Rủi ro và thách thức an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
Không gian mạng cung cấp tiềm năng vô hạn về hội nhập
toàn cầu và phát triển kinh tế xã hội trong thế kỷ 21. Tuy nhiên,
rủi ro và thách thức về an ninh mạng đã trở thành mối quan tâm
hàng đầu của người sử dụng Internet; đặc biệt trong lĩnh vực ngân
hàng. Chính vì thế nghiên cứu này nhằm khám phá và làm rõ
những rủi ro, thách thức về an ninh mạng trong lĩnh vực ngân
hàng tại Việt Nam. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định
tính thông qua 10 cuộc phỏng vấn chuyên sâu và ứng dụng phần
mềm NVIVO để phân tích nội dung phỏng vấn. Kết quả nghiên
cứu nhằm giúp cho người sử dụng dịch vụ ngân hàng online và
các nhà quản lý ngân hàng thấy rõ vấn đề an ninh mạng. Đồng
thời kết quả nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ cách thức mà các nhà
hoạch định chính sách có thể phát triển khung chính sách an ninh
mạng trong lĩnh vực ngân hàng, cân bằng các khía cạnh lợi ích
của việc sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Rủi ro và thách thức an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
30 Nguyễn V. Phương, Trần V. Diễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 30-44 Rủi ro và thách thức an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam Risks and challenges for cybersecurity in the banking sector in Vietnam Nguyễn Văn Phương1*, Trần Văn Diễn1 1Trung tâm Đào tạo Quản lý công, Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: nvphuong@hcmiu.edu.vn THÔNG TIN TÓM TẮT DOI:10.46223/HCMCOUJS. econ.vi.16.2.612.2021 Ngày nhận: 09/08/2020 Ngày nhận lại: 28/09/2020 Duyệt đăng: 19/11/2020 Từ khóa: an ninh mạng, rủi ro, thách thức, ngân hàng trực tuyến, Internet Keywords: cybersecurity, risks, challenges, online banking, Internet Không gian mạng cung cấp tiềm năng vô hạn về hội nhập toàn cầu và phát triển kinh tế xã hội trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, rủi ro và thách thức về an ninh mạng đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của người sử dụng Internet; đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Chính vì thế nghiên cứu này nhằm khám phá và làm rõ những rủi ro, thách thức về an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính thông qua 10 cuộc phỏng vấn chuyên sâu và ứng dụng phần mềm NVIVO để phân tích nội dung phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu nhằm giúp cho người sử dụng dịch vụ ngân hàng online và các nhà quản lý ngân hàng thấy rõ vấn đề an ninh mạng. Đồng thời kết quả nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ cách thức mà các nhà hoạch định chính sách có thể phát triển khung chính sách an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng, cân bằng các khía cạnh lợi ích của việc sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến. ABSTRACT Cyberspace provides limitless potentialities for global integration and socio-economic development in the 21st century. However, cybersecurity risks and challenges have become the top concerns of Internet users; especially in the banking sector. Therefore, this study aims to explore and clarify the risks and challenges of cybersecurity in the banking sector. This study uses a qualitative method and utilizes NVIVO software to analyze the findings from 10 in-depth interviews. The research results aim to help online banking users and banking managers clarify the problems of cybersecurity. In addition, the findings shed