Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan

Dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi

(NCT) tại các khu đô thị ở các thành phố lớn đang là

những vấn đề rất được quan tâm của nhiều gia đình,

nhất là những người có bố mẹ ở quê muốn đưa ra

thành phố sống cùng con, cháu và các gia đình có

NCT thường phải ở nhà một mình. Để xác định được

nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ này, chúng

tôi đã triển khai một điều tra 201 chủ hộ gia đình

sống tại một số toà nhà được chọn ngẫu nhiên trong

khu chung cư An Lạc, C1, C2 và C3 thuộc phường Cầu

Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Kết quả phỏng vấn

cho thấy chỉ 5,5% chủ hộ không hưởng ứng mô hình

trung tâm chăm sóc sức khỏe (CSSK) ban ngày có

phục hồi chức năng (PHCN) gần nơi ở của các cư dân,

trong khi số người hưởng ứng và sẵn sàng chi trả là

68,2%, số còn phân vân là 26,3%. Về mô hình xây

dựng các trung tâm vui chơi, giải trí, giao lưu có kèm

CSSK ban ngày cho người cao tuổi thì chỉ có 11%

người được hỏi không hưởng ứng, số hưởng ứng và

sẵn sàng chi trả là 52,2%, số còn phân vân là 36,8%.

Với các dịch vụ tại trung tâm chăm sóc ban ngày thì

được ưa chuộng nhất là truyền thông nâng cao hiểu

biết về sức khoẻ, bệnh tật, biết tự chăm sóc mình

(75,6%), tiếp đó là thể dục, dưỡng sinh (73,6%), xoa

bóp, bấm huyệt, mát xa, xông hơi (69,7%), cung cấp

chế độ ăn uống khoa học (64,2%), phục hồi chức

năng (60,2%), vui chơi, giải trí, giao lưu (58,2%). Với

mức giá đề xuất là 200.000 VNĐ/ngày cho các dịch vụ

vui chơi, giải trí tại trung tâm (không bao gồm ăn

uống, đi lại và chi phí cho các dịch vụ CSSK) thì có tới

45,8% đồng ý trả với mức giá này, 41,8% muốn trả ở

mức thấp hơn, tuy nhiên lại có 12,4% có thể trả cao

hơn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức

chi trả lớn hơn hoặc bằng mức giá 200.000 VNĐ/ngày

với các yếu tố trình độ học vấn và nghề nghiệp của

đối tượng nghiên cứu.

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan trang 1

Trang 1

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan trang 2

Trang 2

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan trang 3

Trang 3

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan trang 4

Trang 4

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan trang 5

Trang 5

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 17120
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan

