Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội

Tóm tắt: Những diễn biến bất thường gần đây về xói, bồi, dao động chủ lưu trong lòng dẫn sông

Hồng chủ yếu là do sự thay đổi của chế độ dòng chảy từ thượng lưu, trong đó yếu tố quan trọng

là sự điều tiết của hồ chứa nhà máy thủy điện Hoà Bình trên sông Đà, nhà máy thủy điện Thác

Bà trên sông Chảy và gần đây là nhà máy thủy điện Tuyên Quang trên sông Lô. Sự điều tiết đó

đã gây ra xói lan truyền lòng dẫn, từ đó tạo nên một quan hệ hình thái lòng dẫn mới. Xu thế biến

đổi lòng dẫn sông Hồng hiện nay đang diễn ra theo hướng bất lợi cho ngành nông nghiệp, giao

thông và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Hồng nói chung và thủ đô

Hà Nội nói riêng. Bài báo giới thiệu một số kết quả nghiên cứu quá trình biến đổi lòng dẫn sông

Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm Thủy văn Hà Nội thông qua số liệu đo đạc thực tế hàng năm.

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 1

Trang 1

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 2

Trang 2

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 3

Trang 3

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 4

Trang 4

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 5

Trang 5

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 6

Trang 6

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 7

Trang 7

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 17080
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội

Phân tích diễn biến lòng dẫn sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn Hà Nội
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 1
PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN LÒNG DẪN SÔNG HỒNG 
ĐOẠN TỪ SƠN TÂY ĐẾN TRẠM THỦY VĂN HÀ NỘI 
Nguyễn Hữu Huế 
Khoa Công trình - Trường Đại học Thủy lợi 
Tóm tắt: Những diễn biến bất thường gần đây về xói, bồi, dao động chủ lưu trong lòng dẫn sông 
Hồng chủ yếu là do sự thay đổi của chế độ dòng chảy từ thượng lưu, trong đó yếu tố quan trọng 
là sự điều tiết của hồ chứa nhà máy thủy điện Hoà Bình trên sông Đà, nhà máy thủy điện Thác 
Bà trên sông Chảy và gần đây là nhà máy thủy điện Tuyên Quang trên sông Lô. Sự điều tiết đó 
đã gây ra xói lan truyền lòng dẫn, từ đó tạo nên một quan hệ hình thái lòng dẫn mới. Xu thế biến 
đổi lòng dẫn sông Hồng hiện nay đang diễn ra theo hướng bất lợi cho ngành nông nghiệp, giao 
thông và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Hồng nói chung và thủ đô 
Hà Nội nói riêng. Bài báo giới thiệu một số kết quả nghiên cứu quá trình biến đổi lòng dẫn sông 
Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm Thủy văn Hà Nội thông qua số liệu đo đạc thực tế hàng năm. 
Từ khóa: sông Hồng, xói sâu, hạ thấp lòng dẫn, xói lở bờ sông. 
Summary: The recent unusual changes in erosion, sedimentation and the direction of main flow 
of the Red River are mainly due to the change of flow regime from upstream, in which the 
important factor is the regulation of the reservoirs, including Hoa Binh hydropower plant on Da 
river, Thac Ba hydropower plant on Chay river and recently Tuyen Quang hydropower plant on 
Lo river. That regulation has caused widespread erosion, thereby creating a new morphological 
relationship. The current trend of changing the Red River is taking place in the direction of 
disadvantage for the agricultural sector, transportation and socio-economic development 
activities of the Red River Delta in general and Hanoi capital in particular. The article 
introduces some research results of the process of transforming the bed of Red River from Son 
Tay to the Hanoi Hydrological station through actual annual measurement data. 
Key words: Red river, deep erosion, lowering river bed, river bank erosion. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Theo quy luật của tự nhiên, lòng sông Hồng 
liên tục biến đổi và phát triển qua nhiều giai 
đoạn khác nhau. Đặc biệt là sau khi đập thủy 
điện Hòa Bình đi vào hoạt động từ những năm 
90 của thế kỷ 20, dòng sông Hồng đoạn chảy 
qua Thành phố Hà Nội có những biến động 
khá phức tạp. Đó là hiện tượng xói lở bờ sông, 
bồi tụ đáy sông làm thay đổi dòng chảy có 
nguy cơ đe dọa đến sự ổn định của hệ thống đê 
điều của thành phố. Trong quá trình biến đổi 
Ngày nhận bài: 28/3/2019 
Ngày thông qua phản biện: 22/4/2019 
Ngày duyệt đăng: 26/4/2019 
và phát triển, có cả những tác động mang tính 
tự nhiên và do con người gây ra. Hiện nay, 
sông Hồng đang bị uốn khúc theo xu thế phát 
triển của lòng dẫn, sông ngày càng trở nên 
cong hơn. Hiện đã xuất hiện thêm đỉnh cong 
mới tại khu vực bãi Tráng Việt, huyện Mê 
Linh. Đỉnh cong tại bãi Tầm Xá vẫn chưa 
được khống chế, có xu thế phát triển mạnh gây 
xói lở tại khu vực đường bờ chưa được gia cố. 
Thế sông mới hiện nay không thuận lợi cho 
hoạt động giao thông thủy, lấy nước trong 
nông nghiệp, ổn định đường bờ và phát triển 
đô thị. 
Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 2
