Nhân một trường hợp Hamartoma của lách được điều trị tại bệnh viện bình dân
Tổng quan: Hamartoma lách là một dạng tổn thương lành tính hiếm gặp, lần đầu tiên được mô tả bởi
Rokitansky vào năm 1861, với tỉ lệ 3/200.000 trường hợp phẫu thuật cắt lách. Mặc dù hamartoma lách được tìm
thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng nó được tìm thấy chủ yếu ở người lớn tuổi. Hamartoma lách thường không có triệu
chứng rõ rệt và được xác định một cách tình cờ thông qua khám nghiệm tử thi, nghiên cứu phóng xạ, phẫu thuật
của bệnh Hodgkin.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Case report: Mô tả trường hợp bệnh. Tại bệnh viện Bình Dân
TPHCM.
Kết quả: Một bệnh nhân nam, 50 tuổi, có triệu chứng là đau thượng vị hơn 1 tháng. Khám thực thể, bệnh
nhân không sốt, không sụt cân, các dấu hiệu khác bình thường, khám bụng ấn đau nhẹ thượng vị. Kết quả kiểm
tra cận lâm sàng: số lượng tiểu cầu giảm nhiều: 4,88 x 104/mm3. Số lượng hồng cầu, Hct, Hb, tổng lượng
protein, aspartate aminotransferase, alanine aminotransferase, bilirubin toàn phần và nồng độ huyết thanh
creatinine, urê, LE CELLS, ANA Test, anti-dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA đều trong giới hạn bình thường. Siêu
âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách có cấu trúc to, mật độ gần bằng nhu mô lách, chèn thận trái sát cơ
hoành. Hình ảnh chụp cắt lớp: thương tổn dạng u rất lớn trong nhu mô lách chưa rõ bản chất: hemangioma?
Hamartoma? Hay lymphoma?. Tủy đồ: hình ảnh tủy tăng hồng cầu và mẫu tiểu cầu. Phẫu thuật nội soi
chuyển mổ hở cắt lách. Tổng thời gian phẫu thuật khoảng 60 phút. Bệnh nhân sau phẫu thuật tốt và được xuất
viện vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Lách bị cắt bỏ nặng khoảng 800g và có kích thước 12 x 10 x 7 cm. Mặt cắt
có u chiếm gần toàn bộ mô lách giới hạn không rõ, mặt cắt mềm, bở, màu đỏ sậm. Ở mức hiển vi, toàn bộ mẫu
thử có cấu trúc giống mô lách bình thường với hai thành phần chính là tủy đỏ và tủy trắng. Chẩn đoán: phù hợp
với Hamartoma của lách.
Kết luận: Mặc dù có một số hình ảnh đặc trưng cho hamartoma lách, việc thu thập và phân tích các trường
hợp như thế này là cần thiết để cải thiện độ tin cây của việc chẩn đoán và điều trị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp Hamartoma của lách được điều trị tại bệnh viện bình dân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 95 NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP HAMARTOMA CỦA LÁCH ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN Bùi Mạnh Côn*, Nguyễn Đức Trung** TÓM TẮT Tổng quan: Hamartoma lách là một dạng tổn thương lành tính hiếm gặp, lần đầu tiên được mô tả bởi Rokitansky vào năm 1861, với tỉ lệ 3/200.000 trường hợp phẫu thuật cắt lách. Mặc dù hamartoma lách được tìm thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng nó được tìm thấy chủ yếu ở người lớn tuổi. Hamartoma lách thường không có triệu chứng rõ rệt và được xác định một cách tình cờ thông qua khám nghiệm tử thi, nghiên cứu phóng xạ, phẫu thuật của bệnh Hodgkin. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Case report: Mô tả trường hợp bệnh. Tại bệnh viện Bình Dân TPHCM. Kết quả: Một bệnh nhân nam, 50 tuổi, có triệu chứng là đau thượng vị hơn 1 tháng. Khám thực thể, bệnh nhân không sốt, không sụt cân, các dấu hiệu khác bình thường, khám bụng ấn đau nhẹ thượng vị. Kết quả kiểm tra cận lâm sàng: số lượng tiểu cầu giảm nhiều: 4,88 x 104/mm3. Số lượng hồng cầu, Hct, Hb, tổng lượng protein, aspartate aminotransferase, alanine aminotransferase, bilirubin toàn phần và nồng độ huyết thanh creatinine, urê, LE CELLS, ANA