Nhu cầu và khả năng chi trả của người dân với các dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi tại một khu đô thị ở Hà Nội năm 2021 và mội số yếu tố liên quan
vietnam medical journal n02 - april - 2021 
176 
cũng cho thấy vai trò của mạng lưới cộng tác 
viên/y tế thôn bản trong việc hỗ trợ triển khai 
hoạt động. 
Do hạn chế về nguồn lực trong nghiên cứu 
này, chúng tôi chỉ tiếp cận phỏng vấn sâu và 
thảo luận nhóm với đại diện các bên liên quan từ 
tuyến xã/phường (trạm y tế); tuyến quận/huyện 
(trung tâm y tế); tuyến tỉnh/thành phố (các bệnh 
viện, trung tâm kiểm soát bệnh tật, sở y tế); 
tuyến trung ương (đại diện chương trình PCUT), 
thay vì tiếp cận toàn bộ các bên liên quan đã xác 
định được thông qua quá trình thảo luận nhóm. 
V. KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các bên liên 
quan đến chương trình sàng lọc từ trung ương 
đến địa phương, bao gồm Bộ y tế - vai trò chủ 
trì; bệnh viện K trung ương – vai trò điều phối 
chính của hoạt động, bộ tài chính và bộ kế 
hoạch đầu tư– vai trò huy động nguồn lực triển 
khai chương trìnhcơ sở y tế tuyến trung ương; 
bảo hiểm xã hội Việt Nam- vai trò quan trọng vì 
một trong những nguồn lực tài chính cơ bản 
được xác định để triển khai chương trình một 
cách bền vững và hiệu quả. Ở tuyến tỉnh, ủy ban 
nhân dân các tỉnh/thành phố - vai trò quyết định 
chủ trương triển khai chương trình sàng lọc, 
trung tâm kiểm soát bệnh tật/trung tâm y tế dự 
phòng tuyến tỉnh, bệnh viện tuyến tỉnhvà tuyến 
trung ương trong việc thực hiện kỹ thuật xét 
nghiệm và nội soi đại trực tràng để đảm bảo tính 
chính xác của kỹ thuật sàng lọc cũng như đảm 
bảo hạn chế các biến chứng của nội soi đại trực 
tràng. Ở tuyến xã/phường, vai trò của các trạm 
y tế xã/phường được nhấn mạnh trong việc triển 
khai hoạt động cùng với mạng lưới cộng tác 
viên/y tế thôn bản. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bray F., Ferlay J., Soerjomataram I. và cộng 
sự. (2018). Global Cancer Statistics 2018: 
GLOBOCAN Estimates of Incidence and Mortality 
Worldwide for 36 Cancers in 185 Countries. CA 
Cancer J Clin. 
2. Trần Văn Thuấn (2014), Báo cáo chuyên đề 
“Tình hình thực hiện dự án phòng chống ung thư”, 
Hà Nội. 
NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG CHI TRẢ CỦA NGƯỜI DÂN VỚI CÁC DỊCH VỤ 
CHĂM SÓC BAN NGÀY CHO NGƯỜI CAO TUỔI TẠI MỘT KHU ĐÔ THỊ 
 Ở HÀ NỘI NĂM 2021 VÀ MỘI SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Bùi Thị Ngọc Minh1, Nguyễn Thị Lan Anh2, Nguyễn Thị Thu Trang3, 
Huỳnh Phước Thọ4, Nguyễn Lân Hiếu5, Lưu Ngọc Hoạt2. 
TÓM TẮT45 
Dịch vụ chăm sóc ban ngày cho người cao tuổi 
(NCT) tại các khu đô thị ở các thành phố lớn đang là 
những vấn đề rất được quan tâm của nhiều gia đình, 
nhất là những người có bố mẹ ở quê muốn đưa ra 
thành phố sống cùng con, cháu và các gia đình có 
NCT thường phải ở nhà một mình. Để xác định được 
nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ này, chúng 