a new light on how policymakers can develop a cybersecurity policy framework in the banking sector and balance the beneficial aspects of using online banking services. Nguyễn V. Phương, Trần V. Diễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 30-44 31 1. Giới thiệu Ngày nay, thương mại kỹ thuật số, việc trao đổi thông tin và mạng lưới cơ sở hạ tầng Viễn thông chủ yếu dựa vào nền tảng mạng lưới toàn cầu, gần hơn nửa dân số Thế giới đã kết nối vào mạng lưới Internet (Nye, 2017; Weiss & Jankauskas, 2018). Khi những tiềm ẩn rủi ro của không gian mạng ngày một gia tăng trong xã hội hiện đại (Choucri, 2019), cả hai lĩnh vực công và tư đều quan tâm đến khả năng ứng phó với các vấn đề an ninh mạng (Bossong & Wagner, 2017; Weiss & Jankauskas, 2018). Thực tế, một cuộc tấn công mạng thành công có thể làm sập mạng của các đơn vị Chính phủ, làm mất kiểm soát của hoạt động kinh doanh, làm xói mòn niềm tin của công chúng về các giao dịch tài chính hay phát tán thông tin không chính xác làm thiệt hại rất lớn về kinh tế và uy tín của chính quyền hay doanh nghiệp. Ví dụ, cụ thể như trường hợp mạng của hãng hàng không Vietnam Airlines bị tấn công vào tháng 07 năm 2016. Một trường hợp gần đây thông tin cá nhân của gần 5 triệu khách hàng của công ty Thế Giới Di Động bị lộ, bị rò rỉ vào tháng 11 năm 2018. Trong lĩnh vực Ngân hàng, Ngân hàng Sacombank bị làm giả thẻ tín dụng (tháng 04 năm 2017), và ngân hàng Đông Á cũng xảy ra trường hợp tương tự vào tháng 11 năm 2018. Trong thực tế ngày càng nhiều khách hàng sử dụng điện thoại cho các giao dịch mua bán và thanh toán online. Điều đó làm cho việc đảm bảo an toàn thông tin của khách hàng trước sự tấn công của tin tặc ngày trở nên quan trọng. Đặc biệt, việc đảm bảo xác thực thông tin của người được cấp quyền truy cập dữ liệu đòi hỏi phải nhanh và tiện lợi là vô cùng quan trọng. Các kỹ thuật nén và giải mã nội dung giao dịch online qua thiết bị điện thoại di động được thiết kế dựa trên nền tảng của giao dịch ngân hàng trực tuyến. Mà cấu trúc thiết kế hệ thống giao dịch ngân hàng trực tuyến lại có sự khác biệt tùy theo cách vận hành của từng ngân hàng và nghiệp vụ phát sinh; ví dụ như các dịch vụ bên trong ngân hàng và các dịch vụ qua bên thứ ba, đơn vị lưu trữ dịch vụ. Như vậy, việc đảm bảo an ninh dịch vụ ngân hàng trực tuyến là vấn đề nan giải thông qua mô hình yêu cầu-phản hồi mà ở đó đòi hỏi sự xác thực thông tin của khách hàng, hệ thống ngân hàng phải thông suốt thông qua hệ thống cơ sở hạ tầng gồm hệ thống mạng công nghệ thông tin, bộ định tuyến ( ... n, dữ liệu của máy tính hoặc thông qua máy tính của họ để xâm nhập vào hệ thống máy tính của một đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp nào đấy mà máy tính cá nhân của họ được kết nối với hệ thống máy tính khác, điều này sẽ gây mất an toàn thông tin, an ninh mạng và tổn thất nghiêm trọng về kinh tế. Ngoài ra, các chương trình đào tạo về an ninh mạng và quản lý rủi ro cho người dùng trực tuyến chưa được triển khai rộng rãi. Bên cạnh đó các trường học cũng chưa cung cấp cho sinh viên, học viên của mình đủ kiến thức về an toàn thông tin và bảo đảm an ninh mạng để họ tự ngăn chặn các hành vi trộm cắp danh tính từ các hoạt động trực tuyến (như được đề cập bởi người trả lời số 1, 2 và 3). Điều đáng chú ý là kết quả từ các cuộc thảo luận nhóm cũng cung cấp bằng chứng là việc thiếu kiến thức về an ninh mạng. Nhìn chung, hầu hết các chuyên gia khuyên cáo rằng Chính phủ nên yêu cầu