuốc chữa bệnh. Theo kết quả quan sát và phỏng vấn 
nhóm, các hộ thuộc nhóm có điều kiện kinh tế khá hơn, thường khai thác lâm sản để cho mục 
đích thương mại và tăng thu nhập; ngược lại các hộ nghèo thường khai thác lâm sản cho cả hai 
mục đích: Sử dụng làm thực phẩm gia đình và bán. Theo phỏng vấn chuyên gia, số lượng khai 
thác lâm sản khai thác thực tế của người dân lớn hơn nhiều so với số liệu họ cung cấp. Điều này 
chứng tỏ mặc dù vườn quốc gia được quản lý nghiêm ngặt, nhưng việc khai thác lâm sản trái 
phép có xu hướng diễn ra phức tạp và số lượng ngày càng tăng do áp lực thị trường và tăng thu 
nhập của người dân. 
Bảng 7: Sử dụng tài nguyên thiên nhiên của nông hộ mỗi năm 
Loại tài nguyên Theo nhóm dân tộc Theo nhóm kinh tế
Kinh Dao Tày Nùng S'Tiêng Giàu Trung bình Nghèo 
Gỗ (m3) 0 0 0 0 0,34 0 0 0
Củi (m3) 24,81 15,61 13,09 0,67 19,04 28,16 19,49 15,58
Lồ ô (m3) 1,69 1,67 0,63 0,06 1,64 2,07 1,33 1,10
Song mây (kg) 0,15 0,00 0,00 0,00 8,96 0,19 0,12 0,10
4 Thu nhập từ khai thác lâm sản không tính vào tổng thu nhập của người dân do quá trình khai thác diễn ra nhiều thời 
điểm khác nhau, số lượng và giá bán biến động thường xuyên cho nên rất khó quy thành thu nhập bằng tiền. 
Hội thảo Môi trường và Phát triển bền vững, Vườn Quốc gia Côn Đảo, 18/06/2010 – 20/06/2010 
Workshop on Environment and Sustainable Development, Con Dao National Park, 18th– 20th June 2010 
__________________________________________________________________________________________ 
Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm VQG Cát Tiên 151 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thụy – Đại học Nông Lâm Tp. HCM  
Măng (kg) 11,30 14,40 5,36 0,33 14,96 13,81 8,88 7,31
Cá (kg) 0,39 0,53 0,00 0,00 1,27 0,48 0,31 0,25
Rau rừng (kg) 0,00 0,00 0,00 0,00 11,80 0,00 0,00 10,05
 (Nguồn: Điều tra nông hộ 2008 – 2009) 
 Bên cạnh đó, cấp GCNQSDĐ cũng mong đợi người dân sẽ tập trung vào sản xuất nông nghiệp 
và giảm phụ thuộc vào rừng. Nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy điều này không diễn ra như 
mong đợi. Một mặc nông dân ngày càng phát triển nông nghiệp thâm canh, mặt khác tiếp tục khai 
thác lâm sản như một loại hình sinh kế không thể thiếu trong chiến lược sinh kế của họ. Ngoài ra, 
khai thác lâm sản để bù đắp lại thiếu hụt thu nhập vào những năm mất mùa, giá cả nông sản giảm 
và khai thác lâm sản cũng là nguồn tài chính để mua vật tư nông nghiệp cho sản xuất. Chính vì 
thế, một đòi hỏi đặt ra trong chiến lược phát triển và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên phải đảm bảo 
cả 2 mục đích: Sinh kế và quản lý bảo tồn tài nguyên bền vững. 
 Nông hộ thuộc các nhóm dân tộc và kinh tế khác nhau có một số khác biệt trong thu nhập và 
cấu trúc thu nhập của họ do chiến lược sinh kế của họ quyết định như đã trình bày phần trước. 