tôi đã triển khai một điều tra 201 chủ hộ gia đình 
sống tại một số toà nhà được chọn ngẫu nhiên trong 
khu chung cư An Lạc, C1, C2 và C3 thuộc phường Cầu 
Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Kết quả phỏng vấn 
cho thấy chỉ 5,5% chủ hộ không hưởng ứng mô hình 
1Viện Đào tạo YHDP & YTCC, Đại học Y Hà Nội 
2Đại học Y Hà Nội 
3Trung tâm Y tế Quận Nam Từ Liêm 
4Công ty Cổ phần eDoctor 
5Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
Chịu trách nhiệm chính: Bùi Thị Ngọc Minh 
Email: buiminh.hn1629x@gmail.com 
Ngày nhận bài: 22.2.2021 
Ngày phản biện khoa học: 31.3.2021 
Ngày duyệt bài: 9.4.2021 
trung tâm chăm sóc sức khỏe (CSSK) ban ngày có 
phục hồi chức năng (PHCN) gần nơi ở của các cư dân, 
trong khi số người hưởng ứng và sẵn sàng chi trả là 
68,2%, số còn phân vân là 26,3%. Về mô hình xây 
dựng các trung tâm vui chơi, giải trí, giao lưu có kèm 
CSSK ban ngày cho người cao tuổi thì chỉ có 11% 
người được hỏi không hưởng ứng, số hưởng ứng và 
sẵn sàng chi trả là 52,2%, số còn phân vân là 36,8%. 
Với các dịch vụ tại trung tâm chăm sóc ban ngày thì 
được ưa chuộng nhất là truyền thông nâng cao hiểu 
biết về sức khoẻ, bệnh tật, biết tự chăm sóc mình 
(75,6%), tiếp đó là thể dục, dưỡng sinh (73,6%), xoa 
bóp, bấm huyệt, mát xa, xông hơi (69,7%), cung cấp 
chế độ ăn uống khoa học (64,2%), phục hồi chức 
năng (60,2%), vui chơi, giải trí, giao lưu (58,2%). Với 
mức giá đề xuất là 200.000 VNĐ/ngày cho các dịch vụ 
vui chơi, giải trí tại trung tâm (không bao gồm ăn 
uống, đi lại và chi phí cho các dịch vụ CSSK) thì có tới 
45,8% đồng ý trả với mức giá này, 41,8% muốn trả ở 
mức thấp hơn, tuy nhiên lại có 12,4% có thể trả cao 
hơn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức 
chi trả lớn hơn hoặc bằng mức giá 200.000 VNĐ/ngày 
với các yếu tố trình độ học vấn và nghề nghiệp của 
đối tượng nghiên cứu. Từ khóa: nhu cầu, khả năng 
chi trả, chăm sóc ban ngày, người cao tuổi. 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 501 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2021 
177 
SUMMARY 
NEEDS AND ABILITY TO PAY FOR THE 
ELDERLY'S DAYCARE AMONG PEOPLE IN 
HANOI'S URBAN BUILDING IN 2021 
Daycare services for the elderly in urban areas in 
big cities are very concerning issues for many families. 
Those whose parents in the countryside want to bring 
parents to the city living with children, grandchildren, 
and ...  cho người cao tuổi của người dân tại một 
số khi đô thị Hà Nội năm 2021 
2.4. Đạo đức nghiên cứu: Nhóm nghiên 
cứu được Bệnh viện Đại học Y Hà Nội giới thiệu 
và được Trung tâm Y tế Quận Nam Từ Liêm, 
Công ty Cổ phần eDoctor, Bộ môn Thống kê, Tin 
học Y học, Đại học Y Hà Nội và Uỷ ban nhân dân 
Phường Cầu Diễn phối hợp triển khai với sự 
đồng ý tham gia của các chủ hộ gia đình. Toàn 
bộ thông tin đối tượng cung cấp chỉ sử dụng cho 
mục đích nghiên cứu và lập kế hoạch CSSK cho 
các hộ gia đình. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu (n=201) 