sự biến động lòng dẫn sông Hồng là hiện 
tượng xói lở bờ sông tại nhiều vị trí thuộc 
bờ hữu sông Hồng. Theo thống kê của Sở 
Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, trong năm 
2017, trên địa bàn Thành Phố đã xảy ra 60 
sự cố đê điều - thủy lợi, gây thiệt hại 
khoảng 95 tỷ đồng. 
Hình 1: Sạt lở nghiêm trọng tại khu vực kè Xuân 
Phú, huyện Phúc Thọ (Báo đô thị, 02/2018) 
Hình 2: Sợt lở nghiêm trọng tại khu vực kè 
Thọ An, huyện Đan Phượng (ảnh chụp 2017) 
Bài báo này trình bày các kết quả bước đầu về 
phân tích biến động lòng dẫn sông Hồng qua 
các giai đoạn từ các số liệu đo đạc mặt cắt 
ngang lòng dẫn sông Hồng. Kết quả phân tích 
sẽ là bức tranh tổng thể về sự biến động lòng 
dẫn sông Hồng Hà Nội và là cơ sở để tìm ra 
các giải pháp ổn định lòng dẫn sông. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phân tích hiện trạng và đánh giá biến động 
lòng dẫn sông Hồng Hà Nội từ các số liệu đo 
thực tế là một công việc phức tạp bởi đòi hỏi 
khối lượng tài liệu chi tiết, liên tục và độ tin 
cậy cao. Ngoài ra, công tác biên tập, chỉnh lý 
số liệu cũng đòi hỏi yêu cầu về mặt kỹ thuật và 
thời gian. Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả 
đã sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: 
Phương pháp tổng hợp, thống kê, kế thừa: Tổng 
hợp, thống kê tất cả các tài liệu về địa hình, địa 
chất, thủy văn khu vực nghiên cứu. Đối với tất 
cả các mặt cắt ngang sông Hồng được thu thập 
sẽ được chồng ghép với nhau nhằm đưa ra xu 
hướng chung trong vấn đề biến động lòng dẫn 
sông Hồng khu vực Hà Nội. 
Phương pháp phân tích tài liệu: Tất cả các tài 
liệu sau khi được biên tập, chỉnh lý sẽ được sử 
dụng để phân tích nhằm đưa ra các luận điểm 
mang tính định lượng và có sức thuyết phục cao. 
Phương pháp ảnh vệ tinh: Sử dụng ảnh vệ 
tinh để nghiên cứu và đánh giá biến động lòng 
dẫn, hình thái sông Hồng trên mặt bằng ở thời 
điểm hiện tại và qua các thời điểm lịch sử. 
3. TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU VÀ KHU 
VỰC NGHIÊN CỨU 
3.1. Tài liệu nghiên cứu 
Toàn bộ các tài liệu địa hình đo vẽ mặt cắt ngang 
sông Hồng được thu thập từ Vụ quản lý đê điều - 
Tổng Cục phòng chống thiên tai. Số liệu được 
cập nhật liên tục từ năm 2001 đến 11/2018. 
Toàn bộ tài liệu mặt cắt ngang được biên tập 
và chồng ghép theo đúng tọa độ và các mốc 
khảo sát. Quá trình chập mặt cắt ngang cho 
thấy: các mốc đê ở hai phía bờ tả và bờ hữu là 
hoàn toàn khớp nhau về cao độ và hình dạng. 
3.2. Khu vực nghiên cứu 
Sông Hồng đoạn từ Sơn Tây đến trạm thủy văn 
Hà Nội có tổng chiều dài trên 50 km có nhiều 
bãi bồi, bị phân lạch và uốn khúc với nhiều đỉnh 
mới đang trong xu thế phát triển. Một số bãi giữa 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 3
nằm trên đoạn sông như bãi Võng La, bãi 
Thượng Cát, bãi giữa Phú Gia Đoạn sông 
nghiên cứu được đánh giá là chưa ổn định và 
liên tục biến đổi trong những năm gần đây. 
Phạm vi nghiên cứu từ Sơn Tây đến trạm thủy 
văn Hà Nội nằm trong phạm vi mặt cắt ngang 
đo vẽ từ mặt cắt số 44 (SHG 44) đến mặt cắt 
số 84 (SHG 84). 
Tổng thể về khu vực nghiên cứu và vị trí các 
mặt cắt ngang sông Hồng đo đạc hàng năm 
được trình bày chi tiết như hình bên dưới: 
Hình 3: Vị trí các mặt cắt ngang sông Hồng 
 đo đạc hàng năm
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Lòng dẫn sông Hồng liên tục bị xói sâu 
với tốc độ đáng báo động 
Nhìn một cách tổng thể, xu thế biến đổi lòng 
dẫn sông Hồng hiện nay đang diễn ra theo xu 
thế như sau: 
