Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương

TÓM TẮT: Phương ngữ Nam Bộ trên sân khấu cải lương thể hiện ở 3 bình diện ngôn ngữ:

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt. Thông qua hoạt động cải lương

trong cả vở tuồng và sân khấu, khán giả nhận biết hiện trạng tiếng Việt được thể hiện qua

giao tiếp của người Việt ở Nam Bộ. Tuy là loại hình ngôn ngữ nghệ thuật với những đặc

thù ca, kịch, ngôn ngữ cử chỉ, ; nhưng trên sân khấu cải lương, sự giao thoa giữa ngôn

ngữ đời thường với ngôn ngữ nghệ thuật hết sức đậm nét. Khi nghiên cứu phương ngữ

Nam Bộ, hoạt động giao tiếp sống động này, một thời bị bỏ qua, nên nhiều hiện tượng

phương ngữ Nam Bộ khó có thể lý giải được. Vì vậy, trên cơ sở khái quát phương ngữ, bài

viết tập trung những dẫn liệu từ hoạt động sân khấu để minh chứng sự tổng hợp hài hòa

của tiếng Việt trong giao tiếp của người dân Nam Bộ.

Từ khóa: tiếng Việt; phương ngữ; cải lương; Nam Bộ.

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 1

Trang 1

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 2

Trang 2

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 3

Trang 3

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 4

Trang 4

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 5

Trang 5

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 6

Trang 6

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 7

Trang 7

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 8

Trang 8

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 9

Trang 9

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 11240
Bạn đang xem tài liệu "Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
 PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ THỂ HIỆN QUA SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG 
 THE SOUTHERN DIALECT ON CAI LUONG 
 HUỲNH CÔNG TÍN và ĐẶNG NGỌC LỆ 
TÓM TẮT: Phương ngữ Nam Bộ trên sân khấu cải lương thể hiện ở 3 bình diện ngôn ngữ: 
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt. Thông qua hoạt động cải lương 
trong cả vở tuồng và sân khấu, khán giả nhận biết hiện trạng tiếng Việt được thể hiện qua 
giao tiếp của người Việt ở Nam Bộ. Tuy là loại hình ngôn ngữ nghệ thuật với những đặc 
thù ca, kịch, ngôn ngữ cử chỉ,; nhưng trên sân khấu cải lương, sự giao thoa giữa ngôn 
ngữ đời thường với ngôn ngữ nghệ thuật hết sức đậm nét. Khi nghiên cứu phương ngữ 
Nam Bộ, hoạt động giao tiếp sống động này, một thời bị bỏ qua, nên nhiều hiện tượng 
phương ngữ Nam Bộ khó có thể lý giải được. Vì vậy, trên cơ sở khái quát phương ngữ, bài 
viết tập trung những dẫn liệu từ hoạt động sân khấu để minh chứng sự tổng hợp hài hòa 
của tiếng Việt trong giao tiếp của người dân Nam Bộ. 
Từ khóa: tiếng Việt; phương ngữ; cải lương; Nam Bộ. 
ABSTRACTS: The Southern dialect on Cai Luong stage is expressed in three levels of 
language: phonetics, vocabulary, grammar and also on the level of expressive style. 
Through the work of Cai Luong in both plays and stage - audience is aware of the status of 
Vietnamese language expressed through the communication of the South people. Although 