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Nhóm tuổi 
18-29 8 4,0 
30-59 140 69,7 
≥60 53 26,3 
Tuổi trung bình X ± SD (min-max): 47,8 ± 14,6 (22-84) 
Giới tính 
Nam 67 33,3 
Nữ 134 66,7 
Quan hệ với chủ hộ 
Chủ hộ 117 58,2 
Khác (Vợ/ con/bố mẹ chủ hộ) 84 41,8 
Trình độ học vấn cao 
nhất 
Từ THPT trở xuống 15 7,5 
Trung cấp 21 10,4 
Cao đẳng/Đại học 122 60,7 
Sau đại học 43 21,4 
Thu nhập trung bình Trung vị (Tứ phân vị) = 10.000.000 VNĐ (5.000.000 -10.000.000) 
Tổng số người > 60 
tuổi trong gia đình 
1 người 31 39,2 
2 người 40 50,6 
3 người 6 7,6 
4 người 2 2,5 
Gia đình có người 
mắc bệnh mãn tính 
Có 68 33,8 
Không 133 66,2 
Bố/ mẹ đang sống ở 
quê 
Có 120 59,7 
Không 81 40,3 
Do đa số người trả lời bộ câu hỏi là chủ hộ 
(58,2%) nên nhóm tuổi của đối tượng nghiên 
cứu chủ yếu từ 30-59 tuổi (69,7%), tiếp đó là 
nhóm tuổi trên 60 tuổi 26,4%. Về số hộ có NCT 
thì mặc dù chỉ có 79 hộ nhưng do nhiều hộ có 2, 
thậm chí 4 NCT nên tổng số NCT của 201 hộ này 
lên tới 137 người, trong khi đó còn có 120 hộ có 
bố, mẹ đang sống ở quê nên lực lượng khách 
hàng tiềm năng cho các dịch vụ cho NCT là rất 
lớn. Về giới tính, nữ chiếm tỷ lệ cao hơn là 
66,7% sau đó là nam với 33,3%. Do nghiên cứu 
chọn chủ đích các khu nhà chung cư cao tầng 
thuộc các khu đô thị mới nên mặt bằng dân trí 
của đối tượng nghiên cứu khá cao, có tới 43% 
có trình độ sau đại học, 60,7% có trình độ cao 
đẳng/ đại học và chỉ có 15% có trình độ từ THPT 
trở xuống. Ngoài ra do các cộng đồng dân cư 
này mới được hình thành nên có nhiều chủ hộ có 
bố mẹ ở quê (59,7%). Về thu nhập bình quân 
đầu người/tháng trung bình là 10.000.000 VNĐ. 
Số gia đình có người mắc bệnh mãn tính cũng 
chiếm tới 33,8%. 
Bảng 2: Thông tin người có bố mẹ ở quê (n=120) 
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Muốn mời bố mẹ 
ra Hà Nội ở cùng 
Có 56 46,7 
Không 52 43,3 
Nếu có dịch vụ chăm sóc các cụ chu đáo 12 10 
Gặp khó khăn gì 
khi bố mẹ ra chơi 
ở cùng 
Phải để bố/mẹ ở nhà một mình khi đi làm 
nên cảm giác không yên tâm 
17 14,2 
Bố mẹ không muốn ở lâu do buồn và thiếu 
bạn bè cùng tuổi để giao lưu 
96 80 
Cả hai 7 5,8 
Với những gia đình có bố mẹ ở quê thì tỷ lệ muốn mời bố mẹ ra Hà Nội là 46,7%, nếu có dịch vụ 
chăm sóc các cụ chu đáo là 10%. Về thực trạng khó khăn khi bố mẹ ra chơi cùng thì 80% do nguyên 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 501 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2021 
179 
nhân bố mẹ không muốn ở lâu do buồn, thiếu bạn bè cùng tuổi để giao lưu và 14,2% phải để bố/mẹ 
ở nhà một mình khi đi làm nên cảm giác không yên tâm. 
Bảng 3: Nhu cầu tham gia dịch vụ tại trung tâm CSSK ban ngày (n=201) 
Dịch vụ 
Không đồng ý Phân vân Đồng ý 
n (%) n (%) n (%) 
Đồng ý tham gia và chi trả cho dịch vụ CSSK, PHCN 
tại các trung tâm gần nơi ở của các cư dân (bằng giá 
tiền dịch vụ theo yêu cầu tại các bệnh viện) 
11(5,5) 53 (26,3) 137(68,2) 
