Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”
Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ
XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở
những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu
trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai
đoạn trước 1945 ở Việt Nam.
Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ
Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là
“tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền
quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về
cuộc “cách mạng” thơ ca.

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 13 Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” Nguyen Thi Kiem – “The new figure, the new emotion, the new literature” TS. Lê Thị Thanh Tâm Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội Ph.D. Le Thi Thanh Tam University of Social Sciences and Humanities – National Univeristy Ha Noi Tóm tắt Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là “tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về cuộc “cách mạng” thơ ca. Từ khóa: Nguyễn Thị Kiêm, diễn đàn thơ Mới – thơ Cũ, nữ quyền Abstract Nguyen Thi Kiem is the special figure of the period of modernization of Vietnamese literature at the beginning of 20 th century. She was to be “the new figure, the new emotion, the new literature”. Her works show breakthrough idea of literary appreciation, the understanding of feminism. And her pre war articles (before 1945) are precious materials of Viet nam literary. She appeared as an orator at New – Old poetry community. Through her speeches and articles (including newspaper-reports and artistic criticals), we are able to realize that the sharp and absolute scientific thinking is her essential style. It is talent of literature of her from the point of view to be aware of the literary process in the relation with the national culture, state of renovation and ability of consolidation as well as the capacity to quickly grasp many realistic lessons of the revolution of poetry. Keywords: Nguyen Thi Kiem, New – Old poetry community, feminism 1. Tiểu sử Từ sau năm 1930, có một uy tín mới không nằm trong danh sách những tên tuổi làm quản lí, chủ bút hay viết sách, xuất bản mà trở thành một cá tính độc nhất vô nhị, một chân dung dĩnh ngộ làm văn học không lẫn vào đâu, đó là trường hợp Nguyễn Thị Kiêm. Tác phẩm của bà nằm 14 chính ở những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn thơ Cũ - thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. Nguyễn Thị Kiêm (có khi được ghi là Nguyễn Thị Kim trên Phụ nữ Tân văn) sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn; quê gốc của bà ở Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Thân phụ là ông Nguyễn Đình Trị (tức Huyện Trị), ông Hội đồng nổi danh đất Gò Công. Bà là một trí thức trưởng thành từ môi trường giáo dục và văn đàn Gia Định, trung tâm xứ Nam Bộ. Bà từng là nữ sinh của trường Nữ học Sài Gòn, sau đổi thành trường Nữ Gia Long, hay còn gọi là trường Nữ sinh Áo Tím (nay là trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai). Tốt nghiệp bằng thành chung (Trung học Đệ Nhất cấp), bà bắt đầu làm báo từ năm 1932 với