Nhận thức và thực hành về bệnh cao huyết áp của người cao tuổi tại xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn
Bài viết tập trung tìm hiểu những nhận thức và thực hành
của người cao tuổi (NCT) về bệnh cao huyết áp và các yếu tố tác
động đến những nhận thức và thực hành này. Đồng thời, bài viết
cũng cung cấp cái nhìn khác biệt về bệnh cao huyết áp giữa NCT
và bác sĩ. Từ đó, đề xuất một vài giải pháp cho bác sĩ trong quá
trình tư vấn, thăm khám và điều trị bệnh cao huyết áp cho NCT.
Nghiên cứu được thiết kế theo hướng định tính. Tổng cộng có 28
NCT và 02 bác sĩ tham gia vào nghiên cứu. Trong đó, 20 NCT
tham gia phỏng vấn sâu và 08 NCT tham gia thảo luận nhóm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của NCT và bác sĩ
có vài điểm khác biệt về thực hành kiểm soát huyết áp. Mặc dù,
NCT trong nghiên cứu đều tiếp nhận điều trị nhưng một số NCT
vẫn không dùng thuốc thường xuyên, tự đổi loại thuốc khác
không theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc không chủ động thay đổi
thói quen sinh hoạt hàng ngày. Liên quan đến các yếu tố tác
động đến những nhận thức và thực hành này gồm yếu tố truyền
thông, gia đình và trải nghiệm của bản thân.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức và thực hành về bệnh cao huyết áp của người cao tuổi tại xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn
Lê Thị Ngọc Phúc. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 15-26 15 Nhận thức và thực hành về bệnh cao huyết áp của người cao tuổi tại xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn Perception and practice of hypertension among the ederly at Nhi Binh commune, Hoc Mon district Lê Thị Ngọc Phúc1* 1Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: phucle@hcmussh.edu.vn THÔNG TIN TÓM TẮT DOI:10.46223/HCMCOUJS. soci.vi.16.1.1396.2021 Ngày nhận: 12/03/2021 Ngày nhận lại: 24/03/2021 Duyệt đăng: 01/04/2021 Từ khóa: nhận thức về cao huyết áp, người cao tuổi, nghiên cứu định tính, Hóc Môn Keywords: perception of hypertension, the elderly, qualitative research, Hoc Mon Bài viết tập trung tìm hiểu những nhận thức và thực hành của người cao tuổi (NCT) về bệnh cao huyết áp và các yếu tố tác động đến những nhận thức và thực hành này. Đồng thời, bài viết cũng cung cấp cái nhìn khác biệt về bệnh cao huyết áp giữa NCT và bác sĩ. Từ đó, đề xuất một vài giải pháp cho bác sĩ trong quá trình tư vấn, thăm khám và điều trị bệnh cao huyết áp cho NCT. Nghiên cứu được thiết kế theo hướng định tính. Tổng cộng có 28 NCT và 02 bác sĩ tham gia vào nghiên cứu. Trong đó, 20 NCT tham gia phỏng vấn sâu và 08 NCT tham gia thảo luận nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của NCT và bác sĩ có vài điểm khác biệt về thực hành kiểm soát huyết áp. Mặc dù, NCT trong nghiên cứu đều tiếp nhận điều trị nhưng một số NCT vẫn không dùng thuốc thường xuyên, tự đổi loại thuốc khác không theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc không chủ động thay đổi thói quen sinh hoạt hàng ngày. Liên quan đến các yếu tố tác động đến những nhận thức và thực hành này gồm yếu tố truyền thông, gia đình và trải nghiệm của bản thân. ABSTRACT The article is to understand the elderly’s perceptions and practices about hypertension and factors affecting these perceptions and practices. Moreover, the report also provides insight into hypertension between the elderly and medical doctors. Since then, we recommend a few solutions for doctors in counseling, examining, and treating hypertension for the elderly. The research is designed in a qualitative approach. We recruited a total of 28 older people