Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai

Khiếu nại là phương thức quan trọng giúp người sử dụng đất bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước các quyết định hành chính trái pháp luật. Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai còn nhiều bất cập. Có thể kể đến những bất cập như: i. thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính do tập thể Ủy ban nhân dân các cấp ban hành chưa được quy định cụ thể; ii. thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai cuả Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chưa hợp lý; iii. tồn tại sự mâu thuẫn về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính của đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai Những bất cập này đã gây trở ngại rất lớn cho người sử dụng đất trong việc thực hiện quyền khiếu nại của mình Bài viết phân tích các quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Đất đai năm 2013 về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, đồng thời chỉ ra một số bất cập, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 1

Trang 1

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 2

Trang 2

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 3

Trang 3

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 4

Trang 4

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 5

Trang 5

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 6

Trang 6

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 7

Trang 7

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 8

Trang 8

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 9

Trang 9

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang Trúc Khang 10/01/2024 1260
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
42 
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN 
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 
 Cao Vũ Minh* 
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh 
(Email: cvminh@hcmulaw.edu.vn) 
Ngày nhận: 15/11/2017 
Ngày phản biện: 10/12/2017 
Ngày duyệt đăng: 20/12/2017 
TÓM TẮT 
Khiếu nại là phương thức quan trọng giúp người sử dụng đất bảo vệ quyền, lợi ích hợp 
pháp của mình trước các quyết định hành chính trái pháp luật. Tuy nhiên, các quy định về 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai còn nhiều bất cập. Có thể kể đến 
những bất cập như: i. thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính do tập 
thể Ủy ban nhân dân các cấp ban hành chưa được quy định cụ thể; ii. thẩm quyền giải 
quyết khiếu nại lần hai cuả Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chưa hợp lý; iii. tồn 
tại sự mâu thuẫn về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính của đơn 
vị sự nghiệp công lập thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai Những bất cập này 
đã gây trở ngại rất lớn cho người sử dụng đất trong việc thực hiện quyền khiếu nại của 
mình Bài viết phân tích các quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Đất đai năm 
2013 về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, đồng thời chỉ ra một số bất 
cập, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện. 
Từ khóa: Người sử dụng đất, khiếu nại, quyết định hành chính, thẩm quyền. 
Trích dẫn: Cao Vũ Minh, 2017. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết 
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế 
Trường Đại học Tây Đô. 02: 42-54. 
*Tiến sĩ Cao Vũ Minh, Giảng viên Khoa luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật thành 
phố Hồ Chí Minh 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
43 
1. Khiếu nại về đất đai - thực trạng 
một góc nhìn 
Đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng 
trong đời sống xã hội và là tài sản thiết 
