Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”

Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ

XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở

những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu

trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai

đoạn trước 1945 ở Việt Nam.

Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ

Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là

“tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền

quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về

cuộc “cách mạng” thơ ca.

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 1

Trang 1

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 2

Trang 2

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 3

Trang 3

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 4

Trang 4

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 5

Trang 5

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 6

Trang 6

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 7

Trang 7

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 8

Trang 8

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 9

Trang 9

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Trúc Khang 08/01/2024 4940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”

Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 
13 
Nguyễn Thị Kiêm – 
“Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” 
Nguyen Thi Kiem – “The new figure, the new emotion, the new literature” 
TS. Lê Thị Thanh Tâm 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội 
Ph.D. Le Thi Thanh Tam 
University of Social Sciences and Humanities – National Univeristy Ha Noi 
Tóm tắt 
Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ 
XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở 
những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu 
trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai 
đoạn trước 1945 ở Việt Nam. 
Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ 
Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là 
“tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền 
quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về 
cuộc “cách mạng” thơ ca. 
Từ khóa: Nguyễn Thị Kiêm, diễn đàn thơ Mới – thơ Cũ, nữ quyền 
Abstract 
Nguyen Thi Kiem is the special figure of the period of modernization of Vietnamese literature at the 
beginning of 20
th
 century. She was to be “the new figure, the new emotion, the new literature”. Her 
works show breakthrough idea of literary appreciation, the understanding of feminism. And her pre war 
articles (before 1945) are precious materials of Viet nam literary. She appeared as an orator at New – 
Old poetry community. 
Through her speeches and articles (including newspaper-reports and artistic criticals), we are able to 
realize that the sharp and absolute scientific thinking is her essential style. It is talent of literature of her 
from the point of view to be aware of the literary process in the relation with the national culture, state 