Thật vậy, tổng thu nhập của các nông hộ thuộc nhóm kinh tế khá cao gấp 3 lần nhóm kinh tế 
trung bình và 9 lần so với các hộ thuộc nhóm thu nhập thấp. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng thu 
nhập của nhóm thu nhập cao cũng nhanh hơn các nhóm còn lại. Điều đáng chú ý là thu nhập của 
nông hộ thuộc nhóm thu nhập cao tập trung chủ yếu từ nông nghiệp và chăn nuôi, ngược lại các 
hộ nghèo có nguồn thu nhập từ các hoạt động ngoài trồng trọt và ngoài nông nghiệp, chủ yếu từ 
làm thuê và khai thác lâm sản. Sự khác biệt về nguồn lực sản xuất và khả năng tiếp cận các nguồn 
lực sản xuất giữa nông hộ thuộc các nhóm có điều kiện kinh tế khác nhau làm cho họ hưởng lợi 
từ môi trường kinh tế - thể chế và điều kiện tự nhiên khác nhau và tổ chức mô hình hoạt động 
sinh khác nhau. Sự thay đổi mô hình sinh kế của các nông hộ dưới sự tác động của môi trường 
thể chế đã làm tăng nhanh quá trình phân hoá xã hội ngay cả những vùng sâu vùng xa và ngay 
trong các cộng đồng dân tộc thiểu số. Đòi hỏi việc hoạch định và thực thi chính sách cần phải 
quan tâm đến việc hạn chế phân hoá xã hội và tăng cường na8nglu75c sản xuất cho các nhóm bất 
lợi. Vì thế bên cạnh các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế cần có các chính sách an sinh 
xã hội, xoá đói giảm nghèo hợp lý để làm giảm khoảng cách xã hội và hướng đến phát triển bền 
vững. 
 Nông hộ của nông hộ giữa các nhóm dân tộc có sự khác biệt lớn. Các hộ đồng bào Kinh có thu 
nhập cao nhất (42,36 triệu) và thấp nhất là các hộ thuộc dân tộc Dao thiểu số (25,44 triệu). Ngoài 
ra, tốc độ tăng trưởng thu nhập của các hộ người Kinh cao hơn, và tương đối đồng điều giữa các 
hoạt đông sinh kế khác. Tuy nhiên, thu nhập và cơ cấu thu nhập của các hộ thuộc các cộng đồng 
dân tộc khác nhau có một điểm chung đó là nguồn thu nhập từ trồng cây lâu năm (đặc biệt là cây 
điều) đóng góp gần hoặc hơn 50% thu nhập của nông hộ. Sự tác động mạnh mẽ của thị trường thế 
giới về hạt điều trong hơn 20 năm qua, nông hộ chuyển một phần lớn đất đồi vốn dĩ dùng để canh 
tác nương rẫy hoặc lấn chiếm đất lâm nghiệp để phát triển điều mại. Sự phát triển điều ồ ạt trên 
vùng đất dốc và xâm phạm đất lâm nghiệp thuộc vườn quốc gia là một thác thức lớn đối với môi 
trường: Suy thoái đất đai do xói mòn, suy giảm thảm thực vật và thâm canh; suy giảm đa dạng 
sinh học do thu hẹp đất rừng và canh tác độc canh; gây bồi lắng sông hồ hạ lưu sông Đồng Nai. 
Giải pháp phát triển sinh kế và bảo tồn tài nguyên bền vững 
Hội thảo Môi trường và Phát triển bền vững, Vườn Quốc gia Côn Đảo, 18/06/2010 – 20/06/2010 
Workshop on Environment and Sustainable Development, Con Dao National Park, 18th– 20th June 2010 
__________________________________________________________________________________________ 
Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm VQG Cát Tiên 152 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thụy – Đại học Nông Lâm Tp. HCM  
 Dựa trên kết quả điều tra nông hộ và giải pháp phát triển dựa trên quan điểm cộng đồng, để cải 
thiện sinh kế của nông hộ, cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản: (1) Sớm hoàn thiện cấp 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân, đặc biệt các khu vực trồng cây lâu năm của họ 
đang bị quản lý bỡi các lâm trường và các chủ rừng; (2) Nhà nước nên giao đất giao rừng cho hộ 
nông dân chăm sóc, quản lý và hưởng dụng, hộ nông dân được phép khai thác các sản phẩm phi 
gỗ từ rừng quốc gia, được phép sản xuất nông lâm kết hợp trong rừng được giao; (3) Tăng cường 
công tác khuyến nông và cung cấp các kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ giống và vật 
tư nông nghiệp, hỗ trợ mua vật tư nông nghiệp và bán sản phẩm; (4) Cung cấp tín dụng ưu đãi, 
phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển y tế và giáo dục, hỗ trợ đào tạo nghề. Việc thực hiện đồng bộ 
các giải pháp này sẽ thúc đẩy phát triển và đa dạng sinh kế, gắn kết giữa bảo tồn và an toàn sinh 
kế cho nông hộ trong khu vực vùng đệm của VQG. 