thân của mỗi con người. Theo quy định 
pháp luật, đất đai được trao quyền sử 
dụng cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, 
cộng đồng dân cư (gọi chung là người sử 
dụng đất). Trong quá trình thực hiện 
chức năng quản lý nhà nước về đất đai, 
cơ quan hành chính, người có thẩm 
quyền trong cơ quan hành chính có thể 
ban hành các quyết định hành chính nhất 
định. Các quyết định hành chính này tác 
động trực tiếp đến quyền và lợi ích của 
người sử dụng đất. Để bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp của mình trước các 
quyết định hành chính trái pháp luật, 
người sử dụng đất có quyền khiếu nại và 
khởi kiện. Thực tiễn cho thấy, đối với 
các vụ tranh chấp đất đai phức tạp, việc 
giải quyết tranh chấp bằng thủ tục hành 
chính thông qua con đường khiếu nại 
chiếm ưu thế hơn so với giải quyết tranh 
chấp bằng thủ tục tố tụng thông qua con 
đường khởi kiện.1 Điều này cũng là dễ 
hiểu bởi một khi đã chọn con đường tòa 
án, người sử dụng đất không còn cơ hội 
quay trở lại khiếu nại. Ngược lại, nếu đã 
chọn con đường khiếu nại thì dù ở cấp 
nào người sử dụng đất cũng luôn có khả 
năng khởi kiện tại tòa án. 
1 Nguyễn Mạnh Hùng, Phân định thẩm quyền giải 
quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử 
hành chính ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà 
Nội, năm 2015, tr. 47. 
Theo thống kê, từ năm 2003 - 2011, 
các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp 
nhận và xử lý 1.219.625 đơn thư, khiếu 
nại, tố cáo, trong đó đơn thư khiếu nại, 
tố cáo về đất đai chiếm khoảng 70%. 
Khiếu nại, tố cáo về đất đai có xu hướng 
tăng lên trong giai đoạn 2008 - 2011.2 
Từ năm 2012 - 2016, sau 4 năm thực 
hiện Luật Khiếu nại năm 2011 và hơn 2 
năm thực hiện Luật Đất đai năm 2013, 
các cơ quan hành chính đã tiếp 
1.503.607 lượt người đến khiếu nại, tố 
cáo về đất đai.3 
Từ năm 2012 đến tháng 6 năm 2016, 
chỉ tính riêng Bộ Tài nguyên và Môi 
trường (Bộ TNMT) đã tiếp 1.884 lượt 
công dân4 đến khiếu nại, tố cáo về đất 
đai với tổng số 11.814 lượt người, trong 
đó có 387 lượt đoàn đông người. Trong 
thời gian này, Bộ TNMT cũng tiếp nhận, 
xử lý 17.630 lượt đơn,5 trong đó có 
7.227/17.630 vụ việc đủ điều kiện xử lý 
2 Báo cáo số 304/BC-CP ngày 26/10/2012 của Chính 
phủ thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết 
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định 
hành chính về đất đai, tr. 6. 
3 Thanh tra Chính phủ, Báo cáo công tác tiếp dân, 
giải quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn 2012 - 2015 và 
nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới tại Hội nghị 
trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải 
quyết khiếu nại, tố cáo ngày 7/10/2016 (theo Công 
điện số 771/CĐ-VPCP ngày 4/10/2016 của Văn 
phòng Chính phủ). 
4 Năm 2012 có 296 lượt, năm 2013 có 381 lượt, năm 
2014 có 359 lượt, năm 2015 có 538 lượt, 6 tháng 
2016 có 310 lượt. 
5 Năm 2012 có 4.600 lượt đơn, năm 2013 có 4.005 
lượt đơn, năm 2014 có 4.021 lượt đơn, năm 2015 có 
3.373 lượt đơn, 6 tháng đầu năm 2016 có 1.631 lượt 
đơn.  ... 
Thủ tướng Chính phủ. 
Năm là, sự mâu thuẫn về thẩm quyền 
giải quyết khiếu nại đối với quyết định 
hành chính của đơn vị sự nghiệp công 
lập thực hiện dịch vụ công trong lĩnh 
vực đất đai. 
Theo Luật Đất đai năm 2013, ngoài 
cơ quan hành chính thực hiện chức năng 
quản lý nhà nước về đất đai còn có đơn 
vị sự nghiệp công lập thực hiện dịch vụ 
công trong lĩnh vực đất đai như Văn 
phòng đăng ký đất đai.20 Điều đáng nói 
là đơn vị sự nghiệp công lập này có 
thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành 
chính về đất đai mà quyết định, hành vi 
của họ có thể xâm phạm đến quyền, lợi 
ích hợp pháp của người sử dụng đất.21 
Vấn đề có tính pháp lý đặt ra là “người 
