Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015

Bài viết phân tích các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015 như: về năng lực, về tính tự nguyện của chủ thể giao kết, về mục đích, nội dung, về hình thức thể hiện của hợp đồng. Đồng thời, lý giải đối với những điểm mới về các điều kiện này. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả xác định một số bất cập

trong các quy định về điều kiện có hiệu lực và tính vô hiệu do vi phạm về hình thức của hợp đồng được qui định trong Bộ luật Dân sự 2015 cần tiếp tục nghiên cứu, trao đổi để hoàn thiện.

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 1

Trang 1

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 2

Trang 2

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 3

Trang 3

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 4

Trang 4

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 5

Trang 5

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 6

Trang 6

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 7

Trang 7

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 8

Trang 8

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 9

Trang 9

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 trang 10

Trang 10

pdf 10 trang Trúc Khang 10/01/2024 5800
Bạn đang xem tài liệu "Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015

Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC HUẾ 
36 
* PGS.TS., Trường Đại học Luật Hà Nội. 
** ThS., Trường Đại học Luật Hà Nội. 
NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ MỘT SỐ BẤT CẬP VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN 
CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA 
BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 
TRẦN THỊ HUỆ* 
LÊ THỊ HẢI YẾN** 
Tóm tắt: 
 Bài viết phân tích các điều kiện có 
hiệu lực của hợp đồng trong Bộ luật Dân 
sự 2015 như: về năng lực, về tính tự 
nguyện của chủ thể giao kết, về mục đích, 
nội dung, về hình thức thể hiện của hợp 
đồng. Đồng thời, lý giải đối với những 
điểm mới về các điều kiện này. Trên cơ sở 
đó, nhóm tác giả xác định một số bất cập 
trong các quy định về điều kiện có hiệu 
lực và tính vô hiệu do vi phạm về hình 
thức của hợp đồng được qui định trong Bộ 
luật Dân sự 2015 cần tiếp tục nghiên cứu, 
trao đổi để hoàn thiện. 
Từ khoá: 
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Dân sự 
2015, điều kiện, hiệu lực, hợp đồng. 
Abstract: 
The article analyzes the conditions 
of validity of contract in the Civil Code 
2015 including the capacity and 
voluntariness of subjects, the purpose, 
content and formality of contract. At the 
same time, the article explains some new 
points of these conditions. From those, 
the authors identified several 
irrationalities in the conditions of validity 
and invalidity due to the breach in the 
form of contract stipulated in the Civil 
Code 2015 which should continue to be 
researched and discussed. 
Key words: 
Civil Code, Civil Code 2015, 
condition, validity, contract. 
1. Dẫn nhập vấn đề 
Dưới góc độ khoa học pháp lý, hợp đồng được xác định là một trong những căn cứ phát 
sinh quan hệ nghĩa vụ giữa những chủ thể tham gia xác lập hợp đồng. Có thể nói, đây là căn 
cứ phát sinh nghĩa vụ phổ biến nhất trong thực tiễn. Điều 275 của Bộ luật Dân sự 2015 
(BLDS 2015) quy định hệ thống các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Trong hệ thống 
các căn cứ đó thì hợp đồng dân sự đóng vai trò quan trọng nhất, luôn là phương tiện phổ biến 
nhất để xác lập nên quyền và nghĩa vụ dân sự. 
 TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 
37 
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt 
quyền, nghĩa vụ dân sự. Việc quy định một cách chi tiết, cụ thể những nội dung pháp lý liên 
quan đến hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự, giải 
quyết tranh chấp giữa các bên, nhằm bảo vệ một cách tốt nhất có thể quyền và lợi ích hợp 
pháp của họ. Tuy nhiên, một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng để hợp đồng có thể 
được xác định là một căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ là nội dung liên quan đến các điều 
kiện có hiệu lực của hợp đồng. Bởi lẽ, khi hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp luật thì khi đó 