các trường Trung học Cơ sở và Trung học cung cấp một chương trình đào tạo để giáo dục các mối quan tâm về quyền riêng tư và bảo mật trực tuyến cho những người trẻ tuổi để họ nên biết cách tự bảo vệ bản thân và cộng đồng xã hội trong kỷ nguyên số. 4.2. Khám phá mới Hình 1. Phân tích kết quả phỏng vấn trên phần mền NVIVO Nguyễn V. Phương, Trần V. Diễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 30-44 41 Kết quả từ phần mềm NVIVO trình bày như trong Hình 1 cho thấy có sự quan hệ nhân quả trong an ninh mạng. Một vài nét chính của kết quả tổng hợp cho thấy: thứ nhất, ở góc độ chuyên môn, các nhà quản trị mạng cho rằng có rất nhiều lỗ hổng trong quản trị mạng tại Việt Nam hiện nay nên dễ dàng bị tin tặc xâm nhập. Nhiều nhà quản lý chưa hiểu rõ bản chất khái niệm thế nào là an ninh mạng và những tổn thất, thiệt hại do mất an ninh mạng gây ra. Vì vậy, họ chưa có đầu tư tương xứng để đảm bảo an toàn thông tin. Thứ hai, do bản chất mạng không an toàn nên tin tặc có thể xâm nhập bất cứ lúc nào khi họ muốn. Các phần mềm gián điệp luôn tồn tại trong rất nhiều hệ thống máy tính của doanh nghiệp cho phép thanh toán trực tuyến và của người dùng hiện nay là lỗ hổng lớn bên trong máy tính để tin tặc dễ tấn công. Bên cạnh đó người dùng tại Việt Nam hiện nay chưa có thói quen đặt mật khẩu an toàn khi sử dụng thông tin cá nhân khi trao đổi qua mạng và hệ thống máy vi tính cá nhân. Thứ ba, về quản lý nhà nước chưa có những điều luật hay chế tài cụ thể giúp hạn chế tấn công mạng và đảm bảo an toàn thông tin. Sự bùng nổ công nghệ thông tin và mạng free-wifi, mạng 4G, nên người dùng rất thuận tiện truy cập thông tin qua Internet nhưng không có đảm bảo an toàn thông tin. Đây cũng là cửa ngõ mở cho tin tặc xâm nhập vào thiết bị cá nhân để lấy cắp thông tin. Thứ tư, các doanh nghiệp triển khai kinh doanh trực tuyến và cho phép thanh toán trực tuyến thì chưa có đầu tư bài bản về thiết kế mạng an toàn và khách hàng thì cũng không quan tâm đến việc thông tin cá nhân bị mất cắp, tiết lộ. Trong khi đó do biện pháp chế tài của nhà nước chưa có nên các nhà cung cấp dịch vụ thiếu đầu tư công nghệ để bảo vệ thông tin của khách hàng. Thứ năm, khi có sự cố tấn công mạng xảy ra thì thiếu sự hợp tác giữa các đơn vị với đội ngũ chuyên trách trong việc khoanh vùng để hạn chế thiệt hại. Mặt khác các doanh nghiệp thường giấu thông tin bị tin tặc tấn công vì muốn giữ uy tín của doanh nghiệp. Thứ sáu, hiện nay các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp thiết bị công nghệ thông tin không đồng bộ nên rất khó đảm bảo an toàn thông tin. Bên cạnh đó, nhà nước chưa có chính sách quy định chuẩn hóa thiết bị công nghệ thông tin để đảm bảo an toàn cho người dùng. Bên cạnh đó, ý thức người dùng còn kém. Các chương trình đào tạo ở các cấp chưa quan tâm đến vấn đề giáo dục về an ninh mạng cho giới trẻ. Cuối cùng, nhiều doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng vẫn chưa đủ năng lực và nguồn lực để đưa ra một quy trình nghiêm ngặt để bảo vệ thông tin kinh doanh và thông tin khách hàng của mình. Do nguồn tài chính bị hạn chế, nhiều ngân hàng thương mại vẫn còn khó khăn trong việc triển khai các tài liệu kinh doanh được mã hóa trước khi lưu trữ trong không gian mạng. 4.3. Thảo luận kết quả Tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng làm thế nào để bảo vệ an ninh mạng trong nền kinh tế Kỹ thuật số là một vấn đề đáng lo ngại và rất nan giải. Việc triển khai hệ thống giám