of renovation and ability of consolidation as well as the capacity to quickly grasp many realistic lessons 
of the revolution of poetry. 
Keywords: Nguyen Thi Kiem, New – Old poetry community, feminism 
1. Tiểu sử 
Từ sau năm 1930, có một uy tín mới 
không nằm trong danh sách những tên tuổi 
làm quản lí, chủ bút hay viết sách, xuất bản 
mà trở thành một cá tính độc nhất vô nhị, 
một chân dung dĩnh ngộ làm văn học 
không lẫn vào đâu, đó là trường hợp 
Nguyễn Thị Kiêm. Tác phẩm của bà nằm 
14 
chính ở những ý tưởng đột phá về nhận 
thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự 
xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn 
thơ Cũ - thơ Mới và những bài báo rồi sẽ 
trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử 
giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. 
Nguyễn Thị Kiêm (có khi được ghi là 
Nguyễn Thị Kim trên Phụ nữ Tân văn) 
sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn; 
quê gốc của bà ở Gò Công, tỉnh Tiền 
Giang. Thân phụ là ông Nguyễn Đình Trị 
(tức Huyện Trị), ông Hội đồng nổi danh 
đất Gò Công. 
Bà là một trí thức trưởng thành từ môi 
trường giáo dục và văn đàn Gia Định, 
trung tâm xứ Nam Bộ. Bà từng là nữ sinh 
của trường Nữ học Sài Gòn, sau đổi thành 
trường Nữ Gia Long, hay còn gọi là trường 
Nữ sinh Áo Tím (nay là trường THPT 
Nguyễn Thị Minh Khai). Tốt nghiệp bằng 
thành chung (Trung học Đệ Nhất cấp), bà 
bắt đầu làm báo từ năm 1932 với nhiều bút 
danh khác như: Nguyễn Thị Manh Manh, 
Manh Manh, Mym, Nguyễn Văn Mym, Lệ 
Thủy (hoặc kí tắt là L.T) Bà tham gia 
viết bài cho các báo: Công luận, Việt Nam, 
Nữ lưu, Tuần lễ Nay, Sống Đặc biệt, bà 
là cây bút chủ lực của Phụ nữ Tân văn. 
Ban biên tập Phụ nữ Tân văn từng viết 
về “một thiếu niên nữ sĩ trong bộ biên tập 
của bổn báo” như sau: 
“Ngày nay trong Nam ngoài Bắc, ai 
cũng biết tên nữ-sĩ Nguyễn Thị Kim. 
Các độc giả yêu quý của Phụ-nữ Tân-
văn chắc đều vui lòng thưởng những bài 
thơ lối mới ký biệt-hiệu Nguyễn Thị Manh 
Manh: nhân-vật mới, tình-tứ mới, văn-
chương mới! 
E xúc-phạm đến lòng khiêm-nhượng 
của người bạn đồng-sự thiếu-niên, chúng 
tôi chỉ nói qua về công trước tác của nhà 
văn sĩ tuổi trẻ mà nghề văn già” (Phụ nữ 
Tân văn số 197 ngày 27-4-1933). 
Thực tế, sự già dặn bất ngờ của bà 
trong nhận thức về văn học, về giá trị 
người phụ nữ cũng như về các vấn đề văn 
hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ 
XX cho thấy lời giới thiệu trân trọng và 
quả quyết của Phụ nữ Tân văn về nhân vật 
thiếu niên “kì lạ” trên (tuổi trẻ - văn già) là 
có cơ sở và đúng đắn. 
Năm 1932, sự kiện bà diễn thuyết để 
bảo vệ Thơ mới đã gây chấn động văn đàn 
thời đó, ảnh hưởng sâu sắc đến bước đi đầu 
tiên của phong trào Thơ mới. 
Năm 1936, bà tham gia phong trào 
Đông Dương đại hội. Bà cũng là người rất 
tích cực trong việc tuyên truyền, tổ chức 
thực hiện hội Dục Anh và Nữ lưu học hội. 
Năm 1937, bà kết hôn với ông Trương 
Văn ...  
của con người đương thời. 
Từ quan điểm mới mẻ và chắc chắn, 
nữ sĩ còn nhấn mạnh phê bình thơ Hồ Văn 
Hảo như một giá trị thơ mới (viết về cuộc 
đời thật). Nhận xét về bài Con nhà thất 
