Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan

Đặt vấn đề: Té ngã ở người cao tuổi gây ra nhiều biến chứng, di chứng, làm tiêu tốn nhiều tiền của cho quá

trình chăm sóc và điều trị. Té ngã là sự cố y khoa không mong muốn có thể phòng ngừa được. Việc sử dụng một

công cụ cụ thể đã được xác định có giá trị lâm sàng để đánh giá nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan là một

trong những bước quan trọng trong công tác phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn cho người bệnh khi nằm viện.

Mục tiêu: Đánh giá mức độ nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú.

Phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả được tiến hành trên 81 người bệnh nội trú ≥60 tuổi tại các khoa lâm

sàng của một bệnh viện khám chữa bệnh bằng Y dược cổ truyền Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 04 đến tháng

05 năm 2019. Thang đo Morse được sử dụng để đánh giá mức độ nguy cơ té ngã.

Kết quả: Tại điểm cắt 45 của thang đo Morse, 64,2% người bệnh có nguy cơ té ngã cao. Người bệnh

cao tuổi sử dụng từ 4 loại thuốc trở lên có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh cao tuổi sử dụng ít hơn

4 loại thuốc, với OR=3,36 (khoảng tin cậy 95%: 1,16-9,73), p=0,03; Người bệnh cao tuổi sử dụng thuốc điều

trị tăng huyết áp có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh không sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp,

với OR=7,818 (khoảng tin cậy 95%: 2,77-2,09), p <0,001; Người bệnh cao tuổi có chỉ định tập vật lý trị liệu

có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh không có chỉ định tập vật lý trị liệu với OR = 6,05 (khoảng tin

cậy 95%: 1,99–8,33), p=0,01.

Kết luận: Việc sử dụng thang đo Morse xác định mức độ nguy cơ té ngã ở người cao tuổi và tìm các yếu tố

liên quan giúp điều dưỡng định hướng hành động can thiệp phù hợp trong phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn

cho người bệnh khi nằm viện, cải thiện chất lượng chăm sóc dựa trên bằng chứng khoa học.

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 1

Trang 1

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 2

Trang 2

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 3

Trang 3

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 4

Trang 4

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 5

Trang 5

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 6

Trang 6

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 14880
Bạn đang xem tài liệu "Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan

Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 133
NGUY CƠ TÉ NGÃ Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ 
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Vũ Ngô Thanh Huyền*, Trần Thụy Khánh Linh**, Faye Hummel*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Té ngã ở người cao tuổi gây ra nhiều biến chứng, di chứng, làm tiêu tốn nhiều tiền của cho quá 
trình chăm sóc và điều trị. Té ngã là sự cố y khoa không mong muốn có thể phòng ngừa được. Việc sử dụng một 
công cụ cụ thể đã được xác định có giá trị lâm sàng để đánh giá nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan là một 
trong những bước quan trọng trong công tác phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn cho người bệnh khi nằm viện. 
Mục tiêu: Đánh giá mức độ nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú. 
Phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả được tiến hành trên 81 người bệnh nội trú ≥60 tuổi tại các khoa lâm 
sàng của một bệnh viện khám chữa bệnh bằng Y dược cổ truyền Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 04 đến tháng 
05 năm 2019. Thang đo Morse được sử dụng để đánh giá mức độ nguy cơ té ngã. 
Kết quả: Tại điểm cắt 45 của thang đo Morse, 64,2% người bệnh có nguy cơ té ngã cao. Người bệnh 
cao tuổi sử dụng từ 4 loại thuốc trở lên có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh cao tuổi sử dụng ít hơn 
4 loại thuốc, với OR=3,36 (khoảng tin cậy 95%: 1,16-9,73), p=0,03; Người bệnh cao tuổi sử dụng thuốc điều 
trị tăng huyết áp có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh không sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp, 
với OR=7,818 (khoảng tin cậy 95%: 2,77-2,09), p <0,001; Người bệnh cao tuổi có chỉ định tập vật lý trị liệu 
có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh không có chỉ định tập vật lý trị liệu với OR = 6,05 (khoảng tin 
cậy 95%: 1,99–8,33), p=0,01. 
Kết luận: Việc sử dụng thang đo Morse xác định mức độ nguy cơ té ngã ở người cao tuổi và tìm các yếu tố 
liên quan giúp điều dưỡng định hướng hành động can thiệp phù hợp trong phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn 
cho người bệnh khi nằm viện, cải thiện chất lượng chăm sóc dựa trên bằng chứng khoa học. 
Từ khóa: té ngã, người cao tuổi, công cụ đánh giá nguy cơ té ngã, an toàn người bệnh 
ABSTRACT 
RELEVANT FACTORS AND RISK OF FALLS IN ELDERLY INPATIENTS 
Vu Ngo Thanh Huyen, Tran Thuy Khanh Linh, Faye Humel 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 133 – 139 
Background: The issue of falling in the elderly cause complications and sequalae, which cost a lot in medical 
care and treatment. Falling issue is an unexpected medical problem that can be prevented. Using a specific tool 
identified with actual values in assessing the risk of falling and finding related factors is one important step in 
preventing falling and ensuring safety for inpatients. 
Objectives: Assessing the risky level of falling and related factors in elderly inpatients. 
Methods: Descriptive cross-sectional design. The study was conducted on 81 inpatients over 60 years old in 
Clinical Departments of the hospital applying traditional medicine method in Ho Chi Minh City from April to 
May, 2019. Using Morse Fall Scale to assess the risk of falling. 