sử dụng đất có quyền khiếu nại các 
quyết định hành chính của đơn vị sự 
nghiệp công lập này không”? 
Khoản 8, 9 Điều 2 Luật Khiếu nại 
năm 2011 quy định đối tượng của quyền 
khiếu nại là các quyết định hành chính 
do “cơ quan hành chính” hoặc “người 
có thẩm quyền trong cơ quan hành 
chính” ban hành. Trong khi đó, Văn 
phòng đăng ký đất đai là đơn vị sự 
nghiệp công lập chứ không phải là một 
cơ quan hành chính. Như vậy, nếu chỉ 
căn cứ vào Luật Khiếu nại năm 2011 thì 
không rõ chủ thể nào có thẩm quyền giải 
20 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-
BNV-BTC ngày 04/04/2015 của Bộ Tài nguyên và 
Môi trường - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính quy định về 
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và 
cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng ký đất đai trực 
thuộc Sở TNMT. 
21 Điều 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Điều 2 Nghị 
định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/01/2017 sửa đổi, bổ 
sung một số quy định chi tiết thi hành Luật đất đai. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
50 
quyết khiếu nại lần đầu và chủ thể nào 
sẽ giải quyết khiếu nại lần hai đối với 
quyết định hành chính trái pháp luật của 
Văn phòng đăng ký đất đai. 
Câu hỏi này, rốt cuộc đã được trả lời 
trong Nghị định số 75/2012/NĐ-CP 
ngày 3/10/2012 quy định chi tiết một 
số điều của Luật Khiếu nại. Theo đó, 
Điều 3 Nghị định số 75/2012/NĐ-CP 
quy định: “Người đứng đầu đơn vị sự 
nghiệp công lập, người đại diện theo 
pháp luật của doanh nghiệp nhà nước có 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu 
đối với quyết định hành chính của mình, 
của công chức, viên chức, người lao 
động do mình quản lý trực tiếp. 
Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp 
công lập cấp trên trực tiếp có thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối 
với quyết định hành chính mà người 
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đã 
giải quyết theo quy định tại Khoản 2 
Điều này mà còn khiếu nại; đối với đơn 
vị sự nghiệp công lập không có đơn vị sự 
nghiệp công lập cấp trên trực tiếp thì 
người đứng đầu cơ quan nhà nước quản 
lý đơn vị sự nghiệp công lập đó có thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại lần hai”. 
Theo Thông tư số 15/2015/TTLT-
BTNMT-BNV-BTC thì Văn phòng đăng 
ký đất đai là đơn vị sự nghiệp công lập 
trực thuộc Sở TNMT. Do đó, nếu người 
sử dụng đất khiếu nại thì phải khiếu nại 
đến Giám đốc Văn phòng đăng ký đất 
đai. Giám đốc Văn phòng đăng ký đất 
đai sẽ căn cứ vào Điều 3 Nghị định số 
75/2012/NĐ-CP để giải quyết khiếu nại 
lần đầu. Với logic đó thì người có thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại lần hai là 
Giám đốc Sở TNMT. 
Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền 
giải quyết khiếu nại trong Nghị định số 
75/2012/NĐ-CP dường như không phù 
hợp với Luật Khiếu nại năm 2011. Cụ 
thể, theo Điều 20 Luật Khiếu nại năm 
2011 thì Giám đốc Sở TNMT giải quyết 
khiếu nại lần đầu đối với quyết định 
hành chính của mình, của cán bộ, công 
chức do mình quản lý trực tiếp. Giám 
đốc Sở TNMT là người bổ nhiệm Giám 
đốc Văn phòng đăng ký đất đai. Giám 
đốc Văn phòng đăng ký đất đai là công 
chức thuộc quyền quản lý trực tiếp của 
Giám đốc Sở TNMT.22 Do đó, nếu 
người sử dụng đất khiếu nại quyết định 
hành chính của Văn phòng đăng ký đất 
đai thì người có thẩm quyền giải quyết 
khiếu nại lần đầu là Giám đốc Sở 
TNMT. Tương tự, thẩm quyền giải 
quyết khiếu nại lần hai sẽ thuộc về Chủ 
tịch UBND cấp tỉnh theo Điều 21 Luật 
Khiếu nại năm 2011. Mặc dù nghị định 
là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu 
lực pháp lý thấp hơn luật nhưng có thể 
khẳng định rằng việc giải quyết khiếu 