nghiệp của Hồ Văn Hảo (Phụ Nữ Tân Văn 
số 208 ngày 20-7-1933), nữ sĩ cho rằng 
“người ta cho là chẳng phải thơ, chỉ vì 
chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh 
19 
hoa tàn nguyệt xế, suối chảy chim ngâm, 
mà là một cảnh thiết thật, một cảnh khổ có 
thật trong đời: người thất nghiệp Có lẽ 
trong thơ văn, người cu li ở trần quần vắn 
là một động vật không có gì lãng mạn 
chăng? Có lẽ cái bi kịch của một người 
nghèo khó phải đi ăn trộm “hụt”, chúng 
hay được la 'ăn trộm' rồi anh chạy trốn, bi 
kịch ấy không gì lạ đáng để ý chăng?". Ý 
tưởng sắc sảo này của Nguyễn Thị Manh 
Manh từ thời điểm nhạy cảm phôi thai 
phong trào Thơ mới đã làm sáng thêm giá 
trị của đời thơ Hồ Văn Hảo, người mà về 
sau, ngoài Đông Hồ dường như không có 
ai hiểu và trân trọng. Cái mới của nhà thơ 
Hồ Văn Hảo nằm ở chỗ: tiên cảm về tính 
chân thực và sự dấn thân của thơ ca hiện 
đại, sự chủ động của cái tôi và sự dứt khoát 
với quá khứ ngâm ngợi từ chương. Riêng ở 
bài Con nhà thất nghiệp, tuy lời lẽ chưa 
phải là một áng thơ tuyệt tác nhưng ý 
tưởng và cách nói mới đó rất xứng đáng 
được xem là một mẫu hình quan trọng của 
thơ mới, nhất là ở chặng đầu phôi thai. 
Dường như thơ mới trên bước đường “lưu 
lạc” của nó đã bị xô hẳn về phía lãng mạn, 
trôi hẳn về một “chân trời của cái tôi” do 
nhiều lớp thi nhân (có hoặc không có tuyên 
ngôn) đã “vô tình” làm nên chân dung 
thuần túy của thơ mới; trong khi ở thời 
trứng nước, nó đã ngấm ngầm làm một 
cuộc chuyển hóa “mây gió trăng hoa tuyết 
núi sông” thành một loại thơ dành cho 
nhân quần, thơ hướng xuống một địa ngục 
nhân sinh với những nỗi thương cảm chân 
thành. Phải chăng, cái “thực” của thơ mới 
ở những chặng đầu tiên đã từng là cái thực 
của đời chứ không phải chỉ có thế giới của 
tình - mộng - buồn như chúng ta hằng suy 
nghĩ về bản chất thơ mới? Quan niệm của 
nữ sĩ Manh Manh về trường hợp Hồ Văn 
Hảo và chọn lựa tác phẩm của ông như một 
thứ rường cột lặng lẽ cho công cuộc đổi 
mới thơ ca có lẽ là một quyết định rất cần 
chú ý ở bà. 
Với bài diễn thuyết lừng lẫy, nữ sĩ 
Manh Manh gửi gắm hy vọng một cách 
tỉnh táo rằng đổi mới thơ là tất yếu: “chỉ 
mong rằng lối thơ mới được nhiều người để 
ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông 
dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng 
những thi cảm của các nhà thi sĩ hiện thời”. 
Lịch sử cho thấy niềm hy vọng ấy rất 
đáng xem là sự tiên đoán ngoạn mục. 
4. Sự nghiệp Nguyễn Thị Kiêm nhìn 
từ hiện tại - một vài đánh giá 
4.1. Thành tựu chung 
1. Nguyễn Thị Kiêm là người đặt nền 
móng xây dựng nghệ thuật diễn thuyết của 
phụ nữ - điều chưa từng có trong lịch sử 
văn học Việt Nam. Bà đã đi vào lịch sử 
bằng hoạt động diễn thuyết và nội dung 
diễn thuyết ở tuổi hoa niên với những chủ 
đề làm thay đổi nhiều giá trị tinh thần của 
xã hội. 
2. Tư duy văn học của bà đi đôi với 
khả năng hùng biện, phong cách nói và viết 
chừng mực nhưng quyết liệt. Tư duy đó 
mang tính nguyên hợp, gắn chặt với tư duy 
khoa học thực sự. Bởi vậy, cái nhìn của bà 
luôn là cái nhìn phản biện, phản tỉnh. Tính 