Đồng ý tham gia và chi trả cho các hoạt động vui 
chơi, giải trí, giao lưu tại các trung tâm chăm sóc ban 
ngày cho NCT (giá thoả thuận tuỳ theo loại dịch vụ và 
thời gian sử dụng dịch vụ) 
22 (11,0) 74 (36,8) 105(52,2) 
Kết quả cho thấy, chỉ 5,5% số người được hỏi 
không đồng ý tham gia, chi trả cho dịch vụ 
CSSK, PHCN, trong khi tỷ lệ đồng ý tới 68,2% và 
tỷ lệ còn phân vân là 26,4%. Nhu cầu tham gia 
và chi trả cho các hoạt động vui chơi, giải trí, 
giao lưu tại các trung tâm chăm sóc ban ngày 
cho NCT có tỷ lệ không đồng ý là 11%, đồng ý 
là 52,2% và phân vân là 36,8%. 
Khi được hỏi về các dịch vụ nào địa phương 
nên tổ chức để tăng cường chăm sóc cho NCT 
thì có tới 84,1% đề xuất cần tổ chức khám sức 
khoẻ định kỳ cho NCT, 69,7% mong muốn có 
các trung tâm CSSK ban ngày, PHCN gần nơi 
NCT sống, 58,7% muốn có các khu dưỡng lão ở 
nơi có cảnh quan đẹp, khí hậu tốt, 46,8% muốn 
có các khu vui chơi, giải trí cho người cao tuổi và 
cũng có tới 39,3% muốn có các khu chăm sóc 
cuối đời cho những người bệnh mà bệnh viện đã 
trả về. 
Tại các trung tâm vui chơi, giải trí và CSSK 
ban ngày thì dịch vụ được ưa chuộng nhất là 
Truyền thông nâng cao hiểu biết về sức khoẻ, 
bệnh tật, biết tự chăm sóc mình (75,6%), tiếp 
đó là Thể dục, dưỡng sinh (73,6%), Xoa bóp, 
bấm huyệt, mát xa, xông hơi (69,7%), Cung cấp 
chế độ ăn uống khoa học (64,2%), PHCN 
(60,2%), Vui chơi, giải trí, giao lưu (58,2%), còn 
nhu cầu Thăm quan, du lịch chỉ chiếm 30,3%. 
Bảng 4: Khả năng chi trả của các hộ gia đình cho các dịch vụ tại trung tâm chăm sóc 
ban ngày 
Khả năng chi trả 
Tần số 
(n) 
Tỷ lệ 
(%) 
Sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ y tế tại Trung 
tâm (như với giá dịch vụ theo yêu cầu tại các 
bệnh viện) 
Có 76 37,8 
Không 16 8,0 
Tùy loại dịch vụ và giá dịch vụ 109 54,2 
Mức giá chi trả cho các dịch vụ vui chơi, giải trí 
tại Trung tâm (không bao gồm ăn uống, đi lại 
và phí cho các dịch vụ y tế có người phục vụ) 
<200.000 VNĐ 84 41,8 
200.000 VNĐ 92 45,8 
>= 200.000 VNĐ 25 12,4 
Chỉ có 8% số người được hỏi không sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ y tế tại Trung tâm, trong khi 
tỷ lệ đồng ý và tuỳ theo loại hình dịch vụ, giá dịch vụ lần lượt là 37,8% và 54,2%. Với mức giá đề 
xuất là 200.000 VNĐ/ngày (không kể dịch vụ đưa đón, ăn trưa và các dịch vụ y tế có người phục vụ), 
có tới 45,8% đồng ý trả với mức này, số người trả dưới mức 200.000 VNĐ/ngày là 41,8%, trong khi 
có tới 12,4% sẵn sàng trả cao hơn. 
Bảng 5: Hồi quy đa biến khả năng chi trả cho dịch vụ chăm sóc ban ngày và một số yếu 
tố liên quan (n=201) 
12 
Đồng ý trả 
≥200.000 
VNĐ/ngày 
OR 
thô 
Khoảng tin 
cậy 95% 
OR 
hiệu 
chỉnh 
Khoảng tin 
cậy 95% 
n % 
Tuổi 117 58,2 1,010 (0,99; 1,03) 1,018 (0,98;1,04) 
Số thành viên gia đình 117 58,2 0,999 (0,79; 1,27) 1,157 (0,87;1,5) 
Thu nhập 117 58,2 0,688 (0,27; 1,26) 1 1 
Giới tính 
Nam (nhóm chứng) 43 21,4 1 
Nữ 74 36,8 1,453 (0,79; 2,66) 0,838 (0,39; 1,77) 