sát, cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin và truyền thông, người dùng Internet có hành vi đã tạo ra nhiều rủi ro và thách thức an ninh mạng trong kinh doanh trực tuyến và thanh toán giao dịch trực tuyến. Dựa trên các kết quả định tính, các báo cáo về vi phạm An ninh dữ liệu đã không bắt buộc các cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng thương mại bị sự cố phải báo cáo hay khai báo cho cơ quan, ban ngành chức năng. Ngoài ra, cộng đồng doanh nghiệp và cá nhân không được công bố nơi họ phải báo cáo các sự cố của các cuộc tấn công mạng. Cho đến nay, Chính phủ đã thành lập Trung tâm ứng phó khẩn cấp máy tính Việt Nam (VNCERT) từ năm 2017. Tuy nhiên, hầu hết người dùng Internet bình thường không nhận ra Trung tâm này ngoại trừ các chuyên gia trong lĩnh vực bảo mật mạng hoặc khoa học máy tính. Do đó, các nhà hoạch định Chính sách nên cập nhật Luật 42 Nguyễn V. Phương, Trần V. Diễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 30-44 mới trong các nghĩa vụ báo cáo, vi phạm bắt buộc và nơi công dân nên báo cáo. Kết quả này cho thấy có sự khác biệt với các nghiên cứu trước tại các Quốc gia phát triển, khi có sự cố về an ninh mạng thì họ có những quy trình nghiêm ngặt báo cáo sự cố và lực lượng phản ứng nhanh (Weiss & Jankauskas, 2018). Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi do trong vấn đề an ninh mạng tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam về cơ bản giống như cách thức mà các tin tặc thường xuyên sử dụng khi tấn công mạng (Ali et al., 2017; CRIC, 2005; DOPUK, 2013; Kaur, 2015; Pandalabs, 2012; RSA, 2016; Web, 2013). Việc các ngân hàng thương mại đã tập trung đầu tư nhất để đảm bảo đạt được đến mức độ an minh mạng trong hoạt động giao dịch ngân hàng thương mại. Kết quả này cũng giống như các nghiên cứu trước đây của (Peotta et al., 2011). Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tấn công mạng là không có phân biệt ranh giới, địa lý trên không gian mạng. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu (Christensen & Petersen, 2018). Vấn đề khác biệt trong nghiên cứu này đã làm rõ những thách thức cụ thể mà các ngân hàng thương mại phải vượt qua để đảm bảo việc thanh toán trực tuyến được thông suốt và bảo mật được thông tin cá nhân của khách hàng. Nghiên cứu cũng có những đóng góp nhất định trong khung lý thuyết xác định được các vấn đề rủi ro và thách thức có quan hệ nhân quả đối với việc đảm bảo an toàn thông tin mạng. Các cơ quan được giao quyền quản lý, kiểm soát về an toàn thông tin và an ninh mạng trong khi thực hiện nhiệm vụ chuyên trách của mình cũng như các hoạt động phòng, chống tấn công mạng; sau khi kiểm tra phát hiện các lỗ hổng của mạng máy tính tiềm ẩn những nguy cơ cao về mất an toàn an ninh mạng cũng như những lỗi của hệ thống về Công nghệ thông tin của các cơ quan, tổ chức không đảm bảo về an ninh mạng hay đã xử lý, ứng cứu một số tình huống nguy hiểm về an ninh mạng lại bị yêu cầu giữ bí mật về các vấn đề này là chưa phù hợp. Luật an ninh mạng còn đưa ra những yêu cầu bắt buộc các cá nhân, doanh nghiệp tự bảo vệ an toàn thông tin và an ninh mạng của mình và những bắt buộc về mặt Công nghệ để bảo đảm an ninh mạng nhưng chưa thật sự phù hợp với tình hình thực tế chung về mặt tài chính của toàn xã hội hiện nay như: khả năng tài chính của cá nhân, doanh nghiệp; thương mại Công nghệ hiện được bán tràn lan trên thị trường nhưng độ an toàn về chất lượng của Công nghệ chưa cao mà không có những quy