chất hoạt ngôn không tách rời khả năng 
phân tích lý trí. 
3. Các bài viết về văn học, nghệ thuật 
chạm đến những vấn đề lý luận văn học 
một cách tự nhiên (bao gồm các điểm: văn 
học khách quan, văn học chủ quan, “nam 
hóa” làng văn nữ, văn học và khoa học, 
văn học và mỹ thuật, sự tiến hóa của nữ 
lưu trên đường văn học). Nhiều khái 
quát và so sánh hợp lý (đặt văn học vào 
phông nền văn hóa văn minh châu Âu để 
tranh luận); phối hợp tri thức Đông Tây, 
công nghệ, tôn giáo để thuyết phục 
20 
người nghe, người đọc. 
4. Những bài báo phê bình nghệ thuật, 
phóng sự, phỏng vấn của bà về cơ bản 
đều tay, chắc chắn, giàu cảm xúc và vốn 
sống (so với tuổi của bà). Các lĩnh vực 
quan tâm rất đa dạng: từ những bài phóng 
sự dạng du kí như “Hai ngày ở thánh thất 
Cao Đài” (Phụ nữ Tân văn số 176 ngày 10-
11-1932, số 177 ngày 17-11-1932, số 178 
ngày 24-11-1932, số đặc biệt Xuân 1933, 
ra ngày 19-1-1933) cho đến những bình 
luận nghệ thuật như “Những cái dở của 
điệu hát cải lương ta” (Phụ nữ Tân văn số 
230 ngày 4-1-1933); “Các điệu hát Bắc kỳ” 
(Phụ nữ Tân văn số đặc biệt Xuân 1933, ra 
ngày 19-1-1933; Phụ nữ Tân văn số 205, 
ngày 22-6-1933); Phê bình kịch “Bạn và 
vợ” (Phụ nữ Tân văn số 213, ngày 24-8-
1933); “Điệu hát cải lương ta” (Phụ nữ Tân 
văn số 231 ngày 11-1-1934, số 232 ngày 
18-1-1934). Cách dẫn giải trong loạt bài 
này hầu hết mang tính khoa học, luận điểm 
rất mới mẻ và táo bạo (3). Mảng báo được 
chăm sóc nhiều hơn cả lại nằm ở những bài 
viết về đời sống, xã hội, cuộc sống lao khổ 
của người dân, như các bài “Nhân vật buổi 
“kinh tế”” (Phụ nữ Tân văn số 197, ngày 
27-4-1933); “Mấy con số đáng ghê sợ” 
(Phụ nữ Tân văn số 215, ngày 7-9-1933); 
“Viếng một cái sầu thành: nhà thương Bạc 
Hà” (Phụ nữ Tân văn số 212, ngày 17-8-
1933); “Phụ nữ với hôn nhơn” (Phụ nữ Tân 
văn số 221 ngày 19-10-1933) Đặc biệt, 
bài “Dưới chơn Đèo Cả” (Phụ nữ Tân văn 
số 252 ngày 2-8-1934) gần với một phóng 
sự giàu chất văn hơn là một bài báo phản 
ánh đời sống “lao công” xây đường ray; 
bài viết trộn lẫn cái nhìn sắc sảo về đời 
sống với niềm đa cảm của một tấm lòng tử 
tế. Mảng báo viết về xã hội, nhân sinh rất 
nhất quán với quan niệm của bà về tinh 
thần dấn thân không mỏi vào cuộc “nhân 
quần”. Điều ấy cũng không khác là bao 
việc bà chọn Hồ Văn Hảo, nhà thơ mới 
Nam bộ với bài thơ về đời thất nghiệp để 
làm điểm tựa cho cuộc cách tân thơ phải có 
ở xứ Annam. 
5. Giá trị lý luận từ những hoạt động 
và nội dung diễn thuyết của bà có thể nói 
là rất lớn: đóng góp cho sự hình thành và 
phát triển thơ mới, góp phần đặt những 
viên gạch đầu tiên cho việc tìm hiểu văn 
chương nữ quyền ở Việt Nam; sớm nhận 
ra và đặt ra vấn đề văn học và phụ nữ một 
cách đích đáng, biết cách đặt văn học trong 
các trào lưu tiến bộ về tư tưởng, mỹ thuật, 
văn nghệ đương thời; đồng thời thấy rõ 
tầm quan trọng của ảnh hưởng văn hóa văn 
minh châu Âu đối với sự phát triển văn 
học nước nhà. 
4.2. Một vài hạn chế 
Hầu hết các bài viết của nữ sĩ Manh 
Manh đều ít chọn lọc ngôn ngữ viết thuần túy 
mà thường chọn cách nói khá tự nhiên, dân 
dã. Văn bản của bà thường xuất hiện tình 
trạng khẩu ngữ xen lẫn thuật ngữ, cách nói tài 
hoa, trí tuệ xen lẫn cách nói “rặt” địa phương 
(miền Tây Nam Bộ), khiến cho tính chuyên 
nghiệp trong văn phong bị ảnh hưởng. 
Cách đặt vấn đề của bà thường khá lớn, 
có dáng dấp những phác thảo lớn nhưng 
việc chi tiết hóa lại không cân xứng. Văn 
phong quốc ngữ của bà đôi lúc còn ở dạng 
thô, ít trau chuốt, có khi bị “cứng”, “sượng”. 
Ở tuổi hai mươi, bà đã làm quá nhiều 
thứ vượt sức khi thử thách mình ở các vấn 
đề đặc biệt hệ trọng đối với sự phát triển 
đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam 
giai đoạn thuộc Pháp. Một số kiến giải 
trong bài viết của bà còn dừng ở mức tản 
mạn, nồng nhiệt nhưng đơn giản. 
Thơ của bà quá tỉnh táo, thông minh 
nhưng thiếu tinh tế. Dùng nó để chứng 
minh cho “lộ trình” đổi mới thơ thì được, 
21 
nhưng chứng minh cho giá trị của thơ mới 
thì vẫn còn là điều băn khoăn. 
5. Kết luận 
Di sản của nữ sĩ Manh Manh để lại 
chứng tỏ một ranh giới giữa “tài văn” và 
“văn tài”. Qua các bài diễn thuyết và các 
bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, 
phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ Manh 
Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa 
học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt 
của bà. Đó là “tài văn”, tài năng về văn 
chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình 
văn chương trong quan hệ với nền quốc 
học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, 
nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, 
gọn ghẽ về cuộc “cách mạng” thơ ca. Cách 
phát hiện vấn đề rất thông minh của bà và 
những lập luận không thể sáng rõ hơn cho 
thấy những tính từ các nhà nghiên cứu 
dành cho bà: “xuất chúng”, “có tài và có 
gan” là đích đáng. 
Tuy nhiên, “tài văn” của bà không 
song trùng với “văn tài” - vốn là thứ được 
chưng cất trong mỗi con chữ sáng tác tài 
hoa. Trên thực tế, các bài thơ “làm chứng” 
của bà trong các diễn thuyết về “thơ mới” 
chưa thể có bất kì một vị trí nào trên văn 
đàn đương thời (và cả về sau cũng thế). 
Hoài Thanh đã đúng khi nhắc đến bà như 
một “ngòi châm” cho cuộc đổi ngôi vĩ đại 
trong lịch sử nghệ thuật ngôn từ thời hiện 
đại (giai đoạn chuyển giao từ thơ cũ sang 
thơ mới) mà không chọn lấy một câu thơ, 
một bài thơ nào của bà để đặt vào “Hội Tao 
đàn” huyền thoại năm xưa. 
Nhìn chung, Nguyễn Thị Kiêm là một 
nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại 
hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Toàn 
bộ đóng góp của bà thể hiện ở tài năng, tư 
chất phản biện khoa học về văn chương 
một cách rạch ròi, mạnh mẽ, không khoan 
nhượng song cũng rất có tình, chừng mực, 
hoàn toàn tránh được sự xốc nổi, không 
tưởng. Di sản của bà giống như tiếng hót 
con chim yêu đời, dấn thân, thần thái lớn 
lao giữa trời cao rộng nhưng cũng sớm kết 
thúc trong bi kịch riêng lặng lẽ. 
* Chú thích 
Bài viết nằm trong đề tài KH&CN cấp Đại Học Quốc 
gia loại B năm 2013, mã số B2013-18b-05: Hoạt động 
nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam 
Bộ trước 1954 (Sưu tầm, tuyển chọn và nghiên cứu). 