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
 Công tác giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình và 
cá nhân theo Nghị định 64/NĐ-CP tại địa bàn nghiên cứu diễn ra chậm và vẫn chưa hoàn thành 
do sự kết hợp nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài ra trong thời gia qua có nhiều dự án đầu tư để 
phát triển sinh kế bền vững và bảo tồn tài nguyên trên địa ban xã. Tuy nhiên , hiệu quả của các dự 
án này không cao và có đời sống ngắn do tổ chức thực hiện không tốt, thiếu nhất quán, thiếu sự 
hợp tác và tham gia thực sự từ phía người dân. 
 Nguồn lực sinh kế của nông hộ chủ yếu là lao động và đất đai, và đóng vai trò quyết đến sinh 
kế nông hộ. Xét về mặt số lượng, các nông hộ trong vùng nghiên cứu sở hữu hai loại nguồn lực 
này rất dồi dào. Nhưng từ phương diện sử dụng, đất đai có xấu, dộc dốc lớn khó canh tác và dễ 
bị xói mòn; lao động có trình độ học vấn thấp và phần lớn không qua đào tạo. Phần lớn nông hộ 
thiếu vốn sản xuất, công cụ sản xuất thô sơ, và nguồn lực xã hội hạn chế. Tiếp cận nguồn lực sản 
xuất khó khăn do xa thị trường. Việc thực thi các chính sách đổi mới kinh tế, đất đai, quản lý tài 
nguyên và mở cửa thị trường tác động một cách mạnh mẽ đến sở hữu và tiếp cận nguồn lực sản 
xuất của nông hộ, đặc biệt là đất đai và tín dụng, nguồn đầu vào sản xuất. Tuy nhiên, sự khác biệt 
nguồn lực sản xuất ban đầu của nông hộ giữa các nhóm kinh tế và dân tộc khác nhau tác động 
mạnh mẽ đến việc tiếp cận nguồn lực sản xuất của họ. 
 Sự thay đổi cấu trúc và sở hữu các loại nguồn lực sản xuất, áp lực của thị trường, các cơ hội 
sinh kế ngoài nông nghiệp do quá trình phát triển mang lại dưới sự tác động của các chính sách 
phát triển và bảo tồn tài nguyên, các nông hộ có xu hướng tái phân bố nguồn lực sản xuất để đa 
dạng hoá sinh kế của họ theo hướng phát triển nông nghiệp thương mại, và các sinh kế ngoài 
nông nghiệp, bên cạnh đó vẫn tiếp tục di trì các hoạt động khai thác lâm sản, đặc biệt các loại lâm 
sản lâm sản ngoài gỗ với mục đích thương mại. Sự thay đổi mô hình sinh kế theo hướng đa dạng 
hoá và thâm canh hoá tác động tích cực đến tăng trưởng thu nhập của nông hộ. Tuy nhiên, do sự 
khác biệt về nguồn lực ban đầu và khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất giữa các nông hộ, 
làm cho họ phát triển các mô hình sinh kế khác nhau và tốc độ tăng trưởng thu nhập khác nhau. 
Các hộ có nguồn lực sản xuất dồi dào và tiếp cập tốt hơn các nguồn lực sản xuất thường tập trung 
vào nông nghiệp thâm canh và các hoạt động phi nông nghiệp có mức thâm dụng vốn cao hơn và 
trình độ học vấn tốt hơn, chính vì thế thu nhập của họ cũng tăng trưởng nhanh hơn. Ngược lại các 
Hội thảo Môi trường và Phát triển bền vững, Vườn Quốc gia Côn Đảo, 18/06/2010 – 20/06/2010 
Workshop on Environment and Sustainable Development, Con Dao National Park, 18th– 20th June 2010 
__________________________________________________________________________________________ 
Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm VQG Cát Tiên 153 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thụy – Đại học Nông Lâm Tp. HCM  
hộ nghèo và dân tộc thiểu số có xu hướng phát triển mô hình sinh kế bán thị trường dựa vào thâm 
dụng tài nguyên và sức lao động chân tay. Quá trình chuyển dịch sinh kế theo hướng thị trường, 
tuy nhiên, trở nên thách thức lớn cho môi trường và bảo tồn tài nguyên và đa dạng sinh học, vì 
đây là một vùng sinh thái nhạy cảm và dễ bị tác động. 