nại đối với quyết định hành chính của 
Văn phòng đăng ký đất đai trên thực tế 
hoàn toàn chỉ áp dụng theo Nghị định số 
22 Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 06/2010/NĐ-CP 
ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những 
người là công chức. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
51 
75/2012/NĐ-CP chứ không áp dụng theo 
Luật Khiếu nại năm 2011. Như vậy, 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất 
đai của Giám đốc Sở TNMT và Chủ tịch 
UBND cấp tỉnh được quy định trong 
Luật Khiếu nại năm 2011 đã ít nhiều bị 
“vô hiệu hóa” bởi Nghị định số 
75/2012/NĐ-CP. 
Sáu là, quy định khiếu nại lần hai 
phải kèm theo quyết định giải quyết 
khiếu nại lần đầu là chưa hợp lý, xảy ra 
tình trạng đùn đẩy, né tránh trách 
nhiệm. 
Trường hợp người sử dụng đất không 
đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu 
hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại 
không được giải quyết thì có quyền 
khiếu nại lần hai. Khi khiếu nại lần hai, 
người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo 
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, 
các tài liệu có liên quan cho người có 
thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, 
không phải lúc nào người sử dụng đất 
cũng có thể có “quyết định giải quyết 
khiếu nại lần đầu”. Trường hợp khiếu 
nại lần đầu không được giải quyết mà 
người sử dụng đất khiếu nại lần hai thì 
không thể có “quyết định giải quyết 
khiếu nại lần đầu” để gửi đến người có 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. 
Nghịch lý ở chỗ đây là loại giấy tờ bắt 
buộc phải có nếu muốn được giải quyết 
khiếu nại lần hai. Thiếu loại giấy tờ này 
xem như việc giải quyết khiếu nại lần 
hai bị “ách tắc”. Nếu như tuân thủ pháp 
luật thì người có thẩm quyền không thể 
tiến hành giải quyết khiếu nại lần hai. 
Ngược lại, nếu như “bất chấp” loại giấy 
tờ này vẫn tiến hành giải quyết khiếu nại 
lần hai thì lại trái với quy định tại Điều 
33 Luật Khiếu nại năm 2011. Quy định 
bất hợp lý này có thể tạo ra mảnh đất 
“màu mỡ” cho người có thẩm quyền giải 
quyết khiếu nại lần hai từ chối tiếp nhận, 
thụ lý giải quyết khiếu nại của người sử 
dụng đất. 
4. Kiến nghị hoàn thiện 
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những 
bất cập về thẩm quyền giải quyết khiếu 
nại trong lĩnh vực đất đai, chúng tôi có 
một số đề xuất: 
Thứ nhất, pháp luật quy định người 
sử dụng đất phải khiếu nại đến đúng 
người có thẩm quyền giải quyết là khá 
hợp lý. Tuy nhiên, sẽ là hợp lý hơn nếu 
nghĩa vụ này được san sẻ với các cơ 
quan nhà nước. Pháp luật khiếu nại của 
Cộng hòa Pháp bắt buộc những cơ quan 
nhận được khiếu nại sai thẩm quyền vẫn 
phải có nghĩa vụ chuyển đơn thư này 
đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải 
quyết khiếu nại.23 Quy định này mang 
tính nhân văn bởi hơn người dân, các cơ 
quan nhà nước hiểu rõ nhất về thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh 
vực đất đai. Đây có lẽ là một kinh 
nghiệm quý báu cần được kế thừa trong 
23 Nguyễn Hoàng Anh, “Những nội dung có thể tham 
khảo từ pháp luật về khiếu nại của Cộng hòa Pháp”, 
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10, năm 2017. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
52 
tương lai bởi quy định này hỗ trợ cho 
quyền tiếp cận công lý của công dân 
cũng như cho sự minh bạch và trách 
nhiệm của công quyền. Do khiếu nại về 
đất đai luôn diễn ra gay gắt, phức tạp 
nên trước mắt cần quy định cụ thể trong 
Luật Tiếp công dân năm 2013 là mọi 
đơn thư khiếu nại về đất đai phải được 
Ban tiếp công dân hoặc Bộ phận tiếp 
công dân thuộc các cơ quan, tổ chức có 
liên quan tiếp nhận, phân loại và chuyển 
đến đúng chủ thể có thẩm quyền giải 