định bắt buộc hay sự quản lý của Nhà nước về mặt Công nghệ nên những điều Luật này khó có thể thực thi và đi vào thực hiện. Từ kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra những thách thức, rủi ro về an ninh mạng cho người dùng Internet trong các giao dịch thương mại trực tuyến và thanh toán trực tuyến tại Việt Nam hiện nay, đồng thời cũng chỉ ra những khiếm khuyết về kiến thức an ninh mạng của người dùng Internet; một tỷ lệ không nhỏ, chiếm số đông trong xã hội cộng đồng người dân Việt Nam, họ thường xuyên tham gia vào các hoạt động trên không gian mạng nhưng họ hoàn toàn thiếu kiến thức về an ninh mạng, số người có kiến thức về an ninh mạng còn rất thấp và chưa thật sự đồng đều, thậm chí còn hiểu sai về an ninh mạng. Trước thực trạng trên, để đáp ứng được yêu cầu về phát triển Công nghệ thông tin, phát triển đất nước theo kịp nền kinh tế Kỹ thuật số của thế giới mà Chính Phủ đã đề ra. Chính Phủ cần có những giải pháp cấp bách trong giáo dục như: cần cải cách nền giáo dục hiện tại để xây dựng một chương trình giáo dục phổ cập kiến thức về An toàn thông tin và an ninh mạng cho mọi người dân trên toàn xã hội. Nhằm hạn chế tối đa việc mất an toàn thông tin, bảo đảm an ninh mạng của Quốc gia ngày càng được củng cố và bảo đảm an toàn an ninh Quốc gia trong kỷ nguyên số mới hiện nay. 5. Kết luận Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá những rủi ro và thách thức tiềm năng trong việc Nguyễn V. Phương, Trần V. Diễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 30-44 43 bảo vệ thông tin khách hàng giao dịch trực tuyến và thanh toán qua ngân hàng trực tuyến tại các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài tại Việt Nam. Các phát hiện giúp người dùng cá nhân quan tâm nhiều vấn đề riêng tư hơn và bảo vệ bản thân khỏi hành vi trộm cắp danh tính. Bên cạnh đó, kết quả cũng giúp các nhà quản lý tại các ngân hàng thương mại xây dựng chiến lược quản lý an ninh mạng để bảo vệ thông tin kinh doanh và ngăn chặn các cuộc tấn công mạng. Cuối cùng, nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng để thay đổi hệ thống pháp luật và cải thiện luật hiện hành về an ninh mạng. Hơn nữa, Chính phủ nên xem xét các khía cạnh trách nhiệm của mình trong việc cung cấp an ninh mạng như một hàng hóa và dịch vụ công. Nhìn chung, các phát hiện nêu bật một số rủi ro và thách thức thiết yếu để cải thiện an ninh mạng Quốc gia và Quốc tế trong thời gian tới khi Chính phủ muốn theo đuổi nền kinh tế kỹ thuật số. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM tài trợ trong đề tài có mã số SV2019-CPA-01. Tài liệu tham khảo Ali, L., Ali, F., Surendran, P., & Thomas, B. (2017). The effects of cyber threats on customer’s behaviour in e-banking services. International Journal of E-Education, e-Business, e- Management and e-Learning, 7(1), 70-78. doi:10.17706/ijeeee.2017.7.1.70-78 Aljawarneh, S. A. (2017). Emerging challenges, security issues, and technologies in online banking systems. In Online banking security measures and data protection (pp. 90-112). doi:10.4018/978-1-5225-0864-9.ch006 Belás, J., Korauš, M., Kombo, F., & Korauš, A. (2016). Electronic banking security and customer satisfaction in commercial banks. Journal of Security and Sustainability Issues, 5(3), 411-422. doi:10.9770/jssi.2016.5.3(9) Bell, E., & Willmott, H. (2016). Qualitative research in business and management (2nd ed.). London, UK: Sage Publications. Bossong, R., & Wagner, B. (2017). A typology