it is the type of language arts with particularities, drama, language body...; but on the 
stage of Cai Luong, the interference between normal language and art language is very 
bold. When studying the Southern dialect, this lively communication activity, once ignored, 
so many Southern dialects phenomenon can not explain. Thus, on the basis of the general 
dialect, the article focuses on the material from the stage activities to illustrate the 
harmonious synthesis of Vietnamese in the communication of the South people. 
Key words: Vietnamese; dialect; cai luong; Southern. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ thành phần soạn giả và nghệ sĩ diễn viên, 
 Dù trải qua nhiều thăng trầm, cải lương hầu hết đều sinh trưởng trên đất Nam Bộ, 
vẫn tồn tại và mang lại cho người dân Nam nên ngôn ngữ giao tiếp ảnh hưởng sâu đậm 
Bộ những giá trị tinh thần vô giá - một đến loại hình nghệ thuật cải lương, khiến 
trong những giá trị hiện thực đó là dấu ấn đặc trưng phương ngữ Nam Bộ trở thành 
phương ngữ Nam Bộ được thể hiện rõ nét nét phong cách của loại hình nghệ thuật đặc 
qua từng vở diễn trên sân khấu. Do cả hai thù này. Bởi đó, trong yêu cầu bản tuồng 
 TS. Trường Đại học Văn Lang, Mã số: TCKH12-10-2018 
 PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, dangngocle@vanlanguni.edu.vn 
 41 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
của soạn giả và cả trong nghệ thuật ca nói 2) Hiện tượng bỏ âm đệm, được viết “-o-, 
của diễn viên, ngay cả những diễn viên cải -u-”, không phải lúc nào cũng diễn ra, trừ phi 
lương ở miền Bắc theo đuổi nghiệp cầm ca, chúng không gây rắc rối về nghĩa. Hiện tượng 
tính chất phương ngữ Nam Bộ luôn được này được lưu giữ có điều kiện. Chẳng hạn: 
xem là một “yêu cầu” nghệ thuật ngôn ngữ “tuy” được giữ để phân biệt với “ti”, “thúy” 
cần được chú trọng. được giữ để phân biệt với “thí”, “Loan” được 
2. NỘI DUNG giữ để phân biệt với “Lan”, bằng hình thức 
 Phương ngữ Nam Bộ khác với tiếng chuyển âm, nghe gần với -o-, nhưng vẫn còn 
Việt toàn dân, thể hiện rõ ở bình diện ngữ giữ được âm sắc của chính âm -a-; 
âm trong lời nói và từ vựng trên văn bản. 3) Hiện tượng chuyển đổi nguyên âm 
Ngoài hai đặc điểm ấy, sự khác biệt ngữ hẹp được viết “-i-, -ê-”, thể hiện đồng nhất 
pháp trong một số phát ngôn và cách thức thành -i- [5, tr.48-53], và chính âm chuyển 
diễn đạt cũng là một đặc trưng đáng lưu sắc được viết: “-ia-, -iê-, -ua-, -uo-, -ưa-, -
tâm. Nghiên cứu phương ngữ, không thể bỏ ươ-”, phát âm thành những biến thể dài, 
qua các bình diện này. nhưng vẫn còn lưu giữ âm sắc của thành tố 
2.1. Về phương diện ngữ âm cuối, nên nghe ra vẫn giữ được sự tri nhận 
 Khái quát phương ngữ Nam Bộ có thể thông tin, có phần “điệu đà” hơn?; 
thấy sự đồng nhất nhiều phụ âm đầu và cuối, 4) Đặc biệt, những hiện tượng chung 
nguyên âm, thanh điệu, trong phát ngôn. âm [6, tr.52-553] đồng nhất cần được ghi 
Hiện tượng này có thể gây ít nhiều trở ngại nhận như những đặc trưng chính trên bình 
trong giao tiếp. Nhưng giao tiếp nói đã có diện ngữ âm phương ngữ Nam Bộ cũng 
hoàn cảnh giao tiếp hỗ trợ, như những tiền xuất hiện trên ngôn ngữ sân khấu, ở các 