 Trong quá trình phát triển sinh kế nông hộ gặp rất nhiều khó khăn như tiếp cận nguồn lực sản 
xuất, đặc biệt là vốn, thị trường, và khoa học công nghệ. Chính vì thế để đẩy nhanh quá trình đa 
dạng hoá sinh kế và tăng thu nhập và giảm thiểu mức phụ thuộc vào tài nguyên rừng. Các chính 
sách và chương trình phát triển cần tập trung cải thiện an toàn hưởng dụng đất đai và tài nguyên, 
nâng cao năng sản xuất cho nông hộ, đặc biệt là các nông hộ nghèo và dân tộc thiểu số. Hướng 
nông dân phát triển các mô hình sinh kế xanh, sử dụng tài nguyên hợp lý và giảm thiểu thâm 
dụng tài nguyên thiên nhiên. 
REFERENCES 
CSFU, CMU and FORSPA, 2000. “Imapct of Market Changes on Land Use System: Response of 
Communities and Farmers with regard to Forest and Tree Management”. Collaborative 
Project’s Report of Household Survey in Six Villages in Hilly Area of Central Human 
Province, China. 
Dorward, A. and N. Poole, 2004. “Markets, Risks, Assets and Opportunities: The Links between 
the Functioning of Markets and the Livelihoods of the Poor”. 
Available at: . 
Feder, G.; Onchan, T.; Chalamwong, Y. and Hongladaron, C. (1988). Land Policy and Farm 
Productivity in Thailand. Baltimore: Johns Hopkins University Press. 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thuỵ, và Lê Mộng Triết, 2009. “Vai Trò Của Cải Cách Chính Sách 
Đất Đai Đối Với Sinh Kế và Môi Trường”. Lê Văn An và Hồ Đắc Thái Hoàng (Chủ biên): 
Thị Trường, Quản lý Tài Nguyên và Dịch Bệnh ở Vùng Cao Việt Nam, Tập 2. Huế: Nhà 
Xuất Bản Thuận Hoá, Trang 152 - 181. 
Maxwell, D. and K. Wiebe ,1998.“Land Tenure and Food Security: A Review of Concepts, 
Evidence, and Methods”. Research Paper 129, Land Tenure Center, the University of 
Wisconsin, Madison, USA, January. 
Thongmanivong, S. And Y. Fujita, 2006. “Recent Land Use and Livelihood Transitions in 
Northern Laos”. Mountain Research and Development Vol. 26, No 3, p. 237 -244. 
Tien, T. T. and Vien, H. T., 2009. “Women’s Role in Agricultural Production and Food Security 
in The Mekong Delta: Current Status and Perspectives”. Paper presented at Conference on 
“Agriculture, Environment, Food Security, and Cooperation of Countries in Asian Sub-
region”, 25th – 27th May, 2009, Grand Millennium Skhumvit, Asoke, Bangkok, Thailand. 
Hội thảo Môi trường và Phát triển bền vững, Vườn Quốc gia Côn Đảo, 18/06/2010 – 20/06/2010 
Workshop on Environment and Sustainable Development, Con Dao National Park, 18th– 20th June 2010 
__________________________________________________________________________________________ 
Sinh kế nông hộ trong quá trình chuyển đổi: Nghiên cứu tại một cộng đồng vùng đệm VQG Cát Tiên 154 
Hà Thúc Viên, Ngô Minh Thụy – Đại học Nông Lâm Tp. HCM  
Trần Đức Luân và Nguyễn Ngọc Thuỳ, 2009. “Sử Dụng Đất và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến 
Thu Nhập Của Người M’Nông Tại Xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng, Tỉnh Bình Phước”. Lê 
Văn An và Hồ Đắc Thái Hoàng (chủ biên): Thị trường, Quản Lý Tài Nguyên và Dịch Bệnh 
ở Vùng Cao Việt Nam, Tập 2. Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hoá, Trang 264 - 288. 
Vien, H. T., 2009. “Land Reform, Land Use and Rural Environment: A Case of Vietnam”. Paper 
presented at International Conference on Sustainability Scince – Asia, 23rd – 24th 
November, 2009, AIT – Bangkok, Thailand. 
Vien, H. T., 2009. Land Reform, National Park and Local Livelihoods: From Theory to 
Practice. Germany: VDM Publishing House Ltd. Press, 168p. 
Vien, H. T., 2007. Land Reform and Upland Livelihoods. Aachen - Germany: Shaker Verlag 
GmbH Press, 364p. 

File đính kèm:

  • pdfsinh_ke_nong_ho_trong_qua_trinh_chuyen_doi_nghien_cuu_tai_mo.pdf