mới ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia hợp đồng. Nội dung này theo 
quy định của Bộ luật Dân sự 2015 đã không thiết kế trong phần quy định pháp luật về hợp 
đồng. Vì thế, khi xem xét các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự phải tham chiếu qua 
những quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Điều 116 BLDS 2015 quy 
định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay 
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Căn cứ vào quy định này và theo logic thì mọi 
hợp đồng dân sự đều là giao dịch dân sự. Chúng tôi cho rằng kết cấu này là hợp lý, bởi hợp 
đồng là một loại giao dịch dân sự. Và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng không nằm ngoài 
những quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung. 
2. Tính chất pháp lý và các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự 
2.1. Tính chất pháp lý của hợp đồng dân sự 
Điều 385 BLDS 2015 quy định: Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác 
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. 
Qui định trên được hiểu sự thoả thuận là yếu tố bắt buộc mang tính tiên quyết để xác 
định một hợp đồng dân sự. Khi nói đến hợp đồng bao giờ cũng có sự thoả thuận ít nhất của 
hai bên (bên bán tài sản, bên mua tài sản; bên vay và bên cho vay tài sản, bên thuê và bên cho 
thuê tài sản). Hợp đồng được thiết lập khi có sự thoả thuận của các bên, tức là khi giao kết 
phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt những 
quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Sự thống nhất ý chí thể hiện: 
- Ý chí bên trong của một bên chủ thể thể hiện ra bên ngoài phải thống nhất nhau. 
- Ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng phải thống nhất được với nhau. 
- Ý chí của các bên phải thống nhất với ý chí của Nhà nước thông qua quy định của 
pháp luật. 
Quy định tại Điều 385 cho phép kết luận các yếu tố pháp lý trong khái niệm của hợp 
đồng dân sự: (i) Có sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng; (ii) Sự thỏa thuận phải phù 
hợp với quy định của pháp luật; (iii) Sự thỏa thuận phải làm phát sinh hậu quả pháp lý (xác 
lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự); (iiii) Hậu quả pháp lý về việc xác lập, 
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự được  ... về những trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm 
lẫn4, giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép5, giao dịch dân sự vô hiệu do 
người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình6 để thể hiện việc những 
giao dịch được xác lập không tuân thủ điều kiện về tính tự nguyện sẽ có thể bị tuyên vô hiệu. 
Xét về mặt lý luận, đây là những trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tương đối - tức là trong 
trình tự, thủ tục tuyên bố vô hiệu phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan đến 
giao dịch, nên nếu như không có ai yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch đó 
vẫn mặc nhiên có hiệu lực. Vì, những giao dịch không tuân thủ điều kiện về tính tự nguyện 
chủ yếu liên quan đến lợi ích của chính các bên trong giao dịch, nên họ sẽ là chủ thể được chủ 
động lên tiếng nếu cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Điểm b, c, d 
Khoản 1 Điều 132 BLDS 2015 đã quy định rất rõ về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao 
dịch vô hiệu trong những trường hợp này. Các trường hợp vi phạm tính tự nguyện khi giao 
kết hợp đồng chỉ có 1 trường hợp, đó là những hợp đồng xác lập do nhằm trốn tránh nghĩa vụ 
với người thứ ba hoặc hợp đồng được giao kết để che giấu một giao dịch khác (giao dịch dân 
sự vô hiệu do giả tạo) thì trong trình tự, thủ tục tuyên bố hợp đồng vô hiệu không cần có sự 
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan mà hợp đồng đó mặc nhiên vô hiệu. Quy định 
này được lý giải do xét thấy những trường hợp hợp đồng vô hiệu do giả tạo không chỉ ảnh 
hưởng đến lợi ích của các bên tham gia hợp đồng mà còn ảnh hưởng đến cả quyền và lợi ích 
hợp pháp của những chủ thể khác (người thứ ba, Nhà nước...). Đây cũng là lý do để pháp luật 
Việt Nam quy định thời hiệu tuyên bố giao dịch vô hiệu trong trường hợp vô hiệu do giả tạo 
là không hạn chế (vô thời hạn). 
* Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng 
Mục đích và nội dung của hợp đồng cũng là một trong những yêu cầu cần phải đáp ứng 
khi xem xét tính có hiệu lực của một hợp đồng. Bởi lẽ, hợp đồng phải có mục đích và nội 
dung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng đó mới đảm 
bảo được một trong các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật (điểm c Khoản 1 
Điều 117 BLDS 2015). 
Mục đích của hợp đồng được hiểu là những lợi ích mà các chủ thể mong muốn đạt được 
khi xác lập hợp đồng đó. Mục đích của giao dịch dân sự rất phong phú đa dạng: có thể là 
mục đích tinh thần, là việc thực hiện một công việc, dịch vụ nào đó hoặc là mục đích vật 
chất, nhưng yêu cầu chung là mục đích đó phải hợp pháp. Nội dung của hợp đồng dân sự là 
toàn bộ những điều khoản cụ thể phù hợp với tính chất của loại hợp đồng mà các bên đã cam 
kết thỏa thuận khi xác lập hợp đồng. Những điều khoản cụ thể trong một hợp đồng dân sự xác 
định quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dân sự cụ thể đó. Theo nguyên tắc chung, 
4 Điều 126 BLDS 2015. 
5 Điều 127 BLDS 2015. 
6 Điều 128 BLDS 2015. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC HUẾ 
42 
thì “việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích Nhà 
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Mục đích và nội dung 
của hợp đồng có sự gắn kết với nhau. Để đạt được mục đích thì các chủ thể phải thể hiện ý chí 
trong quá trình cam kết, thỏa thuận về cả quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Thuật ngữ 
“và” ở đây được sử dụng thể hiện tính chặt chẽ trong quy định pháp luật về nội dung này mà 
những chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải đảm bảo. 
BLDS 2015 đã có sự sửa đổi về mặt thuật ngữ khi thay thế “pháp luật” bằng “luật”. Tuy 
nhiên, sự sửa đổi nhỏ này lại mang đến một ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự thay đổi trong tư duy 
lập pháp của Việt Nam. Cụ thể là, theo quy định của BLDS 2015, chỉ những văn bản luật mới 
được phép quy định điều cấm, và chỉ những điều cấm được quy định trong các văn bản luật 
mới có giá trị pháp lý thi hành. Nói cách khác, các Nghị định, thông tư, và văn bản dưới luật 
không được phép quy định về điều cấm. Điều này tạo thuận lợi rất nhiều cho các chủ thể giao 
kết hợp đồng “tự tin” vào những thỏa thuận của mình, không lo ngại trong việc phải tra cứu 
quá nhiều văn bản để rà soát những quy định pháp luật về điều cấm. 
* Điều kiện về hình thức của hợp đồng 
Khác với ba điều kiện đã được phân tích ở trên, điều kiện về hình thức không phải là 
điều kiện có hiệu lực đối với mọi hợp đồng. Cụ thể, khoản 2 Điều 117 BLDS 2015 quy định: 
“Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường 
hợp luật có quy định”. Tương tự với sự sửa đổi ở điều kiện thứ ba, quy định về điều kiện có 
hiệu lực của hợp đồng liên quan đến hình thức cũng được BLDS 2015 sửa đổi thuật ngữ từ 
“pháp luật” thành “luật”. Sự sửa đổi này cũng mang lại ý nghĩa tương tự như sự sửa đổi liên 
quan đến mục đích và nội dung của hợp đồng. Theo đó, những quy định về hình thức của hợp 
đồng trong các văn bản dưới luật không có giá trị áp dụng. 
Quy định về hình thức của hợp đồng liên quan đến những quy định chung về hợp đồng 
trong BLDS 2015 được lược bỏ và áp dụng chung quy định pháp luật về hình thức của giao 
dịch dân sự. Theo đó, hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng 
hành vi cụ thể; những hợp đồng thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ 
liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là hợp đồng bằng văn bản. Tuy 
nhiên, giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu chỉ 
được coi là giao dịch bằng văn bản khi tuân thủ theo “quy định của pháp luật về giao dịch 
điện tử”7. Quy định bổ sung này đáp ứng được nhu cầu của thị trường khi các giao dịch dân 
sự được xác lập thông qua phương tiện điện tử ngày càng nhiều đảm bảo nhanh chóng, chính 
xác, bảo mật, tiết kiệm được thời gian, chi phí phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế 
thị trường. 
7 Xem Luật Giao dịch điện tử ngày 29/11/2005. 
 TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 
43 
Ngoài ra, trong trường hợp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có 
công chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (Điều kiện này chỉ áp 
dụng đối với những hợp đồng mà pháp luật có yêu cầu tuân thủ về hình thức nhất định). Tuy 
nhiên, cần phân biệt rõ quy định hình thức của hợp đồng với quy định hình thức là điều kiện 
có hiệu lực của hợp đồng. Cụ thể, những trường hợp luật quy định hình thức là điều kiện có 
hiệu lực của hợp đồng nhưng hợp đồng không tuân theo quy định về hình thức đó, thì khi đó 
hợp đồng được xem là vi phạm điều kiện về hình thức. Ví dụ: Điều 502 BLDS 2015 quy định 
về hình thức, thủ tục thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất như sau: “1. Hợp đồng về 
quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ 
luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc thực hiện 
hợp đồng về quyền sử dụng đất phải đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất 
đai và quy định khác của pháp luật có liên quan.”; điểm c Khoản 1 Điều 10 Nghị định 
163/2006/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm quy định: “Việc thế 
chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu 
bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp”; Khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 
2013 quy định: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, 
thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng 
ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”... Đây là những quy định 
về hình thức của hợp đồng mà trong đó hình thức chính là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. 
Trong những trường hợp này, hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức thì vô hiệu. 
Điều 129 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định 
về hình thức như sau: 
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ 
trường hợp sau đây: 
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản 
không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba 
nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định 
công nhận hiệu lực của giao dịch đó. 
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về 
công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ 
trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận 
hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công 
chứng, chứng thực”. 
Quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trên đây là 
một quy định mới trong BLDS 2015. Quy định về nội dung này tại BLDS năm 2005 được 
đánh giá là khó có khả năng áp dụng được trong thực tiễn, bởi lẽ chỉ có thể áp dụng trong 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC HUẾ 
44 
trường hợp các bên chủ thể còn thiện chí, hợp tác trong việc xác lập hợp đồng. Nói cách khác, 
nếu như các chủ thể giao kết hợp đồng không còn thiện chí thì khả năng hợp đồng bị tuyên bố 
là vô hiệu rất cao. Thậm chí, khi nhận định về nội dung này, một số chuyên gia trong lĩnh vực 
pháp lý Việt Nam đã cho rằng, quy định tại Điều 134 BLDS 2005 tạo cơ hội cho sự bội tín 
của các bên trong hợp đồng. 
Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ điều kiện về hình thức trong 
BLDS 2015 được tiếp cận theo hướng căn cứ vào tiến trình thực hiện hợp đồng và mục đích 
của hợp đồng mà các bên đã đạt được. Theo đó, những hợp đồng có sự vi phạm quy định điều 
kiện có hiệu lực về hình thức nhưng các bên xác lập hợp đồng đã thực hiện được ít nhất hai 
phần ba nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận thì hợp đồng đó không bị vô hiệu. 
Nếu chưa soi rọi vào thực tiễn thực hiện và áp dụng luật thì có thể đánh giá đây là quy định 
thể hiện tư duy cởi mở hơn của nhà soạn Luật Việt Nam về vấn đề hình thức của hợp đồng, 
tạo điều kiện cho sự phát triển và ổn định các hợp đồng được giao kết trong thực tiễn, đồng 
thời thể hiện sự tiệm cận của pháp luật dân sự Việt Nam với pháp luật dân sự của các quốc gia 
trong khu vực và thế giới. 
3. Một số vấn đề cần được tiếp tục trao đổi, nghiên cứu 
Bên cạnh những điểm tích cực, nhóm tác giả nhận thấy, quy định hợp đồng vô hiệu do 
không tuân thủ quy định về hình thức vẫn tồn tại một số vấn đề bất cập cần được tiếp tục trao 
đổi và nghiên cứu: 
Thứ nhất, quy định về hình thức mà hợp đồng cần đảm bảo ở Khoản 1 và Khoản 2 tại 
Điều 129 BLDS 2015 có ranh giới rất mong manh, thậm chí rất khó để phân biệt. “Giao dịch 
dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định 
của luật” và trường hợp “giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy 
định bắt buộc vê công chứng, chứng thực” được phân biệt như thế nào để trong thực tiễn có 
thể phân biệt rõ việc áp dụng khoản 1 và khoản 2 trong từng trường hợp cụ thể. Thiết nghĩ nội 
dung này cần được hướng dẫn bằng một văn bản dưới luật để có cách hiểu thống nhất. 
Thứ hai, Khoản 2 Điều 129 quy định “mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 
2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên”, Quy định này chỉ 
được áp dụng đối với loại nghĩa vụ có đối tượng là tiền, đối tượng của nghĩa vụ phân chia 
được theo phần để thực hiện. Thực tế thì không phải nghĩa nào cũng định phần được để xác 
định 2/3 nghĩa vụ, thậm chí có những đối tượng của nghĩa vụ mà chủ thể không được phép 
thực hiện. Đơn cử nhận định sau: “Việc xác định “một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 
hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch” về quyền sử dụng đất là điều “không thể” đối với hợp 
đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Bởi cách xác định 2/3 nghĩa vụ chỉ có thể áp dụng đối với 
 TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 
45 
loại nghĩa vụ thanh toán tiền, trả nợ hoặc nghĩa vụ thực hiện công việc mà công việc đó có thể 
chia thành nhiều phần để thực hiện”8. 
Thứ ba, giao dịch đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về 
công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao 
dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của 
giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng 
thực. Qui định này còn thiếu vắng về hình thức của hợp đồng, cụ thể là hình thức của hợp 
đồng bằng văn bản phải đăng ký mới đảm bảo về hình thức. Minh chứng cho cho sự thiếu 
vắng này được thể hiện tại Khoản 2 Điều 119 BLDS 2015: “Trường hợp luật quy định giao 
dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải 
tuân theo quy định đó”. Có thể nói, sự thiếu khuyết này đối với các giao dịch về quyền sử 
dụng đất, về giao dịch bảo đảm không tuân thủ quy định về đăng ký đã khiến cho việc hiểu, 
vận dụng pháp luật đất đai và dân sự chưa có sự thống nhất và chưa đảm bảo tính hiệu lực9. 
Thứ tư, liên quan đến thời hiệu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, điểm đ Khoản 1 Điều 132 
BLDS 2015 quy định thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định 
về hình thức là 02 năm kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Như vậy, quá thời hạn 02 năm 
kể từ thời điểm giao dịch được xác lập thì đương nhiên hợp đồng vi phạm về hình thức sẽ có 
hiệu lực pháp luật. Trong khi Khoản 2 Điều 117 quy định: “Hình thức của giao dịch dân sự là 
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”, Cùng với qui 
định này Khoản 1 Điều 129 quy định: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu 
lực về hình thức thì vô hiệu”. Quy định này thể hiện tính mệnh lệnh của Nhà nước Việt Nam 
buộc các bên chủ thể khi giao kết hợp đồng dân sự loại này phải tuân thủ, nếu không tuân thủ 
thì hợp đồng mà họ đã giao kết luôn luôn vô hiệu. Khi hợp đồng vô hiệu thì đồng nghĩa với 
việc mọi thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng về việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt 
quyền và nghĩa vụ dân sự không có giá trị thi hành. Các quy định này xét trong mối tương 
quan với Điều 129 BLDS 2015 là có sự triệt tiêu lẫn nhau. 
Các trang viết trên phân tích và đánh giá những quy định về điều kiện có hiệu lực của 
hợp đồng. Nhóm tác giả hy vọng đóng góp một số ý kiến về nội dung này trong bối cảnh 
BLDS năm 2015 đã được thông qua và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017, chúng tôi mong 
muốn nhận được sự trao đổi của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực 
tiễn về những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nói riêng cũng như những nội dung khác 
liên quan đến hợp đồng nói chung. 
8 Vũ Thị Hồng Yến, Kỷ yếu hội thảo “ Những điểm mới của BLDS năm 2015”- Trường Đại học Luật Hà Nội, 
tháng 4/2016, Trang 64. 
9 Điều 12, Nghị định 163 về giao dịch bảo đảm, Khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_diem_moi_va_mot_so_bat_cap_ve_cac_dieu_kien_co_hieu_lu.pdf