vietnam medical journal n02 - april - 2021 
180 
Chủ hộ 
Có (nhóm chứng) 71 35,3 1 
Không 46 22,9 0,784 (0,45; 1,38) 0,917 (0,45;1,85) 
Nghề nghiệp 
Cán bộ công nhân viên 
chức nhà nước 
27 13,4 1 
Kinh doanh, buôn bán 27 13,4 4,167 (1,47; 11,7) 6,489 (2,1;19,7) 
Nhân viên các tổ chức 
ngoài nhà nước 
25 12,4 
0,827 
(0,38; 1,77) 
0,942 (0,4;2,17) 
Hưu trí, nội trợ 38 19 1,407 (0,67; 2,95) 2,296 (0,8;6,58) 
Trình độ học vấn 
Từ THPT trở xuống 8 4 1 
Trung cấp 13 6,6 1,422 (0,37; 5,44) 1,883 (0,43;8,13) 
Cao đẳng/Đại học 65 32,2 0,998 (0,34; 2,92) 1,684 (0,48;5,8) 
Sau đại học 31 15,4 2,260 (0,67; 7,60) 5,326 (1,25;22,65) 
Có người mắc bệnh mạn tính 
Có (nhóm chứng) 34 16,9 1 1 
Không 83 41,3 1,666 (0,91; 2,99) 2,309 (1,14;4,6) 
Pseudo R2= 0,179 
Kết quả bảng cho thấy 2 yếu tố nghề nghiệp 
và trình độ học vấn tác động có ý nghĩa thống kê 
với việc sẵn sàng chi trả cho dịch vụ chăm sóc 
ban ngày, Trình độ sau đại học có mức chi trả cao 
gấp 5,326 lần so với trình độ THPT trở xuống với 
CI (1,25;22,65) với p= 0,024, Về nghề nghiệp 
những người có làm kinh doanh buôn bán có mức 
chi trả cao gấp 6,489 lần so với cán bộ công nhân 
viên chức CI (2,1;19,7) với p= 0,001. 
IV. BÀN LUẬN 
Nghiên cứu chúng tôi chia dịch vụ chăm sóc 
ban ngày làm 2 dịch vụ chính đó chăm sóc về 
sức khỏe (CSSK) và chăm sóc về tinh thần. Về 
nhu cầu CSSK tỷ lệ tham gia dịch vụ CSSK, phục 
hồi chức năng tại các trung tâm gần nơi ở của 
các cư dân với tỷ lệ đồng ý 68,2% khá tương 
đồng nghiên cứu của Đỗ Mạnh Hùng năm 2018 
[2]. Ngoài ra, tỷ lệ đồng ý tham gia cho các hoạt 
động vui chơi, giải trí, giao lưu tại các trung tâm 
chăm sóc ban ngày cho những người cao tuổi 
chiếm tỷ lệ đồng ý thấp hơn chiếm 52,2%. Sự 
chênh lệch tỷ lệ trên có thể giải thích dựa theo 
hình thái chăm sóc NCT của Phạm Vũ Hoàng [3] 
đó là đi từ CSSK đến chăm sóc đời sống tinh 
thần cho NCT. Tuy nhiên dịch vụ này còn khá 
mới tại Việt Nam nên có tỷ lệ người dân còn 
phân vân tương ứng các dịch vụ CSSK và dịch vụ 
chăm sóc tinh thần cho người người cao tuổi là 
26,4% và 36,8%. Nhìn chung tỷ lệ đồng ý tham 
gia dịch vụ chúng tôi dự kiến triển khai tương 
đối đồng đều về tỷ lệ phần trăm, riêng tỷ lệ 
tham quan du lịch có nhu cầu thấp nhất. Điều 
này có thể giải thích do yếu tố sức khỏe là trở 
ngại khiến cho người dân không có nhu cầu đi lại 
xa hay tham quan du lịch nhiều so với những 
nhu cầu khác. Dịch vụ truyền thông nâng cao 
hiểu biết về sức khỏe bệnh tật, biết tự chăm sóc 
mình chiếm tỷ lệ cao nhất cho thấy người dân có 
nhu cầu tìm hiểu về kiến thức CSSK cũng như 
kiểm soát bệnh tật tốt hơn. Đặc điểm này cũng 
giống với nghiên cứu tình trạng sức khỏe và nhu 
cầu chăm sóc sức khỏe của NCT ở huyện Quốc 
Oai [4] kết luận hơn một nửa số người được hỏi 
yêu cầu thêm thông tin về chăm sóc sức khỏe 
đặc biệt là quản lý bệnh tật. 
Về khả năng chi trả cho dịch vụ, tỷ lệ đối 
tượng nghiên cứu sẵn sàng chi trả là 37,8% 