Results: At the cut-off point 45 of the Morse scale, the proportion of the patients with a high risk of falling is 
*Viện Y Dược Học Dân Tộc TP. Hồ Chí Minh 
**Bộ môn Điều dưỡng, Khoa Điều dưỡng – Kỹ thuật y học, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
***Đại học Bắc Colorado, Mỹ 
Tác giả liên lạc: CN. Vũ Ngô Thanh Huyền ĐT: 0934004054 Email: thanhhuyendieuduong@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 134
64.2%. Elderly patients who use 4 or more drugs are at a higher risk of falling than elderly patients who use less 
than 4 drugs, in which, OR = 3.36 (95% CI: 1.16- 9.73), p = 0.03; Elderly patients who use blood pressure drugs 
have a higher risk of falling than patients who do not use blood pressure drugs, in which, OR = 7.818 (95% CI: 
2.77 - 2.09), p <0.001; Elderly patients who are assigned to physical therapy are at a higher risk of falling than 
patients who do not practice physical therapy, in which, OR = 6.05 (95% CI: 1.99 – 8.33), p = 0.01. 
Conclusions: Using Morse Fall Scale to determine the risk of falling in the elderly and finding related 
factors will help nurses to be oriented with appropriate interventions in preventing falling, ensuring safety for 
inpatients and improving the quality of scientific evidence-based care. 
Key words: falls, elderly, tools for assessing risk of falling, patient safety 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Té ngã ở người cao tuổi là một vấn đề 
nghiêm trọng để lại hậu quả nặng nề cho các 
cá nhân, gia đình và hệ thống y tế. Trên thế 
giới, ước tính có 646.000 trường hợp té ngã tử 
vong xảy ra mỗi năm, khiến nó trở thành 
nguyên nhân thứ hai gây tử vong do thương 
tích không chủ ý, sau chấn thương giao thông 
đường bộ(14). Trong môi trường bệnh viện, té 
ngã là sự kiện bất lợi t ...  dáng đi 
suy yếu. Liên quan tình trạng tâm thần, phần lớn 
người bệnh định hướng được bản thân (65,4%) 
(Bảng 1). Mức độ nguy cơ té ngã của người bệnh: 
phần lớn người bệnh cao tuổi điều trị nội trú có 
mức độ nguy cơ té ngã cao (64,2%). 
Bảng 2. Mối liên quan giữa đặc điểm người bệnh đến 
mức độ nguy cơ té ngã theo thang đo Morse 
Đặc điểm 
Nguy cơ té ngã 
OR (KTC 95%) p Thấp 
n (%) 
Cao 
n (%) 
Giới 
Nam 8(9,9) 17(21,0) 
1,28 (0,47- 3,47) 0,803 
Nữ 21(25,9) 35(43,2) 
Nhóm tuổi 
60-79 25(30,9) 43(53,1) 
1,30 (0,37- 4,70) 0,762 
≥80 4(4,9) 9(11,1) 
OR (Odds ratio): tỷ suất chênh; KTC: khoảng tin cậy, 
p: ý nghĩa thống kê 
Trong nghiên cứu, 43,2% nữ có mức độ nguy 
cơ té ngã cao, gấp đôi tỷ lệ mức độ nguy cơ té 
ngã cao ở nam. Hơn một nửa người bệnh trong 
độ tuổi từ 60-79 tuổi (53,1%) có mức độ nguy cơ 
té ngã cao. Sự khác biệt về mức độ nguy cơ té 
ngã theo giới tính và nhóm tuổi không có ý 
nghĩa thống kê (p >0,05) (Bảng 2). 
Người bệnh có chỉ định tập vật lý trị liệu 
có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh 
không tập vật lý trị liệu với OR=6,05 (KTC 
95%: 1,99–8,33), p=0,01. Người bệnh sử dụng 
từ 4 loại thuốc trở lên có nguy cơ té ngã cao 
hơn so với người bệnh sử dụng ít hơn 4 loại 
thuốc, với OR=3,36 (KTC 95%: 1,16-9,73), 
p=0,03. Người bệnh sử dụng thuốc huyết áp có 
nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh 
không sử dụng thuốc huyết áp, với OR=7,818 
(KTC 95%: 2,77-2,09), p <0,001. Sự khác biệt về 
mức độ nguy cơ té ngã theo các yếu tố chỉ số 