of cybersecurity and public-private partnerships in the context of the EU. Crime, Law and Social Change, 67(3), 265-288. doi:10.1007/978-3- 319-63010-6 Chakravorti, B., & Chaturvedi, R. S. (2017). How Competitiveness and Trust in Digital Economies Vary Across the World. Retrieved October 5, 2020, from Choucri, N. (2019). Cyberpolitics in international relations. Cambridge, MA: MIT Press. Christensen, K. K., & Petersen, K. L. (2018). Public - private partnerships on cyber security : A practice of loyalty, 6(January), 1435-1452. doi:10.1093/ia/iix189 CRIC. (2005). Trojan redirector ups the ante in online banking attacks, cyber criminal investigation cell. Paper presented at the Crime Branch Criminal Investigation Department Mumbai India. DOPUK. (2013). Bank Distributed Denial of Service (DDoS) attacks strikes could presage Armageddon. Retrieved October 10, 2020, from DoS Protection UK website: protection.co.uk/?p=152 Eisenhardt, K. M. (1989). Building theories from case study research. The Academy of Management 44 Nguyễn V. Phương, Trần V. Diễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 30-44 Review, 14(4), 532-550. doi:10.2307/258557 Grubicka, J., & Matuska, E. (2015). Sustainable entrepreneurship in conditions of UN (Safety) and technological convergence. Entrepreneurship and Sustainability Issues, 2(4), 188-197. doi:10.9770/jesi.2015.2.4(2) https://sites.tufts.edu/digitalplanet/files/2020/03/Digital_Planet_2017_FINAL.pdf Jackson, K. (1989). Building a secure computer system. Computer Fraud & Security Bulletin, 11(8), 18-19. doi:10.1016/0142-0496(86)90071-8 Kaur, N. (2015). A survey on online banking system attacks and its countermeasures. International Journal of Computer Science and Network Security (IJCSNS), 15(3), 57-61. Kharouni, L. (2012). Automating online banking fraud. Retrieved October 12, 2020, from https://studylib.net/doc/18336044/automating-online-banking-fraud Lantis, J. S., & Bloomberg, D. J. (2018). Changing the code ? Norm contestation and US antipreneurism in cyberspace. International Relations, 32(2), 149-172. doi:10.1177/0047117818763006 Nye, J. S. (2017). Deterrence and dissuasion in cyberspace. International Security, 41(3), 44-71. doi:10.1162/ISEC_a_00266 Pandalabs. (2012). PandaLabs quarterly report. Retrieved October 15, 2020, from https://www.pandasecurity.com/en/mediacenter/src/uploads/2012/08/Quarterly-Report- PandaLabs-April-June-2012.pdf Peker, S., Tvaronavičienė, M., & Aktan, B. (2014). Sustainable risk management: Fuzzy approach to volatility and application on FTSE 100 index. Entrepreneurship and Sustainability Issues, 2(1), 30-36. doi:10.9770/jesi.2014.2.1(4) Peotta, L., Holtz, M. D., David, B. M., Deus, F. G., & Timoteo de Sousa, R. (2011). A formal classification of internet banking attacks and vulnerabilities. International Journal of Computer Science and Information Technology, 3(1), 186-197. doi:10.5121/ijcsit.2011.3113 RSA. (2016). Online fraud resource centre, inside the world of fraud and cybercrime. Retrieved October 19, 2020, from fraud/index.htm Web. (2013). Online banking fraud, online guards fighting cybercrime, online banking fraud, process and safety tips. Retrieved October 25, 2020, from Weiss, M., & Jankauskas, V. (2018). Securing cyberspace: How states design governance arrangements. Governance, 32(4), 1-17. doi:10.1111/gove.12368
File đính kèm:
- rui_ro_va_thach_thuc_an_ninh_mang_trong_linh_vuc_ngan_hang_t.pdf