trong khi 54,2% là chọn tùy loai dịch vụ và tùy 
giá dịch vụ. Tỷ lệ không chi trả chiếm tỷ lệ thấp 
nhất là 8%. Nghiên cứu về thực trạng chăm sóc 
người cao tuổi chỉ ra rằng yếu tố tài chính là trở 
ngại quan trọng nhất trong quá trình tiếp cận 
dịch vụ chăm sóc NCT [5]. Qua đó biểu hiện 
người dân sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ chăm 
sóc ban ngày nếu có nhu cầu với mức giá hợp lý. 
Khi yêu cầu đối tượng đưa ra mức giá phù hợp 
với dịch vụ thì mức giá đề xuất của người dân 
với tỷ lệ cao nhất là 45,8% là 200.000 VNĐ / 
ngày. Bên cạnh đó đề xuất mức giá chiếm thấp 
hơn 200.000 VNĐ /ngày cũng chiếm tỷ lệ 41,8%. 
Kết quả này phù hợp thực trạng kinh tế của địa 
phương bên cạnh đó mức giá 200.000 VNĐ/ 
ngày. Ngoài ra thì các đối tượng nghiên cứu 
chưa hiểu được hết về những lợi ích cụ thể khi 
sử dụng dịch vụ này. Chúng là một giải pháp 
thay thế cho các dịch vụ chăm sóc dài hạn 
truyền thống, cung cấp hỗ trợ dịch vụ linh hoạt 
khi có nhu cầu, giảm chí phí chăm sóc, cung cấp 
đáp ứng nhu cầu từ chăm sóc sức khỏe đến 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 501 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2021 
181 
chăm sóc tinh thần cho NCT [6]. Tuy nhiên với 
tỷ lệ không nhỏ người dân sẵn sàng chi trả với 
mức giá cao hơn, Qua đó chứng tỏ cần có sự 
cân nhắc giữa mức giá và những giá trị mà dịch 
vụ đem đến cho người dân. 
Ngoài ra nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng 
những người có trình độ học vấn đai học và 
những người làm kinh doanh buôn bán có khả 
năng chi trả cho dịch vụ chăm sóc ban ngày cao 
hơn lần lượt so với đối tượng có trình độ học vấn 
dưới THPT và nhóm nghề nghiệp cán bộ công 
nhân viên chức. Điều này cũng được lý giải 
nghiên cứu các yếu tố kinh tế xã hội quyết định 
nhu cầu chăm sóc sức khỏe và tình cảm của 
người lớn tuổi Iran ở Isfahan [7] chỉ ra rằng nhu 
cầu chăm sóc sức khỏe của NCT mù chữ thấp 
hơn 60% so với nhóm NCT có trình độ đại học. 
Hạn chế của nghiên cứu: Nghiên cứu chọn 
mẫu toàn bộ người dân đang sống tại khu chung 
cư An Lạc, C1, C2 và C3. Tuy nhiên, việc tiếp cận 
các đối tượng và sự hưởng ứng tham gia nghiên 
cứu của họ còn hạn chế, Điều này dẫn đến tỉ lệ 
đáp ứng tham gia nghiên cứu chưa cao và chưa 
đại diện, 
V. KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng phần lớn các 
hộ gia đình được điều tra đều có nhu cầu sử 
dụng các dịch vụ chăm sóc ban ngày, bao gồm 
cả dịch vụ vui chơi, giải trí và các dịch vụ CSSK 
cho NCT và cũng sẵn sàng chi trả cho các dịch 
vụ này như mức giá đề xuất, tương đương với 
mức thu theo yêu cầu tại các bệnh viện. Các yếu 
tố ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người 
dân là trình độ học vấn và nghề nghiệp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hợp 
Quốc (2016), Dự báo dân số Việt Nam 2014- 
2049, Nhà xuất bản Thông tấn. 
2. Đỗ Mạnh Hùng (2018), Nhu cầu, sự hưởng ứng 
dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân 