Test, anti-dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA đều trong giới hạn bình thường. Siêu âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách có cấu trúc to, mật độ gần bằng nhu mô lách, chèn thận trái sát cơ hoành. Hình ảnh chụp cắt lớp: thương tổn dạng u rất lớn trong nhu mô lách chưa rõ bản chất: hemangioma? Hamartoma? Hay lymphoma?. Tủy đồ: hình ảnh tủy tăng hồng cầu và mẫu tiểu cầu. Phẫu thuật nội soi chuyển mổ hở cắt lách. Tổng thời gian phẫu thuật khoảng 60 phút. Bệnh nhân sau phẫu thuật tốt và được xuất viện vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Lách bị cắt bỏ nặng khoảng 800g và có kích thước 12 x 10 x 7 cm. Mặt cắt có u chiếm gần toàn bộ mô lách giới hạn không rõ, mặt cắt mềm, bở, màu đỏ sậm. Ở mức hiển vi, toàn bộ mẫu thử có cấu trúc giống mô lách bình thường với hai thành phần chính là tủy đỏ và tủy trắng. Chẩn đoán: phù hợp với Hamartoma của lách. Kết luận: Mặc dù có một số hình ảnh đặc trưng cho hamartoma lách, việc thu thập và phân tích các trường hợp như thế này là cần thiết để cải thiện độ tin cây của việc chẩn đoán và điều trị. Từ khóa: Hamartoma lách; U lách; Khối u lách; Nội soi cắt lách; Cắt lách. ABSTRACT A CASE OF SPLENIC HAMARTOMA WERE TREATED AT BINH DAN HOSPITAL Bui Manh Con, Nguyen Duc Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 95 - 101 Objective: Splenic hamartoma is a benign uncommon lesion, first described by Rokitansky in 1861, with an incidence of 3 in 200 000 splenectomies. Although splenic hamartoma is seen at every age, it is frequently detected in older people. It is usually asymptomatic and incidentally determined during the autopsy, radiological studies and surgical staging of Hodgkin disease. Materials and methods: Case report: Describe a case of splenic hamartoma, at Binh Dan hospital. * Khoa Gan mật- Bệnh Viện Bình Dân ** Bộ môn Giải phẫu, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: TS. BS Bùi Mạnh Côn ĐT: 0903728632 Email: conbuimanh@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 96 Results: A 50 years old male, has symptoms of epigastric pain more than a month. On physical examination, patient was no fever, no weight loss, normal of other signs, and abdominal examination with mild epigastric pain. The laboratory tests shows: the platelet count much decreased: 4.88 x 104/mm3. RBC count, HCT, Hb, total protein, aspartate aminotransferase, aminotransferase, total bilirubin and serum creatinine, ure, LE CELLS, ANA Test, anti-dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA were all within normal limits. Color Doppler ultrasound showed inferior pole of spleen with big structure relative, and density relative to the normal splenic parenchyma, insert left kidney, close to the diaphragm. Tomography computer: a huge tumor lesion was in splenic parenchyma, but unknown the nature: Hemangioma? Hamartoma? Or Lymphoma? Myelogram: image of marrow increasing red blood cell and platelet samples. Laparoscopic splenectomy passes to open surgery. The total operation time was 60 min. The postoperative patient was uneventful and was discharged on the seventh postoperative day. The resected spleen weight 800g and mesured 12 x 10 x 7 cm. The cut surface nearly entire the unclear limited splenic tissue, and showed soft, friable, dark red. Microscopically, all the samples are the same as normal splenic tissue consisted of two main components: red pulp and white pulp. Diagnose: Appropriate with splenic hamartoma. Conclusion: Although there are some imaging features that are specific to splenic hamartomas, the collection and analysis of these cases is necessary to improve the reliability of the diagnosis and treatment. ... ới tốc độ tương tự như những mô xung quanh và mang những yếu tố của mô tại vị trí đó, nhưng phát triển trong một khối không tổ chức. Chúng xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau của cơ thể, thường không có triệu chứng và thường được phát hiện qua khảo sát bằng chẩn đoán hình ảnh, giải phẫu bệnh.