and 02 medical doctors. There were 20 older people getting in-depth interview and 08 people attending focus group discussion. Research findings show that there are some different perceptions of hypertension management between the elderly and doctors. Although the elderly in the study received treatment, some elderly did not take drugs regularly, changed medications themselves without following doctors' instructions, or did not actively change daily living habits. Several influencing factors to these perceptions include media communication, family and personal experiences. 16 Lê Thị Ngọc Phúc. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 15-26 1. Đặt vấn đề Tăng huyết áp (huyết áp cao) là một trong những tình trạng sức khỏe mãn tính phổ biến nhất trên thế giới và là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây tử vong và gánh nặng bệnh tật (Ezzati, Lopez, Rodgers, Vander, & Muray, 2002). Bệnh cao huyết áp là một trong những vấn đề sức khỏe mang tính toàn cầu hiện nay bởi vì tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng, từ 26,4% dân số toàn thế giới năm 2000 dự tính sẽ tăng lên 29,2% vào năm 2025 (Dao, 2007). Cao huyết áp là nguyên nhân dẫn đến bệnh tim mạch, tăng tỷ lệ mắc bệnh nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy tim và bệnh động mạch ngoại biên cũng như là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở các nước đang phát triển nói riêng và toàn cầu nói chung (Dao, 2007; WHO, 2011). Tính đến năm 2015, có khoảng 422,7 triệu trường hợp mắc bệnh tim mạch trên toàn cầu và với tỷ lệ tử vong là 17,92 triệu mỗi năm. Bệnh tim mạch chiếm một phần ba số ca tử vong thế giới (Hội Tim mạch học Việt Nam, 2014; Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương, 2016; WHO, 2011). Tuy nhiên, tình trạng này có thể phòng ngừa để giảm những ảnh hưởng đến sức khỏe của cá nhân cũng như gánh nặng bệnh tật và chi phí y tế của cộng đồng. Điều trị tăng huyết áp có thể giảm 40% nguy cơ tai biến mạch máu não và 15% nguy cơ nhồi máu cơ tim (Rahman et al., 2008; WHO, 2011). Tại Việt Nam, cao huyết áp đã được xác định là một trong mười nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong ở bệnh viện. Tuy nhiên, dữ liệu dựa trên dân số về cao huyết áp ở quy mô lớn vẫn chưa được cập nhật. Thực trạng hiện nay tỉ lệ người mắc bệnh cao huyết áp đang ngày càng gia tăng, từ 1% năm 1960 lên đến 11,7% năm 1992 và đến 47,3% ở người từ 25 tuổi trở lên (Hội Tim mạch học Việt Nam, 2014; Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương, 2016). Bệnh cao huyết áp là căn bệnh có thể được điều chỉnh và có hướng dẫn điều trị rõ ràng để giúp bác sĩ và bệnh nhân của họ kiểm soát tăng huyết áp. Cụ thể như, để kiểm soát cao huyết áp tốt thì người bệnh cần điều chỉnh nhiều thói quen sống như giảm lượng muối trong khẩu phầ ... hực hành theo. 3.4.2. Gia đình Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một vài NCT không thực hiện thăm khám đều đặn theo hướng dẫn của bác sĩ bởi vì người thân không thu xếp được công việc để đưa đến cơ sở y tế. “Cô không biết đi xe máy nên toàn là mấy đứa con chở đi. Nhiều bữa đến lịch khám nhưng mà nó bận chưa xin nghỉ được nên cô cũng đi khám trễ một vài ngày. Vô bác sĩ có hỏi sao khám trễ thì nói là mình quên.” (Nữ, 63 tuổi, chẩn đoán điều trị 2 năm, ngày phỏng vấn 19.09.2020). Ngoài ra, nhiều NCT chia sẻ rằng họ đã phải thay đổi thói quen sinh hoạt hàng ngày trong ăn uống và tập thể dục buổi sáng bởi vì họ tiếp xúc hoặc chứng kiến những câu chuyện đột quỵ của người thân. Họ cho rằng cao huyết áp và đột quỵ có mối quan hệ với nhau. Theo