- Xói sâu vẫn là xu thế phát triển chung của 
lòng dẫn sông Hồng Hà Nội hiện nay và trong 
tương lai nếu không có các giải pháp kịp thời. 
Mức độ xói sâu hiện tại và trong tương lai vẫn 
sẽ từ 0,5 ÷ 1,0 m/năm, tùy thuộc vào điều kiện 
thủy lực, hình thái, địa chất và yếu tố công 
trình chỉnh trị tại khu vực đó. 
- Khu vực lòng dẫn sông Hồng đoạn từ trạm 
thủy văn Sơn Tây đến qua cống Cẩm Đình, do 
dòng chảy tương đối thẳng, nằm ở giữa bờ tả 
và hữu nên lòng dẫn ít bị biến động hơn. Tốc 
độ hạ thấp ở mức độ nhẹ hơn, chỉ ở mức 
khoảng từ 0,25 ÷ 0,5 m/năm. 
Hình 4: Xu thế hạ thấp lòng dẫn sông Hồng tại mặt cắt SHG44 
Tại mặt cắt SHG44 lòng dẫn sông Hồng có 
xu hướng hạ thấp đáng kể. Nhìn chung, lòng 
dẫn bị hạ thấp khoảng 6,0 (m) trong giai 
đoạn từ năm 2009 đến 2018. Bên cạnh đó, 
tại mặt cắt này lòng dẫn còn có xu hướng 
chuyển dịch dòng chính sang phía bờ hữu. 
Bãi sông nhỏ, xu hướng biến đổi không 
đáng kể. 
2009 
2018 
6,0 m 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 4
Hình 5: Xu thế biến đổi lòng dẫn trên sông Hồng tại mặt cắt SHG45 
Tại mặt cắt số 45 (SHG 45), lòng sông Hồng tiếp tục có xu hướng hạ thấp khoảng 6,50 m trong 
khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2018. 
Hình 6: Xu thế biến đổi lòng dẫn trên sông Hồng tại mặt cắt SHG60 (hạ lưu TB. Thanh Điềm) 
Xu thế biến đổi lòng dẫn tại mặt cắt SHG60 
cho thấy lòng sông có xu hướng hạ thấp đáng 
kể khoảng 7,5 m trong khoảng thời gian từ 
năm 2011 đến năm 2018. Cao trình bãi bên bờ 
2011 
2018 
6,5m 
2011 
2018 
7,5m 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 5
tả có xu hướng bị xói sâu do tác động của 
dòng chủ lưu. 
Qua một số ví dụ điển hình tại một số mặt cắt 
ngang sông Hồng Hà Nội cho thấy: tốc độ hạ 
thấp lòng dẫn sông hiện nay đang ở mức báo 
động cao. Cần thiết phải có các giải pháp phù 
hợp nhằm hạn chế diễn biến bất lợi này. 
3.2. Hình thái sông (thế sông) biến đổi theo 
chiều hướng bất lợi 
Thế sông trước năm 1990 là thế sông thuận lợi 
cho mọi ngành kinh tế, thoát lũ, bảo vệ đê 
điều, giao thông và phát triển đô thị. Về cảnh 
quan thế sông trước năm 1990 cũng là thế 
sông đẹp và cân đối đi giữa thủ đô Hà Nội. 
Hình 7: Thế sông Hồng hiện nay 
 Đặc điểm của thế sông hiện nay: 
- Dòng chủ lưu ở các khu vực đường bờ Phú 
Châu, Tiến Thịnh, Hồng Hà, Liên Mạc và bãi 
Tầm Xá có xu hướng ép sát bờ ảnh hưởng đến 
sự ổn định của đường bờ. 
- Xuất hiện đỉnh cong mới (đỉnh cong 4) tại 
bãi Tráng Việt, huyện Mê Linh. Dòng chủ lưu 
ép sát đường bờ gây xói lở nghiêm trọng. 
- Đỉnh cong tại bãi Tầm Xá vẫn chưa được 
khống chế, có xu thế phát triển mạnh gây xói 
lở tại khu vực đường bờ chưa được gia cố. 
- Dòng chủ lưu có xu thế đi vào sông Đuống 
làm gia tăng lưu lượng nước đổ vào sông 
Đuống trong mùa lũ, gia tăng nguy cơ xói lở 
đường bờ khu vực cửa Đuống. 
- Thế sông hiện nay khiến tầu thuyền đi lại gặp 
nhiều khó khăn tại các đoạn sông uốn khúc, khu 
vực cửa Đuống, cầu Thăng Long, Long Biên... 
Có thể kết luận: Thế sông hiện nay không 
thuận lợi cho thuỷ lợi, hoạt động giao thông 
thủy và phát triển đô thị. 
3.3. Luồng lạch chưa ổn định 
Do tác động từ các cụm công trình chỉnh trị ổn 
định luồng lạch do ngành giao thông xây 
dựng, đặc biệt là các cụm kè chỉnh trị thuộc 
Dự án: Phát triển giao thông vùng đồng bằng 
Bắc Bộ, lòng dẫn sông Hồng hiện nay vẫn 
đang tiếp tục biến đổi và chưa thể ổn định 
trong khoảng một vài năm tới. 
Một ví dụ điển hình là tại vị trí mặt cắt số 64 
(khu vực cụm kè Hồng Hà, huyện Đan 