giả định cần thiết, nên không gây sự nhầm trường hợp: “-n và -ng, -t và -c, -i và -y, -u 
lẫn thông tin. Trái lại, hiện tượng đồng nhất và -o”. Tuy nhiên, nhiều nghệ sĩ khi ca có 
tạo nên hiện tượng đồng âm nên câu ca, chú ý làm rõ sự khác biệt ngữ âm này, nhất 
giọng nói có sự hòa nhập, hài hòa thanh vận là ở 2 cặp âm: “-i và -y, -u và -o”; 
nhiều hơn, lại phù hợp với thơ ca và đặc biệt 5) Việc dùng từ biến âm so với từ toàn 
là với nghệ thuật sân kh ...  khoáng, tự do, không còn kiểu câu chung vở tuồng tạo được sự yêu thích của 
6/8 mà trở thành câu 7/10: “Hò... ơ... ơ... ờ... ờ... riêng công chúng Nam Bộ, bởi nghệ thuật mà 
Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ... ờ... ờ... ờ... Điêu Huyền lựa chọn thể hiện lại phù hợp 
Mùng ai có rộng... ờ... ờ... ờ... cho tôi ngủ nhờ với tâm lý và cách nói năng, suy nghĩ đậm 
một đêm... ờ... ờ...”; hay một câu dài trong lục chất màu đặc trưng phương ngữ Nam Bộ. 
bát biến thể, không còn “ý nhị”, mà rất “thẳng 2.3. Về phương diện ngữ pháp 
thắn, bộc trực”: “Hò... ơ... ơ... ờ... ờ... Nhơn phi Tuy không nhiều đặc trưng riêng Nam 
 Bộ được thể hiện, nhưng không phải là 
 45 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
không có. Đặc điểm ngữ pháp thường được của người viết) cái miệng đi thì vừa (+). Cái 
nhận dạng qua các lớp: từ chỉ ngôi ba rút giọng của mày cay đắng thiệt khó ưa (+). 
gọn: ổng (ông ấy), ảnh (anh ấy), thẩy (thầy Làm ăn thì thiếu mà nói năng lại thừa (+). 
ấy), dỉ (dì ấy); đại từ chỉ không gian: Thừa: Ủa, tui lãnh xác chớ đâu có 
trỏng (trong ấy), ngoải (ngoài ấy), trển (trên lãnh làm buổi đứng (+). Rồi công rồi (+) 
ấy); từ chỉ quan hệ họ hàng: cậu, mợ, dì, thì tui nghỉ khỏe là quyền của tui (+). 
dượng, chú, thím; từ chỉ tên thứ + tên gọi: Cặp rằn Lựu: Mày rảnh thì đi chỗ khác 
Tư Hậu, Hai Chơn, Ba Chất, Sáu Điều và mà chơi (+). Ở đây hông phải chỗ để mày 
lớp đại từ, phụ từ, những từ biến âm: mậy, khơi tâm tình (+). 
tui. qua, bậu, bây; ê, hông, hôi, he, coi; Thừa: (cười) He he Ủa lạ thật he. 
(ngay) đơ, (ngay) bân, (ngay) trân Ở đây sao có luật lệ gì mà gắt mấu quá 
 Xét vở tuồng Tiếng Hò sông Hậu, một vậy? Làm thì nặng, ăn thì nhẹ, nói thì bị 
hệ thống nhân vật Nam Bộ hiện lên với đầy cấm khẩu. Chết còn sướng hơn! 
đủ những tính cách điển hình khác nhau, Hội đồng Dư: Nước ròng cầu xa bến 
thông qua những cái tên. Những cái tên quá làm sao đây? Bây đâu (Dạ), có đứa 
nhân vật được tác giả vận dụng triệt để nào kêu thằng cặp rằn Lựu xuống đây 
nhằm khái quát bản chất của họ. Chẳng cõng tao lên coi? 
hạn: ông Hội đồng tên Dư (là chức vụ dư Cặp rằn Lựu: Kìa, ông chủ xuống. Ê 
thừa, chẳng có vai trò gì có ích cho làng, tên Thừa, mày xuống bến cõng ông Hội lên 
xã; ngoài những việc làm ăn hại!). Cặp rằn dùm tao coi mậy. 
Lựu thì mưu mô, gian xảo, thâm độc (đúng Thừa: Ê, tui đâu có biết cõng. Chú lòn 
là đồ “Lựu đạn”!) Thím Tư Hậu thì “nhân cúi quen rồi, cái lưng chú mềm dẻo 
hậu, hiền lành chơn chất”. Anh Thừa thì cõng êm hơn.” [7, tr.225-289]. 
“làm ăn thì thiếu, mà nói năng lại thừa” [6, 2.4. Về phong cách diễn đạt 
