Nghiên cứu về mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển trong trường mầm non
Bài viết giới thiệu về mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển (bao
gồm các nhóm trẻ rối loạn phát triển trí tuệ, các rối loạn giao tiếp, rối loaṇ phổ tự
kỷ, rối loaṇ tăng đôṇ g giảm chú ý , v.v.) tại một trường mầm non trên địa bàn Hà
Nội. Các phương pháp phỏng vấn, điều tra bằng bảng hỏi đã được sử dụng trên
ban giám hiệu nhà trường, các giáo viên, phụ huynh và người quản lý lớp can
thiệp hòa nhập để tìm hiểu lịch sử hình thành, động cơ hình thành mô hình giáo
dục hòa nhập, đánh giá, phản hồi và đề xuất cho mô hình giáo dục hòa nhập. Kết
quả nghiên cứu cho thấy việc tổ chức lớp can thiệp trong trường mầm non cho trẻ
có rối loạn phát triển có những ưu điểm như sự tiện lợi, giảm thời gian và sự vất
vả do đưa đón, trẻ có sự thay đổi và tiến bộ nhất định. Tuy vậy mô hình cũng có
nhiều hạn chế và khó khăn, đặc biệt là về việc quản lý lớp và việc trao đổi thông
tin giữa các bên liên quan.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu về mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển trong trường mầm non
Nghiên cứu về mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển trong trường mầm non Lê Ánh Nguyệt, Dương Thị Hoài, Phạm Thị Huế, Bùi Thị Kim Xuân, Trần Văn Công Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội Tóm tắt: Bài viết giới thiệu về mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển (bao gồm các nhóm trẻ rối loạn phát triển trí tuệ, các rối loạn giao tiếp, rối loaṇ phổ tư ̣ kỷ, rối loaṇ tăng đôṇg giảm chú ý , v.v.) tại một trường mầm non trên địa bàn Hà Nội. Các phương pháp phỏng vấn, điều tra bằng bảng hỏi đã được sử dụng trên ban giám hiệu nhà trường, các giáo viên, phụ huynh và người quản lý lớp can thiệp hòa nhập để tìm hiểu lịch sử hình thành, động cơ hình thành mô hình giáo dục hòa nhập, đánh giá, phản hồi và đề xuất cho mô hình giáo dục hòa nhập. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tổ chức lớp can thiệp trong trường mầm non cho trẻ có rối loạn phát triển có những ưu điểm như sự tiện lợi, giảm thời gian và sự vất vả do đưa đón, trẻ có sự thay đổi và tiến bộ nhất định. Tuy vậy mô hình cũng có nhiều hạn chế và khó khăn, đặc biệt là về việc quản lý lớp và việc trao đổi thông tin giữa các bên liên quan. Từ khóa: mô hình giáo dục hòa nhập, giáo dục hòa nhập, can thiệp sớm, mầm non, rối loạn phát triển. 1. Đặt vấn đề Sự gia tăng số lượng trẻ rối loạn phát triển, điển hình là trẻ có rối loạn phổ tự kỷ và khuyết tật trí tuệ kéo theo những thách thức mới, trước hết với gia đình có trẻ rối loạn phát triển, sau đó là nhà trường, xã hội. Việc có con thuộc nhóm rối loạn phát triển đồng nghĩa với việc phụ huynh thêm những mối lo về việc cho con học ở trường nào, làm sao để tăng cường giờ can thiệp cá nhân cho con mà vẫn có giờ học hòa nhập cùng các trẻ khác. Làm sao để con vừa có môi trường hòa nhập tốt, vừa có nơi can thiệp tốt, vừa đảm bảo việc đưa đón thuận tiện, phù hợp với thời gian của phụ huynh, luôn là một thách thức. Giáo dục hòa nhập là xu thế