(4,5,12) Khối u lách thường không phổ biến. Trong đó, khối u bạch huyết của lách là phổ biến nhất và các loại khối u khác như là u thành mạch, u tương bào, u mô nguyên bào sợi ác tính và những bệnh di căn tới lách thường liên kết với sự di căn của các loại ung thư ác tính phổ biến khác(1,2,3). Khối u lách lành tính khá hiếm với tỉ lệ 7/100 000 mẫu tử thi và chủ yếu là u nang hay u mạch. Hamartoma lách là một dạng tổn thương lành tính hiếm gặp, lần đầu tiên được mô tả bởi Rokitansky vào năm 1861, với tỉ lệ 3/200.000 trường hợp phẫu thuật cắt lách(6,9). Hamartoma lách là lành tính và thường không có triệu chứng, điều quan trọng là nó không bị nhầm với các tổn thương ác tính khác mà đôi khi có thể xảy ra do những khó khăn trong chẩn đoán. Hình 1: Hình đại thể của lá lách đã được cắt cho thấy khối được khoanh vùng có kích thước 2,5 x 2,4 cm(7) Bảng 1: Các số liệu được ghi nhận: Tên tác giả Năm Số trường hợp được phát hiện Ayhan Ozcan et al (9) Đến 2009 Khoảng hơn 100 ca ghi nhận trong tài liệu Pinar Yazici et al (13) 2000- 2006 4 ca L. Hwajeong et al (6) Đến 2009 Khoảng 150 ca được ghi nhận N. W. Yusuf et al(14) Đến 2003 Khoảng 150 ca được ghi nhận Ngoài ra, Hamartoma lách còn được gọi với những tên khác nhau như: splenoma và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 97 splenadenoma, amartoma, hemangioma, lymphangioendothelioma, angiomatosis, hemangiomatosis, hymphangioma, hạch tăng sản và khối u như dị tật bẩm sinh. Có vài cơ chế sinh bệnh đã được xác định như bẩm sinh, hậu phẫu v.v.(4,5). Gần đây, người ta cho rằng hamartoma có thể là một dạng đặc biệt của bướu mạch máu hay bướu lympho. Những giả thuyết này cho rằng tổn thương có thể là ung thư. Tuy nhiên, giả thuyết được quan tâm nhiều nhất có liên quan đến sinh bệnh học của hamartoma lách là khối u, dị tật bẩm sinh do tổ chức bất thường của các yếu tố đỏ của lách bình thường(7). Hình chụp cắt lớp (CT) làm tăng độ tương phản cho thấy tổn thương ít dày đặc trong vòm lá lách Hình 2: Hamartoma lách được tìm thấy ngẫu nhiên ở một phụ nữ 29 tuổi(6). Tổn thương không nhiều ở vị trí chụp T1-weighted Hình 3: Tổn thương chứa một hỗn hợp các mạch chưa được sắp xếp và sợi thừng lách giống như tủy đỏ (HE x 200 lần)(6) Hình 4: Sự phóng đại cao hơn của tổn thương lách cho thấy không có tế bào không điển hình, phân bào hay hoại tử (HE x 600 lần)(6). Hình 5: Nhuộm miễn dịch CD8 dương tính với tế bào niêm mạc và tế bào lymphô nằm rải rác (độ phóng đại 200 lần)(6) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 98 Mặc dù hamartoma lách được tìm thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng nó được tìm thấy chủ yếu ở người lớn tuổi. Hamartoma lách thường không có triệu chứng rõ rệt và được xác định một cách tình cờ thông qua khám nghiệm tử thi, nghiên cứu phóng xạ, phẫu thuật của bệnh Hodgkin(7,10,11). Một số biến chứng như giảm tiểu cầu trong máu và thiếu máu có thể được tìm thấy ở một số bệnh nhân. Đôi khi, hamartoma lách có thể bị nang hóa và trở thành u nang giả. U nang giả được xem như là một biến chứng của hamartoma lách. Sự liên hệ giữa u nang giả và hamartoma lách khá hiếm. Nó có thể xuất huyết bên trong và thậm chí vỡ ra bên ngoài trong một số trường hợp. Hơn nữa sự tăng sinh nội mô ở hamartoma lách có thể tạo nên dạng không điển hình. Do đó, những trường hợp này có thể bị chẩn đoán nhầm là ác tính(7,12). Cắt lách có thể được thực hiện bằng mổ hở. Gần đây, phẫu thuật nội soi đã trở thành tiêu chuẩn cho phẫu thuật, bao gồm bệnh ác tính(8). Mặc dù phẫu thuật ít xâm hại có thể thích hợp cho hamartoma lách(7). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mô tả trường hợp bệnh tại bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh. MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP BỆNH Một bệnh nhân nam, 50 tuổi, có triệu chứng là đau thượng vị hơn 1 tháng. Khám thực thể, bệnh nhân không sốt, không sụt cân, da niêm hồng, hạch ngoại biên không sờ chạm, các dấu hiệu khác bình thường, khám bụng ấn đau nhẹ thượng vị. Kết quả kiểm tra cận lâm sàng: số lượng hồng cầu: 410 x 104/mm3 (bình thường: 404-613 x 104/mm3); số lượng bạch cầu: 5,69 x103/mm3 (bình thường: 4,6-10 x 103/mm3); và số lượng tiểu cầu giảm nhiều: 4,88 x 104/mm3 (bình thường: 14,2- 42,4 x 104/mm3). Tổng lượng protein, aspartate aminotransferase, alanine aminotransferase, bilirubin toàn phần và nồng độ huyết thanh creatinine, urê, LE CELLS, ANA Test, anti- dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA đều trong giới hạn bình thường. Siêu âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách có cấu trúc to, mật độ gần bằng nhu mô lách, chèn thận T sát cơ hoành. Hình ảnh chụp cắt lớp cho thấy lách to, lách có tổn thương giảm đậm độ, đậm độ không đồng nhất, giới hạn không rõ kích thước 10 * 12 * 11 cm. Thương tổn bắt thuốc cản quang mạnh không đồng nhất và có nhiều mạch máu tăng sinh. Ở thì trễ thương tổn vẫn có độ cản tia hơi thấp hơn nhu mô lách bình thường. Kết luận: Thương tổn dạng u rất lớn trong nhu mô lách 10*12*11 cm chưa rõ bản chất: hemangioma? Hamartoma? Hay lymphoma? Hình 6: Siêu âm và chụp cắt lớp tổn thương lách. A. Siêu âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách có cấu trúc to, mật độ gần bằng nhu mô lách, chèn thận T sát cơ hoành. B và C. Hình ảnh chụp cắt lớp cho thấy lách to, lách có tổn thương giảm đậm độ, đậm độ không đồng nhất Tủy đồ: hình ảnh tủy tăng hồng cầu và mẫu tiểu cầu. Mặc dù giả thuyết là khối u ác tính không bị loại trừ hoàn toàn, nội soi cắt lách được thực hiện vì khối u bên trong lách bị giới hạn bởi kích thước và không di căn qua các cơ quan bên cạnh. Mở lỗ trên rốn đặt camera, mở thêm 3 lỗ ở đường trung đòn T, nách trước và thượng vị. Nội soi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 99 thấy lách lớn độ II có u cực dưới 5 * 10 cm, gan bình thường. Thám sát nghi ung thư lách chuyển mổ hở. Gỡ dính dây chằng lách đại tràng, đốt cầm máu kỹ. Bóc tách tĩnh mạch lách. Cắt dây chằng lách dạ dày. Cắt mặt sau lách, cột may cuống lách. Lau bụng. Dẫn lưu HST bằng Foley. Đóng các lỗ troca. May da. Tổng thời gian phẫu thuật và lượng máu mất trong phẫu thuật vào khoảng 60 phút và 20 ml. Bệnh nhân sau phẫu thuật tốt và được xuất viện vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Lách bị cắt bỏ nặng khoảng 600g và có kích thước 12*10*7 cm. Mặt cắt có u chiếm gần toàn bộ mô lách giới hạn không rõ, mặt cắt mềm, bở, màu đỏ sậm. Ở mức hiển vi, toàn bộ mẫu thử có cấu trúc giống mô lách bình thường với hai thành phần chính là tủy đỏ và tủy trắng. Chẩn đoán: phù hợp với Hamartoma của lách. Hình 7: Hình đại thể (A) và kết quả giải phẫu bệnh (B) BÀN LUẬN Hamartoma lách là khối u lành tính hiếm gặp với sự tăng sinh mạch máu thường được chẩn đoán khi phẫu thuật bụng, cắt lách hay khám nghiệm tử thi. Sinh bệnh học của hamartoma lách đa dạng và bao gồm các dị tật bẩm sinh của lách, khối u hay tổn thương do phản ứng với chấn thương trước. Hamartoma lách