họ, khi huyết áp lên cao họ sẽ có cảm giác chóng mặt, trong trường hợp không cẩn thận họ sẽ té ngã hoặc dẫn đến đột quỵ. Chính vì vậy, họ luôn thăm khám đều đặn theo lời hướng dẫn của bác sĩ, hạn chế ăn mặn, tập thể dục buổi sáng tại nhà hoặc tham gia vào câu lạc bộ dưỡng sinh. “Nhà cô có người họ hàng chạc tuổi cao bị đột quỵ, cô nghe thấy mà sợ. Giờ người đó nói chuyện lấp bấp và bị méo mặt. Thời buổi này đột quỵ sao mà nhiều quá. Hôm trước cô nghe trên đài nói huyết áp với cái vụ đột quỵ có liên quan với nhau. Thành ra cô giờ bớt ăn mặn, chứ cô thích ăn mắm lắm. Sáng sáng bữa nào khỏe thì cô đi tập thể dục với mấy người trong xóm, còn không thì ở nhà cô cũng giơ tay giơ chân mấy cái cho nó giãn gân cốt.” (Nữ, 65 tuổi, chẩn đoán điều trị 5 năm, ngày phỏng vấn 20.09.2020). 3.4.3. Trải nghiệm cá nhân Đối với NCT có thời gian chẩn đoán cao huyết áp từ hai đến ba năm chia sẻ rằng thông tin về cao huyết áp họ cũng được nghe nhiều nhưng họ thường không để tâm đến. Chính vì vậy, họ không nhớ rõ những thông tin được cung cấp cho tới khi họ mắc phải căn bệnh này. Họ phải tìm hiểu nhiều hơn để cải thiện tình trạng sức khỏe vì họ không muốn trở thành gánh nặng cho Lê Thị Ngọc Phúc. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 15-26 23 gia đình. Riêng nhóm NCT được chẩn đoán cao huyết áp từ 5 năm trở lên chia sẻ quá trình tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ về bệnh cao huyết áp cũng thay đổi thói quen sinh hoạt hàng ngày của họ trở nên tốt hơn. Trước đây, bởi vì cuộc sống vất vả nên thời gian họ lao động rất nhiều, họ không có thời gian chăm sóc bản thân, chẳng hạn như tham gia hội dưỡng sinh. Song song đó, việc họ chủ động tham gia Hội Người Cao tuổi và sinh hoạt đều đặn, họ cũng cảm thấy vui vẻ hơn. Bởi vì Hội thường tổ chức các buổi thông tin về những căn bệnh NCT gặp phải, cách phòng ngừa và làm thế nào để có cuộc sống tinh thần thoải mái. Đối với một số NCT đã có thời gian ngưng sử dụng thuốc để kiểm soát huyết áp cũng cho biết những ảnh hưởng sức khỏe và cuộc sống khi không tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một vài điểm khác biệt giữa nhận thức của NCT và bác sĩ trong việc kiểm soát huyết áp. Sự khác biệt này cũng tác động phần nào đến nhận thức và thực hành của NCT về kiểm soát tăng huyết áp. Trong khi các bác sĩ cho rằng, yếu tố quan trọng để kiểm soát huyết áp ở mức ổn định là cải thiện thói quen sinh hoạt hàng ngày của NCT.Tuy nhiên, NCT lại cho rằng thuốc đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát huyết áp, nếu họ không dùng thuốc đều đặn thì tình trạng bệnh sẽ nặng hơn và có thể dẫn đến nhiều căn bệnh khác. “Các bác đến đây khám, trạm luôn tư vấn uống thuốc thường xuyên và kiểm soát chế độ ăn uống” (Bác sĩ tại Trạm Y tế). Ngoài ra, các bác sĩ đánh giá cao việc tuân thủ thăm khám đều đặn để theo dõi huyết áp mục tiêu và điều chỉnh thuốc khi cần thiết là cách thức kiểm soát huyết áp thành công và hiệu quả. Tuy nhiên, một vài NCT cho rằng tuân thủ sử dụng thuốc theo hướng dẫn chỉ là một phần, quan trọng là thuốc uống có phù hợp với cơ thể và không có bất kỳ tác dụng phụ thì mới được xem là kiểm soát huyết áp thành công. “Nhiều bác đến mình khám nhiều khi mình cũng tư vấn cụ thể, dặn dò nhưng mà các bác ít tuân thủ theo. Tháng đi tháng không, thói quen của các bác là khi nào nặng mới tìm đến bác sĩ. Mình cũng phải thông cảm vì nhiều khi các bác lớn tuổi hay quên rồi con cháu bận việc không chở đi khám” (Bác sĩ tại phòng khám). Mặt khác, một vài NCT bày tỏ mong muốn các bác sĩ chủ động trò chuyện với họ hơn khi thăm khám. Bởi vì họ cảm thấy