chung của xã hội hiện nay. Trên thế giới, giáo dục hòa nhập đã đưa vào thành chính sách với tất cả các trẻ em, đến nay đã có 158 quốc gia thông qua Công ước Liên hợp quốc về Quyền của Người khuyết tật (CRPD 1) trong đó Điều 24 cam kết thực hiện hệ thống giáo dục hòa nhập cho tất cả mọi người. Các quan sát viên của ủy ban CRPD có trách nhiệm giám sát và báo cáo lại những sai phạm, sự phân biệt ở các quốc gia trong quá trình thực hiện Công ước Liên hợp quốc về quyền của Người khuyết tật. Cho đến nay nhiều quốc 1 gia như Canada, Anh, Phần Lan, Kenya, Lebanon, New Zealand, Thổ Nhĩ Kỳ, v.v. đều bắt đầu thực hiện các chính sách về giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật. Tại Mỹ, các bang khác nhau cũng thành lập những trung tâm về giáo dục hòa nhập cấp bang để đảm bảo chính sách và quyền lợi cho trẻ có nhu cầu đặc biệt. Tất cả các trẻ em bao gồm các trẻ có HIV/AIDS; trẻ khuyết tật, tàn tật, trẻ em mồ côi, v.v. đều có quyền nhận được sự hỗ trợ như nhau [5, tr. 7]. Ở Việt Nam năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cam kết với định hướng về giáo dục hòa nhập trên cả nước, đến năm 2006, Bộ đã thông qua Nghị định về giáo dục hòa nhập dành cho trẻ khuyết tật. Năm 2010, Luật về người khuyết tật được ban hành một lần nữa khẳng định cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc cung cấp cơ hội giáo dục cho toàn xã hội, theo đó khẳng định cung cấp giáo dục hòa nhập cho tất cả các trẻ em khuyết tật [8]. Tuy vậy, trên thực tế công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tât nói chung, trẻ rối loạn phát triển nói riêng vẫn là bài toán khó, cần thêm nhiều hỗ trợ từ nhà trường, cộng đồng và xã hội. Trên thế giới, lĩnh vực giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật nói chung và trẻ có rối loạn phát triển nói riêng đã được quan tâm và tìm hiểu từ lâu. Ví dụ các nghiên cứu về các chương trình, phương pháp, nội dung giảng dạy, các kỹ thuật hỗ trợ của các tác giả Stainback và Stainback (1996), tác giả Lipsky và Gartner (1997), Wagner (2002) [15], [12], [20]. Một số nghiên cứu khác đã đánh giá và xem xét các chính sách giáo dục hòa nhập như Sayed và Soudien (2005), Lambe (2007) [14], [10]. Nhóm tác giả Hoskin, Boyle và Anderson (2015) tìm hiểu về thái độ của giáo viên đối với giáo dục hòa nhập, cụ thể các tác giả đã tìm ra rằng thái độ của giáo viên đã được xác định là một yếu tố quan trọng đối với sự thành công của giáo dục hoà nhập [9]. Tại Việt Nam, giáo dục hòa nhập được nhắc đến trong nhiều nghiên cứu và các bài viết tại các hội thảo, ví dụ hội thảo về giáo dục hòa nhập – lý luận và thực tiễn tại hội thảo của Trường Cao đẳng Sư phạm TW TP.HCM tháng 4/2014 đã giới thiệu các mô hình cho trẻ đặc biệt, các biện pháp hỗ trợ trẻ hòa nhập, đi học tại trường tiểu học [22]. Việt Nam đã có một số nghiên cứu thống kê vĩ mô được thực hiện bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhu cầu giáo dục trẻ khuyết tật [3], [6]. Một số nghiên cứu khác, ví dụ như của các nhóm tác giả Nguyễn Xuân Hải, nhóm tác giả Nguyễn Văn Lê, đã tập trung vào thực trạng đào tạo hoặc nguồn