khối cơ thể, giảm thị lực, hạ huyết áp tư thế, sử 
dụng thuốc thần kinh, thuốc kháng viêm, 
thuốc lợi tiểu không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05) (Bảng 3). 
Bảng 3. Mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ đến mức độ nguy cơ té ngã theo thang đo Morse. 
Yếu tố nguy cơ 
Nguy cơ té ngã 
OR (KTC 95%) p 
Thấp n (%) Cao n (%) 
BMI 
Thiếu cân 1 (1,2) 6 (7,4) 
 0,226
a
 Bình thường 18 (22,2) 36 (44,4) 
Thừa cân, béo phì 10 (12,3) 10 (12,3) 
Vật lý trị liệu 
Có 5 (6,2) 29 (35,8) 6,05 
(1,99 – 8,33) 
0,010 
Không 24 (29,6) 23 (28,4) 
Giảm thị lực 
Có 29 (35,8) 48 (59,3) 
1,60 (1,35 - 1,91) 0,291 
Không 0 (0,0) 4 (4,9) 
Hạ huyết áp tư thế 
Có 7(8,6) 24 (29,6) 2,69 
(0,99 - 7,40) 
0,06 
Không 22 (27,2) 28 (34,6) 
≥ 4 thuốc 
Có 18 (22,2) 44 (54,3) 3,36 
(1,16 - 9,73) 
0,03 
Không 11 (13,6) 8(9,9) 
Thuốc thần kinh 
Có 9 (11,1) 12 (14,8) 0,67 0,598 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 137
Yếu tố nguy cơ 
Nguy cơ té ngã 
OR (KTC 95%) p 
Thấp n (%) Cao n (%) 
Không 20 (24,7) 40 (49,4) (0,24 - 1,84) 
Thuốc huyết áp 
Có 11 (13,6) 43 (53,1) 7,82 
(2,77 - 2,09) 
<0,001 
Không 18 (22,2) 9 (11,1) 
Thuốc kháng viêm 
Có 3(3,7) 3(3,7) 0,53 
(0,10 - 2,82) 
0,661 
Không 26 (32,1) 49 (60,5) 
Thuốc lợi tiểu 
Có 3 (3,7) 3 (3,7) 0,53 
(0,10 – 2,82) 
0,451 
Không 26 (32,1) 49 (60,5) 
Kiểm định chi bình phương, OR (Odds ratio): tỉ suất chênh; KTC: khoảng tin cậy; p: ý nghĩa thống kê; 
a Fisher’s exact; BMI: chỉ số khối cơ thể 
Bảng 4. Kết quả phân tích đa biến về mối liên quan 
giữa các yếu tố sử dụng ≥4 loại thuốc, thuốc huyết áp 
và vật lý trị liệu đến mức độ nguy cơ té ngã theo 
thang đo Morse 
Yếu tố nguy cơ OR CI 95% p 
Sử dụng ≥ 4 loại thuốc 0,92 0,23- 3,62 0,901 
Sử dụng thuốc huyết áp 0,16 0,05- 0,60 0,006 
Vật lý trị liệu 0,22 0,07- 0,72 0,012 
Mô hình hồi quy đa biến; OR (Odds ratio): tỉ suất chênh; 
CI: khoảng tin cậy; p: ý nghĩa thống kê 
Sử dụng thuốc huyết áp là yếu tố ảnh 
hưởng đến mức độ nguy cơ té ngã ở người 
bệnh cao tuổi điều trị nội trú với OR=0,16 
(KTC 95%: 0,05-0,60), p=0,006. Vật lý trị liệu 
ảnh hưởng đến mức độ nguy cơ té ngã với 
OR=0,22 (KTC 95%: 0,07-0,72), p=0,012 (Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu không tìm thấy mối tương quan 
giữa tuổi đến mức độ nguy cơ té ngã. Tuy nhiên, 
té ngã liên quan đến vấn đề thể chất có nguồn 
gốc từ quá trình lão hóa. Sự thay đổi chức năng 
và cấu trúc trong giai đoạn lão hóa làm giảm sức 
mạnh cơ bắp. Sự suy giảm về sức mạnh cơ bắp 
và sự linh hoạt của khớp có thể làm thay đổi sự 
đi lại hoặc đứng lên, ngồi xuống ghế của người 
cao tuổi(3). 
Chúng tôi không tìm thấy mối tương quan 
giữa giới tính đến mức độ nguy cơ té ngã. Tuy 
nhiên Painter(5) đã cho rằng phụ nữ té ngã 
thường xuyên hơn nam giới trong nhóm tuổi từ 
71 đến 80 tuổi. 
Tỷ lệ người bệnh cho biết đã té ngã trong 12 
tháng vừa qua là 17,3%. Một nghiên cứu đã 
chứng minh người cao tuổi bị té ngã trong 6 
tháng qua có nguy cơ té ngã cao hơn 1,675 lần so 
với người không tiền sử té ngã(6). 
Gần 80% người bệnh cao tuổi tham gia trong 
nghiên cứu này có chẩn đoán mắc nhiều hơn 1 
bệnh. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của Falcao(6) có 80,3%. Tại Việt Nam trung bình 1 
người cao tuổi Việt Nam mắc 3 bệnh(12). Theo 
một nghiên cứu ở Canada, bệnh cao huyết áp 