tr.52-553] và còn “thừa nghĩa khí, thừa tình Trên phương diện giao tiếp, ngôn ngữ 
nghĩa”. Ba người con của thím Tư Hậu được vận dụng thể hiện tổng hòa các bình 
“Hai Chơn, Ba Chất, Tư Thiệt” thì “siêng diện của nó, góp phần làm cho người nghe 
năng, chất phác, thật thà; trọng tình nghĩa, tiếp nhận được một đặc trưng phong cách 
cương trực ngay thẳng...” Ngần ấy những văn bản: vừa mang đặc điểm chung của 
con người góp phần thể hiện được những ngôn ngữ vùng miền, vừa mang dấu ấn tinh 
tính cách khác biệt, mang dấu ấn đặc trưng thần của người Nam Bộ với những đặc 
của một xã hội làng xã Nam Bộ. Đặc biệt, trưng vốn được thừa nhận. 
tính điển hình ở đây được thể hiện rõ nét Với vở hương xa Tiếng hạc trong 
qua ngôn ngữ nhân vật rất gần gũi với cách trăng của đôi soạn giả tên tuổi Loan Thảo-
nói năng thường nhật của người Nam Bộ, Yên Ba, tên thật Nguyễn Tấn Vị (1943-
như đoạn đối thoại ca, nói của các nhân vật: 1982), sinh tại Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. 
 “Cặp rằn Lựu: Thằng Thừa mày tốp Ông là một trong những soạn giả tài danh 
bớt (các từ ngữ thuộc phương ngữ Nam Bộ có số lượng và chất lượng sáng tác tuồng 
được in đậm để nhấn mạnh, theo chú giải tích sân khấu lẫn Vọng cổ trong một thời 
 46 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
gian ngắn hơn hẳn nhiều soạn giả khác. Thiếu Quân: Rầy cái gì, người ta bỏ rồi mà. 
Ngoài những mảng xã hội, lịch sử, hương Xuyên Lan: Sao người ta cất nhà, 
xa (mảng thể tài được đánh giá là thành người ta hổng ở, người ta bỏ đi vậy anh? 
công vượt trội so với các soạn giả đương Thiếu Quân: Ờ mờ Chắc tại ở đây 
thời), nhiều tác phẩm còn mang sắc thái Hồ làm ăn hổng khá cho nên người ta phải đi 
Quảng. Soạn giả Yên Ba (tên thật Nguyễn nơi khác tìm kế sinh nhai. 
Hữu Giác, sinh năm 1941, quê quán tỉnh Xuyên Lan: Đi chỗ khác người ta giàu hông? 
Bình Thuận. Trong giới soạn giả Cải lương Thiếu Quân: Ờ Giàu chớ! 
Sài Gòn trước năm 1975) là một trong Xuyên Lan: Sao anh biết? Anh có gặp 
những soạn giả trẻ nổi tiếng chuyên viết về người ta hông? 
đề tài tâm lý xã hội. Ông viết khoảng 20 Thiếu Quân: Ơ Trời ơi, làm sao em 
vở, có những vở từng gây tiếng vang lớn hỏi cù nhây cù nhưa hoài vậy. Nè anh đã 
trên sân khấu Cải lương những năm 60-70, nhen bếp lửa hồng rồi nè, em xích lại gần 
tiêu biểu nhất là vở Tiếng hạc trong trăng đây mà sưởi ấm đôi tay đi! 
viết chung với Loan Thảo. Tuy không phải Xuyên Lan: Dạ! 
vở tuồng Việt Nam, nhưng yếu tố ngôn từ Thiếu Quân: Hừ m 
của phương ngữ Nam Bộ được soạn giả Xuyên Lan: Sao anh lại thở dài? 
dùng trong vở tuồng góp phần thành công Đoạn trích trên cho thấy, tất cả đều được 
rất lớn cho việc phản ánh hiện thực vùng thể hiện dưới dạng giao tiếp mang đặc trưng 
đất và con người Nam Bộ. Với kinh phương ngữ Nam Bộ. Riêng trong tâm sự 
nghiệm soạn tuồng của hai ông, không hề thể hiện trạng thái lãng mạn yêu đương của 
có sự bất cẩn trong việc dùng ngôn ngữ đối Bình Thiếu Quân với Xuyên Lan, soạn giả 
thoại cho nhân vật và ngôn từ hình ảnh để đã dùng bản “Khốc hoàng thiên” 12 câu, 
viết lời ca, như trường hợp đoạn đối thoại, nhịp 2 với ngôn ngữ hình ảnh sinh động và 