nhiều bút danh khác như: Nguyễn Thị Manh Manh, Manh Manh, Mym, Nguyễn Văn Mym, Lệ Thủy (hoặc kí tắt là L.T) Bà tham gia viết bài cho các báo: Công luận, Việt Nam, Nữ lưu, Tuần lễ Nay, Sống Đặc biệt, bà là cây bút chủ lực của Phụ nữ Tân văn. Ban biên tập Phụ nữ Tân văn từng viết về “một thiếu niên nữ sĩ trong bộ biên tập của bổn báo” như sau: “Ngày nay trong Nam ngoài Bắc, ai cũng biết tên nữ-sĩ Nguyễn Thị Kim. Các độc giả yêu quý của Phụ-nữ Tân- văn chắc đều vui lòng thưởng những bài thơ lối mới ký biệt-hiệu Nguyễn Thị Manh Manh: nhân-vật mới, tình-tứ mới, văn- chương mới! E xúc-phạm đến lòng khiêm-nhượng của người bạn đồng-sự thiếu-niên, chúng tôi chỉ nói qua về công trước tác của nhà văn sĩ tuổi trẻ mà nghề văn già” (Phụ nữ Tân văn số 197 ngày 27-4-1933). Thực tế, sự già dặn bất ngờ của bà trong nhận thức về văn học, về giá trị người phụ nữ cũng như về các vấn đề văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX cho thấy lời giới thiệu trân trọng và quả quyết của Phụ nữ Tân văn về nhân vật thiếu niên “kì lạ” trên (tuổi trẻ - văn già) là có cơ sở và đúng đắn. Năm 1932, sự kiện bà diễn thuyết để bảo vệ Thơ mới đã gây chấn động văn đàn thời đó, ảnh hưởng sâu sắc đến bước đi đầu tiên của phong trào Thơ mới. Năm 1936, bà tham gia phong trào Đông Dương đại hội. Bà cũng là người rất tích cực trong việc tuyên truyền, tổ chức thực hiện hội Dục Anh và Nữ lưu học hội. Năm 1937, bà kết hôn với ông Trương Văn ... của con người đương thời. Từ quan điểm mới mẻ và chắc chắn, nữ sĩ còn nhấn mạnh phê bình thơ Hồ Văn Hảo như một giá trị thơ mới (viết về cuộc đời thật). Nhận xét về bài Con nhà thất nghiệp của Hồ Văn Hảo (Phụ Nữ Tân Văn số 208 ngày 20-7-1933), nữ sĩ cho rằng “người ta cho là chẳng phải thơ, chỉ vì chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh 19 hoa tàn nguyệt xế, suối chảy chim ngâm, mà là một cảnh thiết thật, một cảnh khổ có thật trong đời: người thất nghiệp Có lẽ trong thơ văn, người cu li ở trần quần vắn là một động vật không có gì lãng mạn chăng? Có lẽ cái bi kịch của một người nghèo khó phải đi ăn trộm “hụt”, chúng hay được la 'ăn trộm' rồi anh chạy trốn, bi kịch ấy không gì lạ đáng để ý chăng?". Ý tưởng sắc sảo này của Nguyễn Thị Manh Manh từ thời điểm nhạy cảm phôi thai phong trào Thơ mới đã làm sáng thêm giá trị của đời thơ Hồ Văn Hảo, người mà về sau, ngoài Đông Hồ dường như không có ai hiểu và trân trọng. Cái mới của nhà thơ Hồ Văn Hảo nằm ở chỗ: tiên cảm về tính chân thực và sự dấn thân của thơ ca hiện đại, sự chủ động của cái tôi và sự dứt khoát với quá khứ ngâm ngợi từ chương. Riêng ở bài Con nhà thất nghiệp, tuy lời lẽ chưa phải là một áng thơ tuyệt tác nhưng ý tưởng và cách nói mới đó rất xứng đáng được xem là một mẫu hình quan trọng của thơ mới, nhất là ở chặng đầu phôi thai. Dường như thơ mới trên bước đường “lưu lạc” của nó đã bị xô hẳn về phía lãng mạn, trôi hẳn về một “chân trời của cái tôi” do nhiều lớp thi nhân (có hoặc không có tuyên ngôn) đã “vô tình” làm nên chân dung thuần túy của thơ mới; trong khi ở thời trứng nước, nó đã ngấm ngầm làm một cuộc chuyển hóa “mây gió trăng hoa tuyết núi sông” thành một loại thơ dành cho nhân quần, thơ hướng xuống một địa ngục nhân