quyết. Sau khi chuyển đến đúng địa chỉ, 
Ban tiếp công dân hoặc Bộ phận tiếp 
công dân thông báo bằng văn bản cho 
người sử dụng đất biết để người này tiếp 
tục liên hệ, thực hiện quyền khiếu nại 
của mình. 
Thứ hai, cần nhận thức rằng địa vị 
pháp lý giữa người khiếu nại với người 
bị khiếu nại là bất bình đẳng với nhau và 
mức độ bất bình đẳng càng thể hiện rõ 
rệt khi đại đa số trường hợp người bị 
khiếu nại lại chính là người giải quyết 
khiếu nại lần đầu. Từ đó, khả năng thành 
công của người sử dụng đất là rất thấp 
bởi như một lẽ tự nhiên, cơ quan hành 
chính không muốn phủ định quyết định 
hành chính của chính mình đã ban hành 
trước đó. Cơ chế giải quyết khiếu nại 
theo kiểu “bộ trưởng - quan tòa” dường 
như không phù hợp với nguyên tắc bình 
đẳng trước pháp luật - một nguyên tắc 
cốt lõi của nhà nước pháp quyền. Do đó, 
chúng tôi cho rằng, cần mạnh dạn sửa 
đổi cơ chế giải quyết khiếu nại theo 
nguyên tắc: “việc giải quyết khiếu nại 
lần đầu thuộc thẩm quyền của cấp trên 
trực tiếp của cá nhân, tập thể có quyết 
định hành chính bị khiếu nại” và “việc 
giải quyết khiếu nại lần hai thuộc thẩm 
quyền của cấp trên trực tiếp của người 
giải quyết khiếu nại lần đầu mà vẫn 
còn bị khiếu nại”. Trên cơ sở đó, Luật 
Khiếu nại năm 2011 cần minh định thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu của 
Chủ tịch UBND cấp trên đối với quyết 
định hành chính của tập thể UBND cấp 
dưới trực tiếp. Theo logic đó thì Chủ 
tịch UBND cấp trên trực tiếp sẽ có thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối 
với quyết định hành chính đã được Chủ 
tịch UBND cấp dưới giải quyết nhưng 
còn khiếu nại tiếp theo. 
Thứ ba, Luật Khiếu nại năm 2011 cần 
bãi bỏ quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng 
cơ quan ngang bộ giải quyết khiếu nại 
lần hai đối với quyết định hành chính 
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải 
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại bởi 
Bộ trưởng không phải là cấp trên trực 
tiếp của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Đồng 
thời, Luật Khiếu nại năm 2011 cần bổ 
sung thẩm quyền giải quyết khiếu nại 
lần hai cho Thủ tướng Chính phủ đối với 
các khiếu nại đã được Chủ tịch UBND 
cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan 
ngang bộ giải quyết lần đầu mà còn 
khiếu nại. Trên cơ sở sửa đổi Luật Khiếu 
nại năm 2011, Quốc hội cần tiến hành 
sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 nhằm 
đảm bảo tính thống nhất về thẩm quyền 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
53 
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất 
đai. Theo đó, Luật Đất đai năm 2013 sẽ 
không quy định thẩm quyền của Bộ 
trưởng Bộ TNMT giải quyết khiếu nại 
lần hai đối với quyết định hành chính 
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải 
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại. Thay 
vào đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ là 
người giải quyết khiếu nại đối với các 
khiếu nại đã được Chủ tịch UBND cấp 
tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan 
ngang bộ giải quyết lần đầu mà còn 
khiếu nại. Quy định thẩm quyền giải 
quyết khiếu nại cho Thủ tướng Chính 
phủ không chỉ tạo niềm tin cho người sử 
dụng đất mà còn đảm bảo chất lượng, 
hiệu quả trong việc giải quyết dứt điểm 
các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài. 
Thứ tư, về thẩm quyền giải quyết 
khiếu nại của Giám đốc Văn phòng đăng 
ký đất đai thì Nghị định số 75/2012/NĐ-
CP quy định hợp lý hơn Luật Khiếu nại 
năm 2011. Tuy nhiên, tình trạng nghị 
định “vượt” luật là điều không thể 
khuyến khích. Do đó, cần sửa đổi Luật 
Khiếu nại năm 2011 theo hướng tiếp thu 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại được 
quy định trong Nghị định số 