làm tăng nguy cơ té ngã(14). Bệnh cơ xương khớp 
làm tăng nguy cơ té ngã 2,4 lần(1). Đái tháo 
đường làm tăng nguy cơ gấp đôi té ngã(12). 
Tỷ lệ người bệnh cao tuổi đang truyền dịch 
gần 9%. Kết quả này thấp hơn nhiều so với 
nghiên cứu tại Braxin của Falcao(6) gần 70%. Có 
sự khác biệt này là do đặc trưng của Viện Y dược 
học Dân tộc là áp dụng các phương pháp không 
dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, 
vật lý trị liệu, cấy chỉ, ôn châm để điều trị cho 
người bệnh(2). 
Khoảng 49% người bệnh đi lại không cần sử 
dụng sự hỗ trợ từ dụng cụ hoặc điều dưỡng. Tỷ 
lệ này chỉ gần bằng một nửa so với nghiên cứu 
của Falcao(6) tại Braxin là 86%. Tỷ lệ người bệnh 
cần sự hỗ trợ từ dụng cụ hoặc điều dưỡng khi đi 
lại trong nghiên cứu là 36%, cao gấp ba lần so 
với kết quả của Falcao(6) là 9,5%. Tỷ lệ người 
bệnh phải vịn nội thất như bàn ghế, tường để đi 
lại khoảng 15%, cao gấp ba lần nghiên cứu của 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 138
Falcao(6) là 5,6%. 
Số người bệnh có dáng đi suy yếu, không 
thăng bằng chiếm tỉ lệ cao nhất gần 60%, cao hơn 
nhiều so với nghiên cứu tại Braxin của Falcao(6) 
là 11%. Người bệnh có dáng đi yếu ớt hoặc ngồi 
xe lăn khi đi lại có tỷ lệ 38,3%. Trong nghiên cứu, 
hơn một nửa người bệnh có bệnh lý di chứng tai 
biến mạch máu não, cơ xương khớp và ung thư 
với dáng đi suy yếu, không thăng bằng. Điều 
dưỡng cần chú trọng việc có thân nhân chăm sóc 
hỗ trợ đi lại khi cần. 
Liên quan đến tình trạng tâm thần, nghiên 
cứu ghi nhận được 65,4% người bệnh định 
hướng được bản thân. Kết quả này thấp hơn 
kết quả nghiên cứu của Falcao(6) có 95,1%. Tuổi 
tác và lão hóa là nguyên nhân chính gây nên 
tình trạng lú lẫn ở người cao tuổi. Bệnh lý đột 
quỵ, tai biến mạch máu não gây tổn thương tế 
bào não dẫn đến giảm trí nhớ. Việc sử dụng 
các thuốc huyết áp, thuốc an thần cũng gây 
giảm trí nhớ ở người cao tuổi(12). Điều dưỡng 
cần cảnh báo với người nhà người bệnh về 
tình trạng tâm thần. Điều dưỡng hướng dẫn 
chế độ ăn, quản lý thuốc chặt chẽ không để 
người bệnh tự uống thuốc. Mang vòng đeo 
tay, bảng có ghi thông tin người bệnh. 
Người bệnh có mức độ nguy cơ té ngã cao 
chiếm tỷ lệ cao nhất gần 60%. Nghiên cứu của 
Falcao và Sarges cũng có mức độ nguy cơ té ngã 
cao chiếm tỷ lệ trên 40%(6,9). Nghiên cứu của 
Mata có mức độ nguy cơ té ngã cao chiếm tỷ lệ 
thấp nhất khoảng 35%(8). Các nghiên cứu trên đã 
chứng minh ít nhất một phần ba số người bệnh 
nhập viện có nguy cơ té ngã cao. Do đó, nhân 
viên y tế cần thực hiện các khuyến cáo phòng 
ngừa, các giải pháp tác động đến yếu tố nguy cơ 
cũng như nguyên nhân gây té ngã để giảm tần 
suất xuất hiện tình huống suýt xảy ra té ngã dẫn 
đến giảm sự cố té ngã. 
Có mối liên quan giữa người bệnh có chỉ 
định tập vật lý trị liệu với nguy cơ té ngã. Người 
bệnh có chỉ định tập vật lý trị liệu có nguy cơ té 
ngã cao hơn so với người bệnh không có chỉ 
định tập vật lý trị liệu. Điều này khác biệt với các 
nghiên cứu khác vì trong nghiên cứu có 40% 
người bệnh di chứng tai biến mạch máu não. Tại 
Viện y dược học dân tộc, người bệnh di chứng 
tai biến mạch máu não hầu hết đều có chỉ định 
tập vật lý trị liệu(7) (theo phác đồ điều trị khoa Y 
dược cổ truyền). Mà những đối tượng này đều 
có nhiều yếu tố nguy cơ gây té ngã như yếu cơ, 