sinh với những nỗi thương cảm chân thành. Phải chăng, cái “thực” của thơ mới ở những chặng đầu tiên đã từng là cái thực của đời chứ không phải chỉ có thế giới của tình - mộng - buồn như chúng ta hằng suy nghĩ về bản chất thơ mới? Quan niệm của nữ sĩ Manh Manh về trường hợp Hồ Văn Hảo và chọn lựa tác phẩm của ông như một thứ rường cột lặng lẽ cho công cuộc đổi mới thơ ca có lẽ là một quyết định rất cần chú ý ở bà. Với bài diễn thuyết lừng lẫy, nữ sĩ Manh Manh gửi gắm hy vọng một cách tỉnh táo rằng đổi mới thơ là tất yếu: “chỉ mong rằng lối thơ mới được nhiều người để ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng những thi cảm của các nhà thi sĩ hiện thời”. Lịch sử cho thấy niềm hy vọng ấy rất đáng xem là sự tiên đoán ngoạn mục. 4. Sự nghiệp Nguyễn Thị Kiêm nhìn từ hiện tại - một vài đánh giá 4.1. Thành tựu chung 1. Nguyễn Thị Kiêm là người đặt nền móng xây dựng nghệ thuật diễn thuyết của phụ nữ - điều chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam. Bà đã đi vào lịch sử bằng hoạt động diễn thuyết và nội dung diễn thuyết ở tuổi hoa niên với những chủ đề làm thay đổi nhiều giá trị tinh thần của xã hội. 2. Tư duy văn học của bà đi đôi với khả năng hùng biện, phong cách nói và viết chừng mực nhưng quyết liệt. Tư duy đó mang tính nguyên hợp, gắn chặt với tư duy khoa học thực sự. Bởi vậy, cái nhìn của bà luôn là cái nhìn phản biện, phản tỉnh. Tính chất hoạt ngôn không tách rời khả năng phân tích lý trí. 3. Các bài viết về văn học, nghệ thuật chạm đến những vấn đề lý luận văn học một cách tự nhiên (bao gồm các điểm: văn học khách quan, văn học chủ quan, “nam hóa” làng văn nữ, văn học và khoa học, văn học và mỹ thuật, sự tiến hóa của nữ lưu trên đường văn học). Nhiều khái quát và so sánh hợp lý (đặt văn học vào phông nền văn hóa văn minh châu Âu để tranh luận); phối hợp tri thức Đông Tây, công nghệ, tôn giáo để thuyết phục 20 người nghe, người đọc. 4. Những bài báo phê bình nghệ thuật, phóng sự, phỏng vấn của bà về cơ bản đều tay, chắc chắn, giàu cảm xúc và vốn sống (so với tuổi của bà). Các lĩnh vực quan tâm rất đa dạng: từ những bài phóng sự dạng du kí như “Hai ngày ở thánh thất Cao Đài” (Phụ nữ Tân văn số 176 ngày 10- 11-1932, số 177 ngày 17-11-1932, số 178 ngày 24-11-1932, số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933) cho đến những bình luận nghệ thuật như “Những cái dở của điệu hát cải lương ta” (Phụ nữ Tân văn số 230 ngày 4-1-1933); “Các điệu hát Bắc kỳ” (Phụ nữ Tân văn số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933; Phụ nữ Tân văn số 205, ngày 22-6-1933); Phê bình kịch “Bạn và vợ” (Phụ nữ Tân văn số 213, ngày 24-8- 1933); “Điệu hát cải lương ta” (Phụ nữ Tân văn số 231 ngày 11-1-1934, số 232 ngày 18-1-1934). Cách dẫn giải trong loạt bài này hầu hết mang tính khoa học, luận điểm rất mới mẻ và táo bạo (3). Mảng báo được chăm sóc nhiều hơn cả lại nằm ở những bài viết về đời sống, xã hội, cuộc sống lao khổ của người dân, như các bài “Nhân vật buổi “kinh tế”” (Phụ nữ Tân văn số 197, ngày 27-4-1933); “Mấy con số đáng ghê sợ” (Phụ nữ Tân văn số 215, ngày 7-9-1933); “Viếng một cái sầu thành: nhà thương Bạc Hà” (Phụ nữ Tân văn số 212, ngày 17-8- 1933); “Phụ nữ với hôn