Phượng), chỉ trong khoảng một năm từ năm 
2017 đến năm 2018, sau trận lũ tháng 10/2017, 
một lạch mới đã xuất hiện phía bờ Tả. Điều 
này khiến cho các hoạt động giao thông thủy 
cũng trở nên khó khăn do xu thế thay đổi 
luồng lạch quá nhanh. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 6
Hình 8: Biến đổi luồng lạch tại mặt cắt ngang SHG 64 
3.4. Đường bờ phía đối diện các công trình 
chỉnh trị bị xói lở đe dọa 
Dưới tác động của các công trình chỉnh trị, 
dòng chủ lưu được đẩy ra xa khỏi khu vực bảo 
vệ. Tuy nhiên, dòng chủ lưu được lại có xu thế 
húc thẳng vào đường bờ phía bờ đối diện, gây 
xói lở trầm trọng. 
Hình 9: Mặt cắt ngang lòng dẫn sông Hồng mặt cắt SHG 57 (khu vực cụm kè Tiến Thịnh) 
Điển hình như cụm kè Tiến Thịnh thuộc dự án: 
Phát triển giao thông vùng đồng bằng Bắc Bộ, 
đã đẩy dòng chảy húc thẳng sang hữu gây xói 
sâu vào vùng bãi và đường bờ đối diện. 
2017 
Lạch mới xuất hiện năm 2018 
2018 
2018 2011 2018 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 7
3.5. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá 
trình biến động lòng dẫn sông Hồng Hà Nội 
1) Ảnh hưởng của yếu tố thủy văn, thủy lực 
Dưới tác động của Biến đổi khí hậu, cường độ 
mưa trên lưu vực sông Hồng ngày càng gia 
tăng trong khi thời gian mưa ngắn lại khiến 
cho lưu lượng lũ đổ về các hồ chứa tăng đột 
biến. Việc vận hành hồ chứa cũng trở nên khó 
khăn hơn, các hồ chứa phải liên tục xả lũ về hạ 
du nhằm đảm bảo an toàn hồ đập. Điển hình như 
trận lũ tháng 10/2017 đã khiến hồ Hòa Bình phải 
mở tới 8 cửa xả đáy. Khi đó, dòng chảy lũ lớn 
tập trung trong thời gian ngắn với cường suất lũ 
lên nhanh, lưu tốc dòng chảy lũ lớn đã làm sạt lở 
bờ và gây diễn biến xói lòng dẫn nghiêm trọng. 
Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng 
nhất ảnh hưởng đến quá trình biến động lòng 
dẫn sông Hồng Hà Nội. 
2) Ảnh hưởng của yếu tố bùn cát 
Việc xây dựng các hồ chứa ở thượng nguồn đã 
giữ lại phần lớn lượng bùn cát trên thượng lưu 
hồ, làm cho lượng bùn cát của các sông thay 
đổi đáng kể. Trước hết là sự suy giảm hàm 
lượng bùn cát lơ lửng trung bình. 
+ Tại trạm Hòa Bình trên sông Đà, độ đục 
trung bình đã giảm từ 571,4g/m3 xuống còn 
71,1g/m3 giai đoạn 1989-2006 (giảm khoảng 
87,6%) và 32,2g/m3 giai đoạn 2007- 2014 
tương đương 99,6% so với giai đoạn dòng 
chảy tự nhiên. 
+ Sự suy giảm hàm lượng vật liệu phù sa của 
sông Đà đã kéo theo sự suy giảm hàm lượng 
bùn cát ở hạ du sông Hồng: tại trạm Sơn Tây, 
độ đục trung bình năm giảm từ 581,4g/m3 thời 
kỳ 1960-1970 xuống 317,68g/m3 thời kỳ 1989-
2006 và 146,7g/m3 thời kỳ 2007-2014. Tại 
trạm Hà Nội giảm từ 485g/m3 xuống còn 
424,3g/m3 và 161,2g/m3. Tại trạm Thượng Cát 
giảm từ 619,9g/m3 xuống 471,5g/ m3 và chỉ 
còn 231,9g/ m3. 
3) Ảnh hưởng của yếu tố địa chất 
Đất cấu tạo bờ sông Hồng Hà Nội chủ yếu là 
các trầm tích bở rời Holocen gồm: sét pha, cát, 
cát hạt mịn, bùn sét hữu cơ, trên cùng là lớp 
đất phù sa. Với đặc trưng cơ lý đất vùng bờ, 
bãi và lòng sông như vậy thì vấn đề xói lở bờ 
sông sẽ diễn ra trên nhiều khu vực. 
4) Ảnh hưởng từ các hoạt động khai thác cát 
lòng sông 
Dọc tuyến sông Hồng, hoạt động khai thác cát 
trong những năm gần đây vẫn diễn ra mạnh 
mẽ. Tại khu vực thị xã Sơn Tây, lượng khai 
thác cát tập trung tại bến đò Phú Thịnh (6000 
m3 /ngày), cảng Sơn Tây (3000 m3/ngày), xã 
Phú Hà (1000 m3/ngày); tại khu vực quận Bắc 
Từ Liêm, lượng khai thác tập trung tại xã 
Thượng Cát (75000 m3/ngày), xã Liêm Mạc 