thường được gọi là splenoma hay tăng sản nốt vì nó bao gồm một hỗn hợp bất thường của các thành phần bình thường của lách. Khi phần lớn bệnh nhân không có triệu chứng, hầu hết hamartoma lách được phát hiện ngẫu nhiên bằng phương pháp chụp ảnh hiện đại bao gồm siêu âm, chụp CT, như trường hợp này. Những tiến bộ trong kỹ thuật hình ảnh gần đây đã cải thiện khả năng phát hiện khối u lách không có triệu chứng. Tuy nhiên, chẩn đoán phân biệt tập trung vào các tổn thương lách dựa trên hình ảnh là không đơn giản. Hamartoma lách nên được xem như là một dạng riêng của các khối u lách, điều quan trọng là sự phân biệt hamartoma lách và hemangioma lách, dạng u lách lành tính phổ biến nhất. Bảng cho thấy một số điểm khác biệt trong quan sát bằng siêu âm, chụp CT ở hamartoma lách và u mạch máu (hemangioma) lách. Bảng 2: Hình ảnh so sánh giữa hamartoma lách và hemangioma lách Phương thức Hemangioma Hamartoma Chúng tôi Siêu âm Tăng đậm độ (hemangioma mao mạch) Giảm đậm độ>> Tăng đậm độ> Đồng đậm độ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 100 Giảm đậm độ (hemangioma hang) Đồng đậm độ Doppler: tín hiệu yếu Doppler: nhiều tín hiệu Doppler: nhiều tín hiệu CT Giảm hoặc đồng đậm độ Giảm đậm độ >>Đồng đậm độ> Tăng đậm độ Giảm đậm độ Tăng mạnh Các dạng hemagioma lách quan sát được bằng siêu âm cho thấy hemangioma mao mạch xuất hiện như một nốt giảm đậm độ trong khi dạng hemangioma hang là một khối giảm đậm độ không đồng nhất, đôi khi bị vôi hóa hay có nhiều nang. Nói chung, hamartoma lách được mô tả là một khối rắn, đồng nhất tương tự như nhu mô lách bình thường, thường là giảm đậm độ, nhưng đôi khi các tổn thương tăng đậm độ có hay không có sự nang hóa bên trong lách. Siêu âm màu của hamartoma lách cho thấy chỉ có vài màu có thể xuất hiện trong khối u ngay lập tức sau khi nó được nén bằng đầu dò. Mặc khác, siêu âm màu cho thấy có nhiều tín hiệu của mạch máu bên trong khối. Tuy nhiên, khối u bên trong lách thường có ít mạch máu hơn nhu mô bình thường xung quanh vì số lượng mạch máu cao của lách. Với hình ảnh chụp cắt lớp cho thấy lách to, lách có tổn thương giảm đậm độ, đậm độ không đồng nhất, giới hạn không rõ kích thước 10 * 12 * 11 cm. Thương tổn bắt thuốc cản quang mạnh không đồng nhất và có nhiều mạch máu tăng sinh. Ở thì trễ thương tổn vẫn có độ cản tia hơi thấp hơn nhu mô lách bình thường. Thương tổn dạng u rất lớn trong nhu mô lách 10*12*11 cm chưa rõ bản chất: hemangioma? Hamartoma? Hay lymphoma? Hình ảnh này sẽ được rõ ràng hơn nếu được kết hợp với MRI. Mặc dù có vài hình ảnh đặc biệt của hamartoma lách, nhưng rất khó để loại trừ khả năng của một khối u ác tính dựa trên nghiên cứu hình ảnh. Chẩn đoán phải được xác nhận bằng các kiểm tra bệnh lý. Mặc dù đã có vài nghiên cứu về tính hiệu quả và an toàn của sinh thiết lách, khả năng chảy máu hoặc sự phổ biến khối u làm cho kỹ thuật này không chắc chắn. Vì vậy cắt lách vẫn cần thiết cho mục đích chẩn đoán và điều trị. Gần đây, các phương pháp điều trị ít xâm hại đã được phát triển như là kỹ thuật nội soi. Chẩn đoán bệnh lý phân biệt chính cho hamartoma là dạng u mạch lành tính bao gồm cả hemangioma. Hamartoma cũng có những kết quả lâm sàng và X- quang tương tự. Nhuộm mô miễn dịch có thể được sử dụng để phân biệt một hamartoma lách và hemangioma mao mạch bởi các đặc điểm nhuộm của nó. Hamartoma lách được phân loại thành 2 loại: tủy trắng và tủy đỏ, dựa vào các thành phần của khối u. Tủy trắng được tạo thành từ mô bạch huyết, trong khi tủy đỏ được tạo nên từ các xoang và tương tự như tủy đỏ bình thường của lách. Hầu hết các case được báo cáo là tủy đỏ, bao gồm cả báo cáo này. Nhiều tín hiệu trên siêu âm