vừa nói vừa ca; vừa thực tế, vừa rất lãng với hầu hết các nghệ sĩ có thủ diễn 2 vai này, 
mạn giữa hai nhân vật Bình Thiếu Quân và họ đều ca với chất giọng Nam Bộ, khán giả 
Xuyên Lan. Tuy Xuyên Lan mù, nhưng Nam Bộ dường như mới cảm nhận được hết 
nhạy cảm của người con gái đã làm cho “độ muồi” của các câu ca thể hiện tình cảm, 
chàng trai sớm yêu thầm đứa em gái nuôi, tình yêu lãng mạn; mà chàng trai Thiếu 
cảm thấy “lúng túng” trước những lời mộc Quân đã âm thầm, mãnh liệt dành cho cô em 
mạc “thật tình” của Xuyên Lan: [Nói] gái nuôi của mình. Đây là đoạn ca [Khốc 
 “Xuyên Lan: Bình Thiếu Quân ơi! Còn hoàng thiên] 12 câu, nhịp 2: 
mưa hông anh? “Thiếu Quân: Nhìn mà thương làm sao 
 Thiếu Quân: Ờ mưa lắc rắc thôi. mười ngón 
 Xuyên Lan: Em lạnh quá hà! 1. tay, như ngà trau ngọc chuốt. 
 Thiếu Quân: Để anh đốt lửa cho em 2. Vẫn hồng tươi dầu giá buốt. 
sưởi, rồi anh đi nghen. 3. Ôi gió nào là dây vũ dây văn, 
 Xuyên Lan: Đốt lửa trong nhà người 4. Ôi mưa bay là giọng sắc giọng cầm. 
ta, người ta hổng rầy sao? Xuyên Lan: 5. Hai tay anh dường có vẻ run, 
 47 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
 6. Anh có xúc động chuyện gì không? vàng theo mùa tuyệt vọng. Cây xuân thì 
 Thiếu Quân: 7. Anh quý em hơn lụa chỉ còn trơ trọi cành xương (xê)(-) (Ký 
the vàng ngọc. hiệu ghi thanh âm nhạc cổ và điệu gõ song 
 8. Đừng ai đổi công hầu tướng khanh. lang - Chú thích của người viết). Bỗng một 
 Xuyên Lan: 9. Có phải anh đang mơ lần sơ ngộ giữa chòi hoang. Em nghe cành 
mộng hão huyền xuân tươi lại hoa xuân trổ (hò). Nhưng đó 
 10. Để lửa bừng làm rát cả tay em. chỉ là một mùa xuân hiu quạnh. Vì chim 
 Thiếu Quân: 11. Ý, trời ơi, bởi nhìn yến chim oanh vẫn còn biệt dạng phương 
em anh quên bếp lửa hồng. trời (xề)(-)” [12]. 
 Xuyên Lan: 12. Em đui mù anh trêu Còn đây là ngôn ngữ của những người 
tức làm chi” [12]. Rồi lại [Nói] trải đời, ngôn ngữ của thi văn hòa cùng 
 Thiếu Quân: Đâu có, đâu có. Anh nói nhạc họa được thể hiện qua đoan đối thoại 
thiệt, chớ trêu tức em làm chi. Thôi, em có nói, có ca của tướng cướp Thi Đằng và 
ngồi đây, đừng đi đâu à nghen hôn. Em đi, thần y Bình Đông Trạch, về việc công tử 
về hông có em, anh dám khóc lắm à. Bình Thiếu Quân bỏ nhà ra đi. Phong cách 
 Xuyên Lan: Anh là con trai mà khóc cái gì? diễn đạt vẫn đậm chất Nam Bộ: 
Nhưng mà anh ơi, anh bỏ em một mình sao?” [12]. “Thi Đằng: Còn công tử đâu? 
 Có những yếu tố ngôn ngữ thật bình dị, Đông Trạch: Bình Thiếu Quân con tôi đó hả? 
thường ngày, đậm chất Nam Bộ, như: “Ờ Thi Đằng: Dạ! 
mưa lắc rắc thôi; hổng rầy sao; rầy cái gì, Đông Trạch: A Nó đã bỏ nhà đi hai 
người ta bỏ rồi mà; hổng ở, hổng khá, giàu bữa nay rồi. 
hông, gặp người ta hông, hông có em; cù Thi Đằng: Ủa Cậu ấy buồn chuyện 
nhây cù nhưa, nghen hôn, sao anh lại thở gì? À Hay là tại núi rừng này hiu 
dài”, lại rất duyên dáng với ngôn ngữ, quạnh lắm chăng? 
hình ảnh của lời ca. Đông Trạch: Không, có lẽ từ hôm nay 
 Đó còn là ngôn ngữ giàu hình tượng, núi rừng mới bắt đầu hiu quạnh, vì không 
ngôn ngữ của thơ ca, ngôn ngữ của “ý tại còn nghe giọng hát của Thiếu Quân. Mỗi 