nhơn” (Phụ nữ Tân văn số 221 ngày 19-10-1933) Đặc biệt, bài “Dưới chơn Đèo Cả” (Phụ nữ Tân văn số 252 ngày 2-8-1934) gần với một phóng sự giàu chất văn hơn là một bài báo phản ánh đời sống “lao công” xây đường ray; bài viết trộn lẫn cái nhìn sắc sảo về đời sống với niềm đa cảm của một tấm lòng tử tế. Mảng báo viết về xã hội, nhân sinh rất nhất quán với quan niệm của bà về tinh thần dấn thân không mỏi vào cuộc “nhân quần”. Điều ấy cũng không khác là bao việc bà chọn Hồ Văn Hảo, nhà thơ mới Nam bộ với bài thơ về đời thất nghiệp để làm điểm tựa cho cuộc cách tân thơ phải có ở xứ Annam. 5. Giá trị lý luận từ những hoạt động và nội dung diễn thuyết của bà có thể nói là rất lớn: đóng góp cho sự hình thành và phát triển thơ mới, góp phần đặt những viên gạch đầu tiên cho việc tìm hiểu văn chương nữ quyền ở Việt Nam; sớm nhận ra và đặt ra vấn đề văn học và phụ nữ một cách đích đáng, biết cách đặt văn học trong các trào lưu tiến bộ về tư tưởng, mỹ thuật, văn nghệ đương thời; đồng thời thấy rõ tầm quan trọng của ảnh hưởng văn hóa văn minh châu Âu đối với sự phát triển văn học nước nhà. 4.2. Một vài hạn chế Hầu hết các bài viết của nữ sĩ Manh Manh đều ít chọn lọc ngôn ngữ viết thuần túy mà thường chọn cách nói khá tự nhiên, dân dã. Văn bản của bà thường xuất hiện tình trạng khẩu ngữ xen lẫn thuật ngữ, cách nói tài hoa, trí tuệ xen lẫn cách nói “rặt” địa phương (miền Tây Nam Bộ), khiến cho tính chuyên nghiệp trong văn phong bị ảnh hưởng. Cách đặt vấn đề của bà thường khá lớn, có dáng dấp những phác thảo lớn nhưng việc chi tiết hóa lại không cân xứng. Văn phong quốc ngữ của bà đôi lúc còn ở dạng thô, ít trau chuốt, có khi bị “cứng”, “sượng”. Ở tuổi hai mươi, bà đã làm quá nhiều thứ vượt sức khi thử thách mình ở các vấn đề đặc biệt hệ trọng đối với sự phát triển đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam giai đoạn thuộc Pháp. Một số kiến giải trong bài viết của bà còn dừng ở mức tản mạn, nồng nhiệt nhưng đơn giản. Thơ của bà quá tỉnh táo, thông minh nhưng thiếu tinh tế. Dùng nó để chứng minh cho “lộ trình” đổi mới thơ thì được, 21 nhưng chứng minh cho giá trị của thơ mới thì vẫn còn là điều băn khoăn. 5. Kết luận Di sản của nữ sĩ Manh Manh để lại chứng tỏ một ranh giới giữa “tài văn” và “văn tài”. Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là “tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về cuộc “cách mạng” thơ ca. Cách phát hiện vấn đề rất thông minh của bà và những lập luận không thể sáng rõ hơn cho thấy những tính từ các nhà nghiên cứu dành cho bà: “xuất chúng”, “có tài và có gan” là đích đáng. Tuy nhiên, “tài văn” của bà không song trùng với “văn tài” - vốn là thứ được chưng cất trong mỗi con chữ sáng tác tài hoa. Trên thực tế, các bài thơ “làm chứng” của bà trong các diễn thuyết về “thơ mới” chưa thể có bất kì một vị trí nào trên văn đàn đương thời (và cả về sau cũng thế). Hoài Thanh đã đúng khi nhắc đến bà như một “ngòi châm” cho cuộc đổi ngôi vĩ đại trong lịch sử nghệ thuật ngôn từ thời hiện đại (giai đoạn chuyển giao từ thơ cũ sang thơ mới) mà không chọn lấy một câu thơ, một bài thơ nào của bà để đặt vào “Hội Tao đàn” huyền thoại năm xưa. Nhìn chung, Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Toàn