yếu tay chân, đi lại khó khăn, mất thăng bằng 
khi đi lại, có các bệnh lý kết hợp, sử dụng nhiều 
loại thuốc nên họ có nguy cơ té ngã cao. Điều 
này dẫn đến kết quả người bệnh có chỉ định tập 
vật lý trị liệu có nguy cơ té ngã cao. Các nghiên 
cứu chứng minh biện pháp tập vật lý trị liệu như 
thủy trị liệu, tập tăng sức cơ tứ đầu đùi, cơ vai 
gây phòng ngừa hoặc giảm nguy cơ té ngã(15). 
Điều dưỡng cần phối hợp, trao đổi thống nhất 
với bác sĩ về những hướng dẫn chế độ vận động, 
tập luyện để tăng sức cơ, các bài tập phải phù 
hợp tình trạng bệnh lý và thể trạng người bệnh. 
Có mối liên quan giữa việc người bệnh sử 
dụng từ 4 loại thuốc trở lên đến mức độ nguy cơ 
té ngã. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của Milbrandt B, việc sử dụng từ 4 loại thuốc trở 
lên, uống thuốc theo toa hoặc không theo toa 
làm tăng nguy cơ té ngã ở người cao tuổi(9). Tác 
giả đã lý giải rằng việc sử dụng càng nhiều 
thuốc càng làm tăng xuất hiện các tác dụng 
phụ(9). Việc giảm tổng số thuốc mà người bệnh 
đang sử dụng xuống còn bốn hoặc ít hơn nếu có 
thể, cũng đã được chứng minh là làm giảm nguy 
cơ té ngã(15). 
Nghiên cứu cũng tìm thấy mối liên quan 
giữa việc sử dụng thuốc huyết áp và mức độ 
nguy cơ té ngã. Kết quả này giống với nghiên 
cứu của Woolcott C, thuốc điều trị huyết áp có 
liên quan đến té ngã(17). Người bệnh sử dụng 
thuốc hạ áp có nguy cơ té ngã, và trong một vài 
trường hợp nguy cơ này cao hơn gấp tám lần khi 
so sánh với các loại thuốc khác(8). Điều dưỡng 
cần theo dõi huyết áp, ghi nhận triệu chứng 
không mong muốn như chóng mặt, mệt mỏi, 
buồn ngủ, lập kế hoạch và thực hiện các can 
thiệp trên các triệu chứng đó. Đồng thời hướng 
dẫn chế độ ăn ít natri và kiểm soát cân nặng. Cần 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 139
lựa chọn thuốc, điều chỉnh liều tối ưu cho từng 
người bệnh sao cho hạn chế tối đa các tác dụng 
không mong muốn của thuốc hạ áp. 
Không tìm thấy mối tương quan giữa giảm 
thị lực và mức độ nguy cơ té ngã. Nghiên cứu 
ghi nhận đến 95% người bệnh giảm thị lực trong 
đó có tới 59% người bệnh có nguy cơ té ngã cao. 
Giảm thị lực là một trong những thay đổi do quá 
trình lão hóa gây ra sự giảm ổn định tư thế, tạo 
điều kiện cho sự té ngã. Nghiên cứu của Remor 
ghi nhận trong số những người đã té ngã có đến 
88,6% bị giảm thị lực(7). Điều dưỡng cần xem thị 
lực như là một yếu tố để đánh giá nguy cơ té ngã 
cho người bệnh khi nhập viện. Khi xác định 
người bệnh có giảm thị lực, hướng dẫn người 
bệnh khám chuyên khoa mắt để có biện pháp 
can thiệp phù hợp với nguyên nhân gây giảm thị 
lực ở từng người bệnh. 
Như một hạn chế của nghiên cứu, các kết 
quả không thể đại diện cho tất cả các bối cảnh 
bệnh viện do cỡ mẫu nhỏ, thời gian nghiên cứu 
ngắn, đặc điểm người bệnh chưa mang tính đại 
diện cao. 
KẾT LUẬN 
Ứng dụng thang đo Morse trong lâm sàng 
giúp điều dưỡng định hướng, xác định mức độ 
nguy cơ té ngã. Ba yếu tố liên quan đến mức độ 
nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội 
trú là sử dụng từ 4 loại thuốc trở lên, thuốc 
huyết áp và vật lý trị liệu. 
Trước những nguy cơ mà người cao tuổi gặp 
phải trong thời gian nằm viện, điều dưỡng cần 
nhấn mạnh tầm quan trọng của người thân bên 
cạnh người bệnh như là một biện pháp tốt trong 
việc ngăn ngừa té ngã, đặc biệt là ở những người 