ngôn ngoại”, dùng ngoại cảnh để diễn đạt bình minh nắng sớm tạt hương rừng, 
nội tâm. Như ngôn ngữ của cô gái mù cảm sương mỏng thoáng cuốn lời chim theo gió. 
nhận về thời gian và tình yêu qua câu Vọng Mỗi hoàng hôn khi chân trời vừa tắt lửa. 
cổ: “Tô huynh ơi, em đã bất hạnh mất đi Tiếp đến là một khúc ca [Nam xuân] 
nguồn ánh sáng. Không thấy cánh hoa đào lớp 1, 8 câu, nhịp 4 da diết: 
nở rộ đón tin xuân. Không thấy đông thiên Đông Trạch: 1. Không còn nghe dìu 
hoa tuyết rụng ngập đường. Nghe khoắc dặt tiếng tơ reo Ru trăng rừng, ngủ 
khoải giọng ve sầu mới hay trời sang hạ. cùng sương lam. 
Chờ một cơn gió heo may nhè nhẹ, em 2. Bếp lửa cũng mừng reo. Chập 
tưởng tượng một mùa thu với trăm xác chờn bóng múa theo. 
lá ngô... đồng (hò). Nỗi buồn thu đi chầm 3. Chốn lâm sơn xuân vẫn mỹ miều. 
chậm trong lòng (hò). Lá xuân thì đã Trong một mái tranh nghèo. 
 48 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
 4. Nay, nó đã treo đàn, để tơ vàng vững mà ổng rơi xuống sình thì khốn à!” 
nhện giăng. [7, tr.225-289]. Cái lưng “ngay đơ” chính 
 Thi Đằng: 5. Hay sông hồ đã lên là sự ngay thẳng, không dễ gì khuất phục. 
tiếng, réo gọi tuổi xuân thời. Về tinh thần lạc quan, tuy thiếu tiền, 
 6. Nên cậu chán rừng này, dấn vật chất và phía trước là con đường tối, 
thân vào cõi xa. nhưng họ vẫn luôn yêu đời. “Nhằm nhè gì! 
 Đông Trạch: 7. Tất cả cũng tại tôi Từ năm đó, tao với chú Ba Thạch Sên lãnh 
ngày kia lâm bạo bịnh. Tôi kêu nó lại án mỗi người 6 tháng. Mãn tù ra, lại quảy 
mà trối trăn. nóp tha hương. Người ta là “nghệ sĩ giang 
 8. Bảo Xuyên Lan không phải là em hồ điếm cỏ cầu sương”. Mình là nông dân 
ruột. Nó mới sanh động tà tâm” [12], nghèo tứ cố vô thân” [7, tr,225-289]. 
 Mặt khác, xét trên bình diện tính cách 3. KẾT LUẬN 
người Nam Bộ, như: “dân tứ chiếng, dọc Trên phương diện thực tiễn, khảo sát 
ngang; tư tưởng cởi mở, phóng khoáng; tính phương ngữ Nam Bộ từ ngôn ngữ sinh hoạt 
cách hào hiệp, trọng nghĩa; tấm lòng nhân đời thường ưu điểm là có được chất liệu 
hậu, thủy chung; tinh thần lạc quan, yêu hiện thực sinh động; nhược điểm là lượng 
đời” [15], trong vở tuồng Tiếng hò sông mẫu khảo sát ít ỏi, không đồng nhất khiến 
Hậu, các nhân vật Nam Bộ đã bộc lộ đầy đủ việc khái quát tính điển hình của đặc trưng 
những phẩm chất này, thông qua ngôn ngữ: trở nên thiếu thuyết phục. Khảo sát phương 
 Về tư tưởng cởi mở, phóng khoáng, có ngữ ở bình diện nghệ thuật văn chương, 
thể hình dung qua lời đối đáp của anh Thừa bao gồm thơ văn, đôi khi sự sáng tạo và hư 
với cặp rằn Lựu: “ Thì tui kể như là thả cấu của tác giả làm cho văn bản thiếu chất 
trôi sông, xách biếu mười ngày công. Kể trung thực chừng mực nhất định. May thay, 
như làm không công cho Thổ địa, Thổ việc khảo sát thực tiễn phương ngữ Nam 
thần. Vui chơi với vắt đỉa, muỗi mòng ba Bộ còn có thể được khai thác trong nguồn 
đêm cùng bè bạn giao du. Rồi quảy nóp đi văn học dân gian; đặc biệt là trong kho tàng 
đều, từ Rạch Gòi, Lịch Hội Thượng hay tuồng tích sân khấu cải lương Nam Bộ, cho 
Bãi Giá, Cổ Cò” [7, tr.225-289]. thấy được một điểm mới, có sự hoàn thiện 
 Về tính cách hào hiệp, trọng nghĩa, hơn. Bởi trong cải lương, cuộc đời thực 