đô thị phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội 2018 
và một số yếu tố liên quan, Trường Đại học Y Hà Nội. 
3. Phạm Vũ Hoàng (2013), Một số giải pháp nâng 
cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi Việt Nam 
2013, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 
4. Bang K.-S., Tak S.H., Oh J. và cộng sự. 
(2017). Health Status and the Demand for 
Healthcare among the Elderly in the Rural Quoc-
Oai District of Hanoi in Vietnam. Biomed Res Int, 
2017, 4830968. 
5. Huệ N.T. (2010). Thực trạng chăm sóc người 
cao tuổi ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt 
Nam, 99–106. 
6. Oliver R.E. và Foster M. (2013). Adult Day 
Care: An Important Long-Term Care Alternative & 
Potential Cost Saver. Mo Med, 110(3), 227–230. 
7. Nosratabadi M., Nabavi S.H., Rashedi V. và 
cộng sự. (2018). Socioeconomic determinants of 
health-care and emotional needs among Iranian 
older adults in Isfahan. J Educ Health Promot, 7. 
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG BẠO HÀNH KHI 
 MANG THAI Ở PHỤ NỮ ĐÃ KẾT HÔN: MỘT NGHIÊN CỨU MÔ TẢ 
 CẮT NGANG TẠI HUYỆN PHÚ NINH TỈNH QUẢNG NAM 
Nguyễn Thị Thu Trang1, Trần Đình Trung2, Võ Văn Thắng3 
TÓM TẮT46 
Đặt vấn đề: Phụ nữ mang thai là một nhóm dễ bị 
tổn thương, với các nguyên nhân do chồng hoặc bạn 
tình trong thai kỳ. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến 
sức khoẻ của phụ nữ, mà còn gây ra những ảnh 
hưởng xấu đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ sau 
này. Mục tiêu: Xác định các yếu tố liên quan đến bạo 
hành khi mang thai ở phụ nữ đã kết hôn huyện Phú 
Ninh tỉnh Quảng Nam. Phương pháp: Nghiên cứu 
1Trung tâm Y tế huyện Phú Ninh, Sở Y tế tỉnh Quảng Nam 
2Trường Đại học Kỹ thuật Y – Dược Đà Nẵng 
3Trường Đại học Y Dược – Đại học Huế. 
Chịu trách nhiệm chính: Võ Văn Thắng 
Email: vovanthang147@huemed-univ.edu.vn 
Ngày nhận bài: 23.2.2021 
Ngày phản biện khoa học: 2.4.2021 
Ngày duyệt bài: 14.4.2021 
mô tả cắt ngang trên 350 phụ nữ đã kết hôn ở huyện 
Phú Ninh tỉnh Quảng Nam, từ 7/2018 đến tháng 
12/2018. Kết quả: Tỷ lệ bạo hành phụ nữ mang thai 
là 24,9%. Các yếu tố liên quan đến tình trạng bạo 
hành ở phụ nữ khi mang thai: trình độ học vấn, nghề 
nghiệp, tình trạng kinh tế, phụ thuộc kinh tế vào 
chồng, chung sống cùng chồng, yếu tố về tình trạng 
sinh con trai và con gái, số lần mang thai và sự mong 
đợi giới tính thai nhi (p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ bạo 
hành ở phụ nữ khi mang thai là khá cao trong nghiên 
cứu này. Cần xây dựng các chương trình chăm sóc 
sức khỏe sinh sản tại cơ sở y tế các tuyến cần chú 
trọng tập trung sàng lọc sớm các thai phụ bị bạo hành 
trong lần khám thai đầu tiên. Từ khóa: bạo hành, 
phụ nữ mang thai, Quảng Nam. 
SUMMARY 
RISK FACTORS FOR DOMESTIC VIOLENCE 
DURING PREGNANCY IN MARRIED WOMEN: A 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_va_kha_nang_chi_tra_cua_nguoi_dan_voi_cac_dich_vu_ch.pdf