(5000 m3/ngày); tại huyện Thanh Trì, lượng 
khai thác tập trung tại cảng Khuyến Lương 
(9000 m3/ngày), trường bắn Yên Sở (6000 
m3/ngày), phà Khuyến Lương (2500 m3/ngày), 
xã Vạn Phúc (2500 m3/ngày); tại khu vực cầu 
Thăng Long, khối lượng khai thác là 6000 
m3/ngày. Hình thức khai thác chủ yếu của 
những khu vực trên là hút từ lòng sông lên 
thuyền rồi từ thuyền hút lên bãi, dùng máy xúc 
băng tải và cần cẩu để đưa lên xe vận chuyển 
đến các nơi tiêu thụ (Lê Văn Hùng và nnk, 
2014). Tình trạng khai thác cát tại những khu 
vực này làm biến đổi luồng lạch chạy tàu, gây 
xói lòng sông và bờ sông, các phương tiện 
khai thác cát nhiều trên sông ảnh hưởng đến 
việc giao thông thủy. 
5. KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng 
biến động lòng dẫn sông Hồng Hà Nội trong 
những năm gần đây. Kết quả chập các mặt cắt 
đo đạc trong khoảng thời gian từ năm 2009 
đến năm 2018 trên sông Hồng Hà Nội, cho 
thấy: Xu thế biến đổi chung ở tất cả các mặt cắt 
là sự hạ thấp lòng dẫn ở mức đáng báo động. 
Trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 
2018, lòng dẫn sông Hồng đã bị hạ thấp từ 5,0 ÷ 
8,0 (m), tùy từng mặt cắt. Tại một số mặt cắt 
ngang qua các cụm công trình chỉnh trị có sự 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 8
biến đổi rõ rệt. Lạch chính có xu thế đi ra xa 
khỏi các khu vực đường bờ đang được bảo vệ, 
song lại gây ra xói lở ở khu vực đường bờ đối 
diện. Thế sông hiện nay không thuận lợi cho 
thuỷ lợi, hoạt động giao thông thủy và phát 
triển đô thị của thành phố Hà Nội. 
Hệ lụy do sự bất ổn định lòng dẫn sông Hồng 
sẽ khiến cho các hệ thống thủy lợi khó khăn 
trong việc lấy nước; tăng tỷ lệ phân lưu từ 
sông Hồng sang sông Đuống, gia tăng nguy cơ 
xói lở; gia tăng nguy cơ sạt lở bờ sông và gây 
mất an toàn giao thông đường thủy. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] PGS.TS Nguyễn Hữu Huế và nnk (2018), Đề tài “Nghiên cứu tác động của các công trình 
trên sông đến sự ổn định lòng dẫn sông Hồng - Thành phố Hà Nội”, Hà Nội. 
[2] GS.TS Lương Phương Hậu (2010), Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu các giải pháp 
khoa học, công nghệ cho hệ thống công trình chỉnh trị sông trên các đoạn trọng điểm vùng 
đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ”, Hà Nội. 
[3] GS.TS Lê Kim Truyền (2007), Báo cáo tổng kết đề tài“Nghiên cứu cơ sở khoa học, thực 
tiễn điều hành cấp nước mùa cạn cho đồng bằng sông Hồng”, Hà Nội. 
[4] Lê Văn Hùng (2014), Báo cáo tổng hợp đề tài “Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn và đề xuất 
các giải pháp ứng phó cho công trình bảo vệ bờ hạ du sông Hồng có xét đến các hồ điều 
tiết thượng nguồn và khai thác dòng sông của con người hạ du”, Hà Nội. 
[5] Lê Văn Hùng và Phạm Tất Thắng (2011), “Phân tích diễn biến lưu lượng và mực nước 
sông Hồng mùa kiệt”, Tạp chí KHKT Thủy lợi và môi trường - ISSN 1859-3941- số đặc 
biệt 11/2011, Hà Nội. 
[6] Lê Văn Hùng (2013), Báo cáo tổng kết đề tài cấp Thành phố Hà Nội: “Nghiên cứu diễn 
biến lưu lượng, mực nước các sông về mùa kiệt và đề xuất giải pháp khai thác, sử dụng 
hợp lý nguồn nước trên địa bàn thành phố Hà Nội”. 
[7] Lê Văn Hùng, Phạm Tất Thắng (2015), “Diễn biến lòng dẫn sông hồng từ Sơn Tây đến cửa 
Ba Lạt và ảnh hưởng của nó đến dòng chảy mùa kiệt”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy 
Lợi Và Môi Trường – Số 48. 
[8] 
310825.html 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_dien_bien_long_dan_song_hong_doan_tu_son_tay_den_t.pdf