qua hình tượng nhân vật Thừa, người xem như được tái tạo lại trên sân khấu, vừa 
nhận ra một người nghĩa khí cương trực, mang tính hiện thực sắc nét, vừa khái quát 
không sống luồn cúi trước cường quyền, được nghệ thuật điển hình nhân vật thông 
biết dùng những lời mỉa mai châm biếm để qua việc khắc họa ngôn ngữ thể hiện lại 
đánh thẳng vào cặp rằn Lựu, tên tay sai đắc tính cách và tâm lý của họ; đồng thời, trước 
lực của Hội đồng Dư, khi hắn nhờ anh khi được biểu diễn, dù muốn hay không vở 
xuống bến sông cõng Hội đồng Dư lên bờ: diễn đã được “phê duyệt”, bởi một hội 
“ Cái lưng tui ngay đơ, ổng ngồi không đồng nghệ thuật khách quan đáng tin cậy. 
 49 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Văn Ái (Chủ biên) (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
[2] Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước – Phương ngữ học, Nxb 
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[3] Đỗ Dũng (2007), Âm nhạc Cải lương - Tính năng, giai điệu, Nxb Sân khấu. 
[4] Đỗ Dũng (2013), Đặc điển của ngôn ngữ ca từ Vọng cổ, Nxb Văn hóa-Văn nghệ. 
[5] Cao Xuân Hạo (1978), Số phận của các vần có nguyên âm hẹp qua các phương ngữ lớn 
của Việt Nam, Thông báo Ngữ âm học, Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
[6] Cao Xuân Hạo (1988), Hai vấn đề âm vị học của phương ngữ Nam Bộ, Tạp chí Ngôn ngữ số 1. 
[7] Điêu Huyền (2016), Tiếng hò sông Hậu, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh, 
Tuyển tập kịch bản sân khấu, quyển 2, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Nguyễn Như Ý, Đặng ngọc Lệ, Phan Xuân Thành (1999), Từ điển đối chiếu từ địa 
phương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[9] Trần Văn Khê (2004), Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb Trẻ. 
[10] Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[11] Xuân Phong (2016), Rạng ngọc Côn Sơn, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí 
Minh, Tuyển tập kịch bản sân khấu, quyển 3, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[12] Loan Thảo - Yên Ba, Tiếng hạc trong trăng, tư liệu được xả băng từ vở tuồng được 
ghi âm trên https://www.youtube.com/watch?v=mpmnWm8iOWc. 
[13] Vương Hồng Sển (2007), Hồi ký 50 năm mê hát, Nxb Trẻ. 
[14] Huỳnh Công Tín (2009), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[15] Huỳnh Công Tín (2012), Ấn tượng văn hóa đồng bằng Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[16] Huỳnh Công Tín (2013), Tiếng Sài Gòn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[17] Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa Nam Bộ qua phương ngữ, Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
[18] Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Tuyển tập kịch bản sân 
khấu, quyển 1, 2, 3, 4. Nxb Văn hóa - Văn nghệ. 
[19] Nhiều tác giả (2014), Nghệ thuật âm nhạc phương Đông: Bản sắc và giá trị, Nxb Đại 
học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh. 
 Ngày nhận bài: 26-9-2018. Ngày biên tập xong: 25-10-2018. Duyệt đăng: 28-11-2018 
 50 

File đính kèm:

  • pdfphuong_ngu_nam_bo_the_hien_qua_san_khau_cai_luong.pdf