(1) Các trích đoạn phần này đều rút từ bài diễn 
thuyết “Nữ lưu và văn học” (Phụ nữ Tân văn số 
131, ngày 26-5-1932). 
(2) Xin đọc nguyên văn một số nhận xét của bà: 
“Tôi không hiểu tại làm sao có người thấy rõ cái 
dở của điệu ca của mình mà không chịu nhận 
như vậy. Bản nảo bản rí rít như than khóc, kể lể 
tỏ ra cái tánh yếu ớt của dân mình, cái hồn bị đè 
áp phục tùng từ mấy ngàn năm xưa Nhưng họ 
cho vậy là mơ mộng, vẩn vơ, khen có tài văn 
chương trong lời hát. Mà văn chương của bài ca 
ta là văn chương tầm phào, nói đi nói lại () 
Âm nhạc của ta còn nghèo lắm vì chẳng có ai bổ 
cứu sửa đổi các thứ đờn, chẳng có thầy đặt bài 
ca (compositeur) có bấy nhiêu điệu thì xài bao 
nhiêu đó” (trích “Điệu hát cải lương ta”, Phụ nữ 
Tân văn số 231 ngày 11-1-1934, trang 6); “Hát 
cải lương của ta còn ở dưới một trình độ thấp 
thỏi lắm. Người ngoại quốc đến xem ắt cho 
người Annam có cái tâm hồn thật trong sạch 
(une caudeur d’âme), cái trẻ con thật thà, cái lạc 
quan “dày cuôi” vì rạp hát là cái phản chiếu sự 
văn minh của dân một xứ. Một số người trí thức 
Annam không chịu xem cải lương vì họ chê là 
dở lắm. Một số người không chịu nghe nói đến 
cải lương vì họ cho là không thể sửa đổi được. 
Không, nếu hát xướng của ta mà có thể làm 
cho người ngoài lầm về cái trình độ trí thức 
của ta thì chúng ta phải quan tâm mới được 
(L.T.T.T nhấn mạnh). Thấy nó dở không nên 
chê nó dở mãi, phải tìm cái dở tại đâu mà có, 
làm sao mà bổ cứu cho nó được cao lên” (trích 
“Những cái dở của điệu hát cải lương ta”, Phụ 
nữ Tân văn số 230 ngày 4-1-1933). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1999), Những danh 
sĩ miền Nam, Nxb Tổng hợp Tiền Giang. 
22 
2. Hoàng Anh (1998), “Nguyễn Thị Kiêm: 
“Nữ vệ sĩ của phong trào “thơ mới” buổi 
đầu””, Tạp chí Văn, Hội nhà văn 
TP.HCM, số 83. 
3. Hoàng Anh (1999), “Nữ sĩ Nguyễn Thị 
Manh Manh”, Sài Gòn giải phóng, ngày 
13-4-1999. 
4. Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2005), Văn 
học Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế 
kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia. 
5. Phạm Xuân Độ (1970), Nữ thi hào Việt 
Nam, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn. 
6. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở 
Nam Kì 1865-1930, Nxb Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
7. Bằng Giang (1999), “Phụ nữ tân văn 
(1929-1935) - Cái bệ phóng cho một tài 
năng”, Văn nghệ, số 21 (bộ mới). 
8. Nguyễn Hữu Hiệp (1998), “Bước ngoặt 
thơ mới ở Nam Kỳ”, Xưa và nay, số 52B-
6/1998. 
9. Mai Hương (biên soạn và tuyển chọn) 
(1997), Nữ sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 
XX, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 
10. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), 
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 
1900-1930, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội. 
11. Ngộ Không (1935), “Tường thuật buổi 
diễn thuyết tranh luận giữa Nguyễn Thị 
Kiêm và Nguyễn Văn Hanh tại Hội 
Khuyến học Sài Gòn, 16-1-1935”, Phong 
hóa, 2-1935. 