khám tư vấn quá ngắn gọn, mang tính trao đổi một chiều. Thông thường, bác sĩ báo kết quả tổng quát và nhắc nhở dùng thuốc, nhưng họ thường không cung cấp cho bệnh nhân thông tin hữu ích cụ thể. Nếu các bác sĩ đưa ra lời khuyên cải thiện thói quen sinh hoạt. Các bác sĩ thường không thông cảm với hoàn cảnh của họ cũng như những mối quan tâm, những khó khăn của họ trong việc kiểm soát huyết áp của họ. “Nhiều khi lên bệnh viện chờ đã đời vô khám, bác sĩ cho toa rồi dặn ăn uống này nọ rồi xong. Mình không có thời gian hỏi thêm thông tin gì nhiều hết. Nên nhiều khi mình thấy đi ra tiệm thuốc tây mua cho lẹ không phải chờ đợi” (Nữ, 63 tuổi, chẩn đoán điều trị 2 năm, ngày phỏng vấn 19.09.2020). 4. Kết luận Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự một vài nghiên cứu trước đây về nhận thức về bệnh cao huyết áp cũng như nguyên nhân dẫn đến căn bệnh dưới góc nhìn của bệnh nhân (Puveearasan & Pankaj, 2018). Tuy nhiên, nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở NCT, nhóm người thường mắc phải nhiều bệnh tật cùng lúc. Ngoài ra, nghiên cứu này còn tìm hiểu những yếu tố tác động đến nhận thức của NCT về bệnh cao huyết áp. 24 Lê Thị Ngọc Phúc. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 15-26 Điểm mạnh chính trong nghiên cứu của chúng tôi là thiết kế định tính để có thể tìm hiểu sâu hơn về những nhận thức của NCT về bệnh cao huyếp áp. Từ đó, kết quả cho thấy nhận thức của bệnh nhân thường rất khác với nhận thức của bác sĩ (Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương, 2016). Vì vậy, sự khác biệt trong nhận thức của bệnh nhân và bác sĩ sẽ hỗ trợ cung cấp thông tin chi tiết hơn cho các bác sĩ trong quá trình giúp các bệnh nhân kiểm soát tăng huyết áp. Tuy nhiên, những thông tín viên sẵn sàng tham gia phỏng vấn và các nhóm tập trung có thể không phải là đại diện cho dân số chung. Bên cạnh đó, các phát hiện từ nghiên cứu này chủ yếu tiến hành ở khu vực nông thôn và chỉ bao gồm những thông tín viên không cố ý ngừng dùng thuốc tăng huyết áp. Mặc dù, sự tuân thủ với thuốc không được đo lường trong nghiên cứu này và có thể những bệnh nhân sẵn sàng tham gia có thể không thừa nhận liệu họ có cố ý ngừng dùng thuốc hay không. Chính vì vậy, các nghiên cứu tiếp có thể tiến hành ở khu vực đô thị để so sánh liệu rằng có sự khác biệt trong nhận thức của NCT ở khu vực nông thôn và khu vực thành thị về bệnh cao huyết áp hay không. Ngoài ra, tiêu chí lựa chọn thông tín viên liên quan đến việc thực hành sử dụng thuốc kiểm soát huyết áp cũng cần được quan tâm bởi vì theo số liệu thống kê, tỷ lệ không tuân thủ thuốc điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân châu Á có thể cao tới 56% (Hassan & cộng sự; 2006). Dựa theo kết quả nghiên cứu, NCT nhận thức rằng cao huyết áp là căn bệnh “giết người” thầm lặng và không thể điều trị dứt điểm. Mặc dù mức độ nghiêm trọng của căn bệnh này so với các nhóm bệnh thường gặp ở NCT như tim mạch, tiểu đường và xương khớp không cao, nhưng căn bệnh này có liên quan đến những căn bệnh khác và khiến cho sức khỏe của NCT yếu hơn. Nguyên nhân dẫn đến căn bệnh này là do ăn uống, lao động vất vả và căng thẳng tâm lý. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn phát hiện nhận thức của NCT và bác sĩ có vài điểm khác biệt về thực hành kiểm soát huyết áp. Mặc dù, NCT trong nghiên cứu đều tiếp nhận điều trị nhưng một số NCT vẫn không dùng thuốc thường xuyên, tự đổi loại thuốc khác không theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc không chủ động thay đổi thói quen sinh hoạt hàng ngày. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực hành kiểm soát tăng huyết áp của NCT, các bác sĩ nên bày tỏ sự thông cảm đối với những bệnh nhân lớn tuổi so với những bệnh nhân trẻ hơn vì những NCT có thể đang đối mặt với nhiều bệnh lý khác nhau, những chuyển biến trong tâm lý của NCT từ lo lắng căng thẳng đến chấp nhận và tạo động lực để tiếp tục điều trị cao huyết áp cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố từ môi trường sống của NCT. Chính vì vậy, các bác sĩ nên dành một ít thời gian trong quá trình thăm khám để lắng nghe chia sẻ của NCT về những rào cản khiến NCT khó duy trì chế độ sinh hoạt đều đặn và dùng thuốc theo hướng dẫn. Từ đó, các bác sĩ và NCT cùng xây dựng một kế hoạch điều trị phù hợp cho từng đối tượng. Cách tiếp cận này có thể cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân NCT đối với lời khuyên của bác sĩ cao hơn những khuyến nghị chung chung từ bác sĩ. Bên cạnh đó, các bác sĩ cũng nên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thay đổi chế độ sinh hoạt hợp lý cho NCT, giải thích cho NCT biết rằng việc điều chỉnh thói quen sinh hoạt có thể dẫn đến kết quả điều trị cao hơn. Ngoài ra, theo chia sẻ của NCT trong nghiên cứu, một số NCT gặp khó khăn trong việc giao tiếp với bác sĩ điều trị bởi vì thời gian làm việc và kỹ năng giao tiếp. Chính vì vậy, các bác sĩ cũng nên chủ động tham gia các khóa đào tạo về kỹ năng giao tiếp và tư vấn để cải thiện hiệu quả chăm sóc sức khỏe cho NCT. Những nhận thức về bệnh cao huyết áp và thực hành của NCT chịu sự ảnh hưởng của các chương trình truyền thông sức khỏe, gia đình và trải nghiệm bản thân. Trong đó, NCT đặt niềm tin vào các chương trình truyền thông sức khỏe được tổ chức trong các buổi sinh hoạt của hội/đoàn thể và tư vấn trực tiếp từ bác sĩ hơn là các chương trình truyền thông trên mạng xã hội bởi vì khả năng truy cập mạng xã hội của NCT còn hạn chế. LỜI CẢM ƠN Lê Thị Ngọc Phúc. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 15-26 25 Nghiên cứu được tài trợ bởi Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ đề tài mã số T2020-06. Tài liệu tham khảo Aekplakorn, W., Sangthong, R., Kessomboon, P., Putwatana, P., Inthawong, R., Taneepanichskul, S., Chariyalertsak, S. (2012). Changes in prevalence, awareness, treatment and control of hypertension in Thai population, 2004-2009: Thai national health examination survey III-IV. Journal of Hypertension, 30(9), 1734-1742. Correa, A., Rochlani, Y., Khan, M. H., & Aronow, W. S. (2018). Pharmacological management of hypertension in the elderly and frail populations. Expert Review of Clinical Pharmacology, 11(8), 805-817. Dao, A. D. (2007). Tăng huyết áp thầm lặng như thế nào [How silent hypertension]. Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, 47, 445-451. Doan, H. T. T. (2015). Phân tích thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân tăng huyết áp kèm đái tháo đường tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Y học Cổ truyền - Bộ Công An [Analysis of the current situation of drug use in hypertensive patients with diabetes at the outpatient clinic of Traditional Medicine Hospital - Ministry of Public Security]. Hà Nội (Master’s thesis). Trường Đại học Dược Hà Nội, Hanoi, Vietnam. Egan, B. M., Lackland, D. T., & Cutler, N. E. (2003). Awareness, knowledge and attitudes of older Americans about high blood pressure: Implications for healthcare policy, education, and research. Archives of Internal Medicine, 163(6), 681-687. Ezzati, M., Lopez, A. D., Rodgers, A., Vander, H. S., & Muray, C. J. (2002). Comparative risk assessment collaborating group: Selected major risk factors