có nguy cơ cao. Bệnh viện cần xem xét và áp 
dụng một thang đo để đánh giá nguy cơ té ngã ở 
người bệnh khi nhập viện. Lập kế hoạch đào tạo 
cho điều dưỡng về thực hành sử dụng thang đo 
này. Thiết lập các hướng dẫn can thiệp điều 
dưỡng phù hợp với từng mức độ nguy cơ té ngã 
và với các yếu tố liên quan đã xác định. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. American Geriatrics Society, British Geriatrics Society, American 
Academy of Orthopaedic Surgeons Panel on Falls Prevention 
(2001). "Guideline for the Prevention of Falls in Older Persons". J 
Am Geriatr Soc, 49(5):664–72. 
2. Bộ y tế (2008). "94 quy trình kỹ thuật y học cổ truyền". Cục xuất 
bản- Văn hóa thông tin, 1:28-98. 
3. Chu JJ, Chen XJ, Shen SS, et al (2015). "A poor performance in 
comprehensive geriatric assessment is associated with increased 
fall risk in elders with hypertension: a cross-sectional study". J 
Geriatr Cardiol, 12(2):113-8. 
4. Đặng Trọng Thanh (2016). Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 
năm 2016- Hướng tới mục tiêu già hoá khoẻ mạnh ở Việt Nam. 
Bộ Y tế Việt Nam, pp 66-94. 
5. Dionyssiotis Y (2012). "Analyzing the problem of falls among 
older people". Int J Gen Med, 5:805-13. 
6. Falcao RMM, Costa K, Fernandes M, et al (2019). "Risk of falls in 
hospitalized elderly people". Rev Gaucha Enferm, 40:e20180266. 
7. Huỳnh Thị Cúc (2014). "Phác đồ điều trị khoa Y dược cổ 
truyền". Bệnh viện Đa khoa An Phú, pp. 5-9. 
8. Mata L, Azevedo C, Policarpo AG, et al (2017). "Factors 
associated with the risk of fall in adults in the postoperative 
period: a cross-sectional study". Rev Lat Am Enfermagem, 
25:e2904. 
9. Milbrandt EB, Angus DC (2009). "Chapter 19. Critical Care". 
Hazzard's Geriatric Medicine and Gerontology, 340(9):669–676. 
10. Painter JA, Elliott SJ (2009). "Influence of Gender on Falls". 
Physical & Occupational Therapy In Geriatrics, 27(6):387-404. 
11. Remor CP, Cruz CB, Urbanetto JS (2014). "Analysis of fall risk 
factors in adults within the first 48 hours of hospitalization". Rev 
Gaucha Enferm, 35(4):28-34. 
12. Roman de Mettelinge T, Cambier D, Calders P, et al (2013). 
"Understanding the Relationship between Type 2 Diabetes 
Mellitus and Falls in Older Adults: A Prospective Cohort 
Study". PLoS One, 8(6):e67055 
13. Sarges NA, Santos M, Chaves EC (2017). "Evaluation of the 
safety of hospitalized older adults as for the risk of falls". Rev 
Bras Enferm, 70(4):860-867. 
14. Sibley KM, Voth J, Munce SE, et al. (2014). "Chronic disease and 
falls in community-dwelling Canadians over 65 years old: A 
population-based study exploring associations with number 
and pattern of chronic conditions". BMC Geriatr, 14:22 
15. Urbanetto de JS, Creutzberg M, Franz F, et al (2013). "Morse Fall 
Scale: translation and transcultural adaptation for the 
Portuguese language". Rev Esc Enferm USP, 47(3):569-75. 
16. Who (2007). "WHO Global Report on Falls Prevention in Older 
Age". Ageing and Life Course, Family and Community Health, pp.53. 
17. Woolcott JC, Richardson KJ, Wiens MO, et al (2009). "Meta-
analysis of the impact of 9 medication classes on falls in elderly 
persons". Arch Intern Med, 169(21):1952–60. 
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfnguy_co_te_nga_o_nguoi_benh_cao_tuoi_dieu_tri_noi_tru_va_cac.pdf