màu Doppler và rõ ràng trên CT trong trường hợp của chúng tôi được cho là sự phản ánh của đặc điểm nhiều mạch máu trong dạng tủy đỏ. Nội soi cắt lách là phẫu thuật chuẩn cho việc xử lý hầu hết các trường hợp xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát vì khả năng xâm hại thấp so với mổ mở cắt lách. Hơn nữa, nội soi cắt lách trở thành sự chọn lựa chủ yếu không chỉ cho xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát mà còn cho một số khối u lách. Bảng 3: Đặc điểm các trường hợp hamartoma lách được báo cáo điều trị bằng phẫu thuật cắt lách Tác giả Năm Tuổi Giới tính Kích thước khối u(cm) Chẩn đoán trước phẫu thuật Thời gian phẫu thuật (phút) Lượng máu bị mất (ml) Yoshizumi và cộng sự(7) 1997 45 Nam 6,0x3,8 U lành 305 (nội soi) 450 Tatekawa và cộng sự (7) 2007 12 Nữ 5 Hamartoma Không xác định (nội soi) Không xác định Chúng tôi 2011 50 Nam 12*10*7 U lành 60 (nội soi chuyển mổ hở) 20 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 101 KẾT LUẬN Mặc dù có một số hình ảnh đặc trưng cho hamartoma lách, việc thu thập và phân tích các trường hợp như thế này là cần thiết để cải thiện độ tin cậy của việc chẩn đoán và điều trị. Phẫu thuật cắt lách bằng nội soi hỗ trợ có thể đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán sau mổ và điều trị hamartoma lách. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Collins B.T., Phillips N.J., Hsueh E.C. (2008). Fine needle aspiration biopsy of splenic hamartoma with bizarre stromal cells. Acta cytologica, 52: 347 - 350. 2. De Cuyper K., Coenegrachts K., et al. (2007). Splenic hamartoma presenting as an occasional asymptomatic finding. JBR - BTR, 90: 128 - 131. 3. Graham J.C., Weidner W.A., Vinik M. (1969). The angiographic features of organizing splenic hematoma (hamartoma). Virginia Commonwealth University, 107(2): 430 - 433. 4. Hayes T.C., Britton H.A. et al. (1998). Symtomatic splenic hamartoma: case report and literature review. Pediatrics. 1998 May;101(5):E10. 5. Jia H.B., Li Y.P. et al. (2006). Splenic hamartoma: case report and review of literature. Chinese medical journal, 119(6): 1403 - 1408. 6. Lee H., Maeda K. (2009). Hamartoma of the spleen. Arch Pathol Lab Med., 133: 147 - 151. 7. Namikawa T., Kitagawa H., Iwabu J., Kobayashi M., Matsumoto M., Hanazaki K. (2010). Laparoscopic splenectomy for splenic hamartoma: case management and clinical consequences. World J Gastrointest Surg., 2(4): 147 - 152. 8. Nguyễn Ngọc Hùng, Quách Văn Kiên, Nguyễn Văn Trường, Nguyễn Đức Tiến, Trần Bình Giang (2008). Cắt lách nội soi: một số nhận xét về chỉ định, kỹ thuật và biến chứng. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 12(4): 137 - 142. 9. Özcan A., Günal A., Çermik H., Kurt B., Balkan M., Günhan Ö (2009). Cystic splenic hamartoma with prominent endothelial proliferation mimicking malignancy: a case report. Gulhane Med J, 51: 195 - 198. 10. Spalding R.M., Jennings C.V., Yam L.T. (1980). Splenic hamartoma. British Journal of Radiology, 53: 1200 - 1203. 11. Teates C.D., Seale D.L., Allen M.S. (1972). Hamartoma of the spleen. University of Virginia School of Medicine, 116(2): 419 - 422. 12. Tsitouridis I., Michaelides M., et al. (2010). Symptomatic splenoma (hamartoma) of spleen. A case report. Hippokratia, 14(1): 54 - 56. 13. Yazici P., Aydin U., Ersin S., Kaplan H. (2008). Hamartoma – a rare benign tumor of the spleen: a report of four cases. The Eurasian Journal of Medicine, 40: 48 - 51. 14. Yusuf N.W., Assaf H.M. (2003). Splenic Hamartoma. Journal of Pakistan Medical Association, 53(2): 25 - 27.
File đính kèm:
- nhan_mot_truong_hop_hamartoma_cua_lach_duoc_dieu_tri_tai_ben.pdf