12. Lê Đình Kỵ (1989), Thơ mới - Những 
bước thăng trầm, Nxb TP.HCM. 
13. Thạch Lam (1935), “Thơ mới”, Phong 
hóa, số 142, 25-3-1935. 
14. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 
1932, Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 
15. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận 
văn học, tập 2, Nxb Văn nghệ, Hội nghiên 
cứu và giảng dạy văn học TP.HCM. 
16. Nguyễn Phước Thị Liên (1998), “Nữ sĩ 
Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm đôi nét 
đời thường”, Tạp chí Văn, số 86. 
17. Nguyễn Tấn Long (1968), Việt Nam thi 
nhân tiền chiến, 3 quyển, Sống mới xuất 
bản, Sài Gòn. 
18. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1968), 
Khuynh hướng thi ca tiền chiến, Sống mới 
xuất bản. 
19. Tứ Ly (1935), “Một cuộc diễn thuyết ở 
Sài Gòn: Vấn đề thơ mới và thơ cũ”, 
Phong hóa, số 135, 8-2-1935. 
20. Hoàng Như Mai (1993), “Người phụ nữ 
chăm sóc thơ mới từ buổi ấu thơ”, Phụ nữ, 
số ra ngày 6-1-1993. 
21. Tố Mai (1935), “Cô Nguyễn Thị Kiêm trả 
lời”, Sống, số 2, 29-1-1935. 
22. Hương Nguyên (2001), “Các nhà văn nữ 
Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tạp chí Văn 
học, số 10-2001. 
23. Vũ Ngọc Phan (1944), Nhà văn hiện đại, 
Tân Dân xuất bản, Hà Nội. 
24. Thế Phong (1974), Lược sử văn nghệ Việt 
Nam - Nhà văn tiền chiến 1930-1945, 
Vàng son xuất bản, Sài Gòn. 
25. Kiều Thanh Quế (1968), Cuộc tiến hóa 
văn học Việt Nam, Hoa Tiên xuất bản, 
(Sài Gòn). 
26. Bộ sưu tập Bùi Văn Quế (2001), “Nguyễn 
Thị Manh - nữ tiên phong thơ mới ở Nam 
Kỳ” (Lưu trữ tại thư viện Tổng hợp 
TP.HCM, BH2001-CD room). 
27. Nguyễn Hữu Tiến (1934), “Thơ mới thơ 
cũ”, Nam Phong, số 193. 
28. Hoài Thanh, Hoài Chân (1942), Thi nhân 
Việt Nam, Nguyễn Đức Phiên xuất bản. 
29. Thanh Việt Thanh, Thiện Mộc Lan 
(1999), Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, 
Nxb Văn nghệ TP. HCM. 
30. Nguyễn Q. Thắng (1990), Tiến trình văn 
nghệ miền Nam, Nxb An Giang. 
31. Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang, Trần 
23 
Hữu Tá (2013), Nhìn lại Thơ mới và văn 
xuôi Tự lực văn đoàn, Nxb Thanh niên, 
TP. HCM. 
32. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Một cái triệu 
hay: Tranh luận văn nghệ ở nước ta nửa 
đầu thế kỷ XX (tập 1, 2), Nxb Lao động, 
Hà Nội. 
33. Anh Thơ (2001), “Các nhà thơ nữ trước 
Cách mạng tháng 8”, Tạp chí Văn học, số 
7-2001. 
34. Minh Trí (1998), “Nữ sĩ Manh Manh, 
tiếng hót lạ trong làng báo Sài Gòn”, Phụ 
nữ TP.HCM, số 6-1998. 
35. Phạm Việt Tuyền (1965), Văn học miền 
Nam, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn. 
36. Ngô Lãng Vân (1972), Nữ thi sĩ Việt Nam, 
Sống mới xuất bản, Sài Gòn. 
37. Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sĩ tiền chiến, 
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
38. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2001), “Văn 
học hiện đại Việt Nam, bước khởi đầu 
quan trọng ở Sài Gòn, Nam Bộ”, Tạp chí 
Văn học, số 3-2001. 
Ngày nhận bài: 25/02/2016 Biên tập xong: 15/03/2016 Duyệt đăng: 20/03/2016 

File đính kèm:

  • pdfnguyen_thi_kiem_nhan_vat_moi_tinh_tu_moi_van_chuong_moi.pdf