75/2012/NĐ-CP. Có như vậy mới đảm 
bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp 
luật. 
Cuối cùng, sửa đổi Điều 33 Luật 
Khiếu nại năm 2011 theo hướng bỏ loại 
giấy tờ mang tính bắt buộc trong hồ sơ 
giải quyết khiếu nại lần hai là “quyết 
định giải quyết khiếu nại lần đầu”. Nhà 
làm luật nên quy định theo hướng linh 
hoạt là “quyết định giải quyết khiếu nại 
lần đầu” chỉ áp dụng đối với trường hợp 
đã giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng 
vẫn tiếp tục khiếu nại. Trường hợp khiếu 
nại lần đầu không được giải quyết mà 
người sử dụng đất khiếu nại lần hai thì 
không cần loại giấy tờ này. Như vậy, 
Điều 33 Luật Khiếu nại năm 2011 được 
sửa như sau: “Trường hợp khiếu nại lần 
hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm 
theo quyết định giải quyết khiếu nại lần 
đầu (nếu có), các tài liệu có liên quan 
cho người có thẩm quyền giải quyết 
khiếu nại lần hai”. Sửa đổi này tuy nhỏ 
nhưng sẽ đảm bảo cho việc khiếu nại và 
giải quyết khiếu nại lần hai được diễn ra 
hiệu quả, đúng pháp luật./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Hoàng Anh, 2017. Những 
nội dung có thể tham khảo từ pháp luật 
về khiếu nại của Cộng hòa Pháp. Tạp chí 
Nghiên cứu lập pháp số 10. 
2. Nguyễn Mạnh Hùng, 2015. Phân 
định thẩm quyền giải quyết khiếu nại 
hành chính và thẩm quyền xét xử hành 
chính ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
3. Cao Vũ Minh, 2012. Để khiếu nại 
xứng tầm là một quyền hiến định. Tạp 
chí Nhà nước và pháp luật số 10. 
4. Nguyễn Cửu Việt, 2005. Cải cách 
hành chính: về khái niệm thẩm quyền, 
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
54 
5. Báo cáo số 304/BC-CP ngày 
26/10/2012 của Chính phủ thực hiện 
chính sách, pháp luật trong giải quyết 
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với 
các quyết định hành chính về đất đai. 
6. Thanh tra Chính phủ, Báo cáo công 
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo 
giai đoạn 2012 - 2015 và nhiệm vụ, giải 
pháp trong thời gian tới tại Hội nghị trực 
tuyến toàn quốc về công tác tiếp công 
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày 
7/10/2016 (theo Công điện số 771/CĐ-
VPCP ngày 4/10/2016 của Văn phòng 
Chính phủ). 
7. Báo cáo số 82/BC-BTNMT về 
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 
trong lĩnh vực đất đai ngày 3/10/2016 
của Bộ TNMT. 
COMPLETION OF LEGAL REGULATIONS ON THE COMPETENCE 
ON COMPLAINT SETTLEMENT IN THE LAND AREA 
Cao Vu Minh 
Ho Chi Minh University of Law 
(Email: cvminh@hcmulaw.edu.vn) 
ABSTRACT 
Complaints are an important method to help land users protect their legitimate rights and 
interests against illegal administrative decisions. However, there are many inadequacies 
and shortcomings regarding land jurisdiction. Some shortcomings include: i. The 
competence to settle complaints about administrative decisions issued by the People’s 
Committees at all levels has not been specified yet; ii. The competence to settle second-time 
complaints of ministers and heads of ministerial-level agencies is unreasonable; iii. There 
is a conflict of jurisdiction over the administrative decision of business units-public 
agencies who delivery public service in the field of land. These shortcomings have caused 
great obstacles for land users in the exercise of his right to complain... The article analyses 
regulations in the 2011 Law on Complaints and 2013 Land Law relating to jurisdiction to 
resolve complaints in the land; also it points out some shortcomings, thereby suggests 
relevant proposals. 
Key words: Land users, complaints, administrative decisions, authority. 

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_cac_quy_dinh_phap_luat_ve_tham_quyen_giai_quyet_k.pdf