and global and regional burden of disease. Lancet, 360(9343), 1347-1360. Ho, H. A., Nguyen, T. M., Vo, T., Derese, A., & Devroey, D. (2018). Prevalence, awareness, treatment, and control of hypertension and its risk factors in (Central) Vietnam. International Journal of Hypertension, 2018, Article 6326984. Hội Tim mạch học Việt Nam. (2014). Tài liệu hội thảo Tim mạch toàn quốc năm 2014 [Documents of the National Heart Conference 2014]. Retrieved January 11, 2021, from Lee, H. S., Park, Y. M., Kwon, H. S., Lee, J. H., Park, Y. J., Lim, S. Y., Lee, W. C. (2010). Prevalence, awareness, treatment, and control of hypertension among people over 40 years old in a rural area of South Korea: The Chungju Metabolic Disease Cohort (CMC) study. Clinic Expert Hypertens, 32(3), 166-178. Marshall, I. J., Wolfe, C. D. A., & McKevitt, C. (2012). Lay perspective on hypertension and drug adherence: Systematic review of qualitative research. Biomedicine Journal, 344(3953), 1-16. Meiqari, L., Essink, D., Wright, P., & Scheele, F. (2019). Prevalence of hypertension in Vietnam: A systematic review and meta-analysis. Asia Pacific Journal of Public Health, 31(2), 101-112. Puveearasan, K., & Pankaj, B. (2018). Knowledge and perception of hypertension among hypertensive patients attending rural health and training center, department of community 26 Lê Thị Ngọc Phúc. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 15-26 medicine, SRMC & RI. International Journal of Community Medicine and Public Health, 5(6), 2323-2326. Rahman, A. R. A., Ji-Guang, W., Gary, M. Y. K., Dante, D. M., Piyamitr, S., & Renan, S. (2015). Perception of hypertension management by patients and doctors in Asia: Potential to improve blood pressure control. Asia Pacific Family Medicine, 14(2), 1-11. Rahman, S., Hu, H., McNeely, E., Rahman, S. M., Krieger, N., Waterman, P., Gragg, R. D. (2008). Social and environmental risk factors for hypertension in African Americans. Florida Public Health Review, 5(1), 64-72. Rampal, L., Rampal, S., Azhar, M. Z., & Rahman, A. R. (2008). Prevalence, awareness, treatment and control of hypertension in Malaysia: A national study of 16,440 subjects. Public Health, 122(1), 11-18. Taylor, C., & Ward, A. (2003). Patients’ views of high blood pressure, its treatments and risks. Australian Family Physician, 32, 278-282. Tổng cục Thống kê. (2012). Kết quả điều tra biến động dân số và nhà ở năm 2012 [Results of the 2012 population and housing change survey]. Retrieved January 12, 2021, from https://www.gso.gov.vn/ Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương. (2016). Thực trạng tăng huyết áp ở Việt Nam [Situation of hypertension in Vietnam]. Retrieved November 30, 2020, from Wakayabashi, M. (2013) Socio-economic factors influencing the prevalence of hypertension in the rural elderly population of Thai Binh Province, Northern Vietnam, International Journal of Collaborative Research on Internal Medicine and Public Health, 5(7), 532-544. Whelton, P. K., He, J., & Muntner, P. (2004). Prevalence, awareness, treatment and control of hypertension in North America, North Africa and Asia. Journal Human Hypertension, 18(8), 545-551. World Health Organization (WHO). (2011). Aging and global health. Bethesda, MD: NIH Publication. Wu, Y., Tai, E. S., Heng, D., Tan, C. E., Low, L. P., & Lee, J. (2009). Risk factors associated with hypertension awareness, treatment, and control in a multi-ethnic Asian population. Journal of Hypertension, 27(1), 190-197.
File đính kèm:
- nhan_thuc_va_thuc_hanh_ve_benh_cao_huyet_ap_cua_nguoi_cao_tu.pdf