bộ đóng góp của bà thể hiện ở tài năng, tư chất phản biện khoa học về văn chương một cách rạch ròi, mạnh mẽ, không khoan nhượng song cũng rất có tình, chừng mực, hoàn toàn tránh được sự xốc nổi, không tưởng. Di sản của bà giống như tiếng hót con chim yêu đời, dấn thân, thần thái lớn lao giữa trời cao rộng nhưng cũng sớm kết thúc trong bi kịch riêng lặng lẽ. * Chú thích Bài viết nằm trong đề tài KH&CN cấp Đại Học Quốc gia loại B năm 2013, mã số B2013-18b-05: Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954 (Sưu tầm, tuyển chọn và nghiên cứu). (1) Các trích đoạn phần này đều rút từ bài diễn thuyết “Nữ lưu và văn học” (Phụ nữ Tân văn số 131, ngày 26-5-1932). (2) Xin đọc nguyên văn một số nhận xét của bà: “Tôi không hiểu tại làm sao có người thấy rõ cái dở của điệu ca của mình mà không chịu nhận như vậy. Bản nảo bản rí rít như than khóc, kể lể tỏ ra cái tánh yếu ớt của dân mình, cái hồn bị đè áp phục tùng từ mấy ngàn năm xưa Nhưng họ cho vậy là mơ mộng, vẩn vơ, khen có tài văn chương trong lời hát. Mà văn chương của bài ca ta là văn chương tầm phào, nói đi nói lại () Âm nhạc của ta còn nghèo lắm vì chẳng có ai bổ cứu sửa đổi các thứ đờn, chẳng có thầy đặt bài ca (compositeur) có bấy nhiêu điệu thì xài bao nhiêu đó” (trích “Điệu hát cải lương ta”, Phụ nữ Tân văn số 231 ngày 11-1-1934, trang 6); “Hát cải lương của ta còn ở dưới một trình độ thấp thỏi lắm. Người ngoại quốc đến xem ắt cho người Annam có cái tâm hồn thật trong sạch (une caudeur d’âme), cái trẻ con thật thà, cái lạc quan “dày cuôi” vì rạp hát là cái phản chiếu sự văn minh của dân một xứ. Một số người trí thức Annam không chịu xem cải lương vì họ chê là dở lắm. Một số người không chịu nghe nói đến cải lương vì họ cho là không thể sửa đổi được. Không, nếu hát xướng của ta mà có thể làm cho người ngoài lầm về cái trình độ trí thức của ta thì chúng ta phải quan tâm mới được (L.T.T.T nhấn mạnh). Thấy nó dở không nên chê nó dở mãi, phải tìm cái dở tại đâu mà có, làm sao mà bổ cứu cho nó được cao lên” (trích “Những cái dở của điệu hát cải lương ta”, Phụ nữ Tân văn số 230 ngày 4-1-1933). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1999), Những danh sĩ miền Nam, Nxb Tổng hợp Tiền Giang. 22 2. Hoàng Anh (1998), “Nguyễn Thị Kiêm: “Nữ vệ sĩ của phong trào “thơ mới” buổi đầu””, Tạp chí Văn, Hội nhà văn TP.HCM, số 83. 3. Hoàng Anh (1999), “Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh”, Sài Gòn giải phóng, ngày 13-4-1999. 4. Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2005), Văn học Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia. 5. Phạm Xuân Độ (1970), Nữ thi hào Việt Nam, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn. 6. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở Nam Kì 1865-1930, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 7. Bằng Giang (1999), “Phụ nữ tân văn (1929-1935) - Cái bệ phóng cho một tài năng”, Văn nghệ, số 21 (bộ mới). 8. Nguyễn Hữu Hiệp (1998), “Bước ngoặt thơ mới ở Nam Kỳ”, Xưa và nay, số 52B- 6/1998. 9. Mai Hương (biên soạn và tuyển chọn) (1997), Nữ sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 10. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội. 11. Ngộ Không (1935), “Tường thuật buổi diễn thuyết tranh luận giữa Nguyễn Thị Kiêm và Nguyễn Văn Hanh tại Hội Khuyến học Sài Gòn, 16-1-1935”, Phong hóa, 2-1935. 12. Lê Đình Kỵ (1989), Thơ mới - Những bước thăng trầm, Nxb TP.HCM. 13. Thạch Lam (1935), “Thơ mới”, Phong hóa, số 142, 25-3-1935. 14. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 15. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 2, Nxb Văn nghệ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM. 16. Nguyễn Phước Thị Liên (1998), “Nữ sĩ Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm đôi nét đời thường”, Tạp chí Văn, số 86. 17. Nguyễn Tấn Long (1968), Việt Nam thi nhân tiền chiến, 3 quyển, Sống mới xuất bản, Sài Gòn. 18. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1968), Khuynh hướng thi ca tiền chiến, Sống mới xuất bản. 19. Tứ Ly (1935), “Một cuộc diễn thuyết ở Sài Gòn: Vấn đề thơ mới và thơ cũ”, Phong hóa, số 135, 8-2-1935. 20. Hoàng Như Mai (1993), “Người phụ nữ chăm sóc thơ mới từ buổi ấu thơ”, Phụ nữ, số ra ngày 6-1-1993. 21. Tố Mai (1935), “Cô Nguyễn Thị Kiêm trả lời”, Sống, số 2, 29-1-1935. 22. Hương Nguyên (2001), “Các nhà văn nữ Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tạp chí Văn học, số 10-2001. 23. Vũ Ngọc Phan (1944), Nhà văn hiện đại, Tân Dân xuất bản, Hà Nội. 24. Thế Phong (1974), Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930-1945, Vàng son xuất bản, Sài Gòn. 25. Kiều Thanh Quế (1968), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Hoa Tiên xuất bản, (Sài Gòn). 26. Bộ sưu tập Bùi Văn Quế (2001), “Nguyễn Thị Manh - nữ tiên phong thơ mới ở Nam Kỳ” (Lưu trữ tại thư viện Tổng hợp TP.HCM, BH2001-CD room). 27. Nguyễn Hữu Tiến (1934), “Thơ mới thơ cũ”, Nam Phong, số 193. 28. Hoài Thanh, Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Nguyễn Đức Phiên xuất bản. 29. Thanh Việt Thanh, Thiện Mộc Lan (1999), Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, Nxb Văn nghệ TP. HCM. 30. Nguyễn Q. Thắng (1990), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb An Giang. 31. Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang, Trần 23 Hữu Tá (2013), Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn, Nxb Thanh niên, TP. HCM. 32. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Một cái triệu hay: Tranh luận văn nghệ ở nước ta nửa đầu thế kỷ XX (tập 1, 2), Nxb Lao động, Hà Nội. 33. Anh Thơ (2001), “Các nhà thơ nữ trước Cách mạng tháng 8”, Tạp chí Văn học, số 7-2001. 34. Minh Trí (1998), “Nữ sĩ Manh Manh, tiếng hót lạ trong làng báo Sài Gòn”, Phụ nữ TP.HCM, số 6-1998. 35. Phạm Việt Tuyền (1965), Văn học miền Nam, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn. 36. Ngô Lãng Vân (1972), Nữ thi sĩ Việt Nam, Sống mới xuất bản, Sài Gòn. 37. Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sĩ tiền chiến, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 38. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2001), “Văn học hiện đại Việt Nam, bước khởi đầu quan trọng ở Sài Gòn, Nam Bộ”, Tạp chí Văn học, số 3-2001. Ngày nhận bài: 25/02/2016 Biên tập xong: 15/03/2016 Duyệt đăng: 20/03/2016
File đính kèm:
nguyen_thi_kiem_nhan_vat_moi_tinh_tu_moi_van_chuong_moi.pdf