nhân lực ... c 1,00 Kỹ năng tự phục vụ 1,14 Khả năng nói, thể hiện nhu cầu/mong muốn của bản thân 1,29 Hiểu và thực hiện yêu cầu 1,29 Bắt chước 1,33 Kỹ năng chơi 1,33 Giáo viên trong trường cũng đánh giá mức độ tiến bộ của trẻ sau khi được can thiệp, cụ thể: trẻ tiến bộ nhiều nhất về kỹ năng chơi, bắt chước, hiểu và thực hiện yêu cầu; nói và thể hiện nhu cầu của bản thân. Đây là những lĩnh vực quan sát thấy sự thay đổi khá rõ rệt trước và sau khi can thiệp, hơn nữa môi trường lớp học cũng là môi trường thuận lợi nhất để trẻ bộc lộ những tiến bộ của mình trong khi chơi với bạn, chơi đúng chức năng khi chơi xếp hình, ô tô; hay nghe - hiểu yêu cầu, đơn giản như ngồi ngế, cất đồ chơi, đi vệ sinh, lấy cho cô ba lô hoặc thể hiện mong muốn khi muốn đi vệ sinh, muốn chơi bóng. Các mặt tiến bộ ít hơn như vận động tinh, vận động thô hay ít nhất là tương tác xã hội đều là những mặt hạn chế trong khả năng và lĩnh vực phát triển của trẻ đòi hỏi quá trình can thiệp liên tục và lâu dài. Những đánh giá này phù hợp với quy trình can thiệp của lớp can thiệp hòa nhập bởi hầu hết các trẻ cần được can thiệp là những trẻ trong độ tuổi từ 3 – 4 tuổi, các kỹ năng cơ bản như bắt chước, tự phục vụ, nghe – hiểu và thực hiện yêu cầu còn khá thấp, điều này không chỉ cản trở trẻ trong sinh hoạt hàng ngày mà còn ảnh hưởng tới khả năng hòa nhập của trẻ. Quy trình can thiệp của mỗi trẻ cũng lấy những kỹ năng cụ thể và cơ bản trên làm tiền đề cho các kỹ năng đòi hỏi phối hợp cao hơn như vận động tinh, nhận thức, tương tác xã hội, v.v. Bên cạnh đó, những đánh giá trên cũng còn ảnh hưởng bởi môi trường và tình huống để trẻ có thể thể hiện những kỹ năng đã được can thiệp của mình. Đây cũng là một hạn chế trong thực hiện mô hình khi chưa có sự liên kết, phối hợp hiệu quả giữa giáo viên mầm non và giáo viên can thiệp. Đánh giá của giáo viên về ưu, nhược điểm của mô hình can thiệp hòa nhập đã và đang được tiến hành cho thấy: - Ưu điểm của mô hình: Trẻ được can thiệp có tiến bộ; trẻ được can thiệp kịp thời trong độ tuổi phát triển; việc đưa đón trẻ thuận lợi. Lớp can thiệp tại trường mầm non có lợi thế về việc thu thập thông tin về vấn đề của trẻ trong môi trường mầm non, trao đổi với giáo viên mầm non cũng thuận lợi hơn. Giáo viên can thiệp cũng có hỗ trợ được trẻ khá nhiều hoạt động trong trường của trẻ. - Nhược điểm của mô hình: Giáo viên mầm non thấy rằng giáo viên lớp can thiệp trao đổi với giáo viên chưa nhiều, điều này dẫn tới việc giáo viên mầm non không biết trẻ đang được can thiệp những gì và cho rằng mục tiêu can thiệp cho trẻ chưa rõ ràng, giáo viên mầm non không thể củng cố được cho trẻ trên lớp, chưa tạo được sự tin tưởng với giáo viên Mầm non và phụ huynh học sinh. Chương trình can thiệp cho trẻ cũng chưa có giờ can thiệp cho trẻ trên lớp mầm non (ví dụ như ít nhất 1h/tuần) để hỗ trợ trẻ trong môi trường lớp hòa nhập hay hỗ trợ giáo viên mầm non dạy trẻ. Về thời gian học của trẻ, do khó khăn trong việc sắp xếp giáo viên nên có trẻ phải học vào giờ ăn gây khó khăn cho sinh hoạt của lớp mầm non. Giáo viên mầm non đề xuất là nên có hỗ trợ tài chính cho giáo viên can thiệp cũng như giáo viên mầm non nên có trẻ rối loạn phát triển, nên tăng cường trao đổi thông tin giữa giáo viên can thiệp và giáo viên mầm non, tăng thời gian học và phối hợp cùng phụ huynh ở nhà cũng như giáo viên trên lớp của trẻ. 2.3.4. Đánh giá từ phía phụ huynh Quá trình thu thập thông tin từ một số phụ huynh có con đang học tại lớp can thiệp, nhóm nghiên cứu thu được các thông tin như sau: Về mức độ kỳ vọng của phụ huynh với các lĩnh vực phát triển của con: Khi lựa chọn mô hình can thiệp hòa nhập, tất cả các phụ huynh đều có những kỳ vọng nhất định vào sự tiến bộ của con. Nhóm nghiên cứu đã khảo sát để biết được mức độ kỳ vọng của các phụ huynh ở các lĩnh vực khác nhau. Kết quả cho thấy Điểm trung bình (ĐTB) = 2,63/3 (điểm tối đa là 3 – tức là Rất kỳ vọng). ĐTB từng lĩnh vực cụ thể dao động từ 2,5 đến 2,75. Điều này cho thấy các phụ huynh đều khá kỳ vọng vào sự phát triển của con ở tất cả các lĩnh vực. Về sự tiến bộ của trẻ sau thời gian can thiệp: Với thông tin thu được qua đánh giá phụ huynh cho thấy điểm trung bình sự tiến bộ của con là ĐTB = 2,1, tức là ở sát mức 2, tức là có Tiến bộ một chút. Trong số 10 lĩnh vực đưa ra khảo sát cho thấy nhóm các lĩnh vực tiến bộ gồm có: ngôn ngữ tiếp nhận, ngôn ngữ biểu đạt, bắt chước, vận động tinh và vận động thô. Nhóm các vấn đề ở mức có tiến bộ bao gồm lĩnh vực giao tiếp nói chung, kỹ năng chơi và ít tiến bộ nhất là lĩnh vực tương tác và nhận thức của trẻ. Đánh giá về chất lượng của mô hình lớp can thiệp: Kết quả khảo sát 7 khía cạnh khác nhau trong mô hình lớp can thiệp cho thấy: Bảng 2 - Đánh giá về mô hình lớp can thiệp từ phía phụ huynh (%) Mức độ Lĩnh vực Đánh giá Điểm trung bình Xếp hạng (từ tốt nhất đến kém nhất) C ò n rấ t y ếu C h ư a tố t T ạm ổ n T ố t R ất t ố t 1. Địa điểm: trong trường, tiện việc đưa đón và can thiệp hòa nhập 0 0 0 25 75 3,75 1 2. Cơ sở vật chất: đồ chơi, phòng học, trang thiết bị 0 0 0 50 50 3,50 2 3. Giáo viên can thiệp 0 0 25 25 50 3,25 2 4. Sự phố hợp giữa quản lý lớp, cán bộ can thiệp và phụ huynh 0 0 25 50 25 3,00 3 5. Chương trình can thiệp 0 0 50 25 25 2,75 4 6. Hoạt động can thiệp 0 0 50 25 25 2,75 4 7. Hiệu quả với sự phát triển của trẻ 0 0 50 25 25 2,75 4 Như vậy có thể thấy đánh giá của phụ huynh về mô hình can thiệp hòa nhập ở mức độ tạm ổn. Không có phương diện nào được đánh giá là chưa tốt. Lĩnh vực được đánh giá rất tốt là địa điểm thuận lợi. Tiếp đến là cơ sở vật chất và giáo viên can thiệp. Các lĩnh vực được đánh giá tạm ổn bao gồm: chương trình can thiệp, hoạt động can thiệp và hiệu quả đối với sự phát triển của trẻ. Về đề xuất của phụ huynh đối với mô hinh can thiệp hòa nhập: Những ý kiến, đề xuất của phụ huynh đều có liên quan đến sự tương tác, trao đổi giữa giáo viên can thiệp, giáo viên mầm non và phụ huynh, cụ thể là ―Giáo viên (tức cán bộ can thiệp) cần liên hệ trao đổi với phụ huynh rõ hơn. Người phụ trách quản lý phải nắm được tình hình của trẻ, đánh giá trẻ thực tế hơn.” hoặc “Tăng cường sự phố hợp giữa giáo viên can thiệp và giáo viên trường mầm non”. 2.3.5. Đánh giá từ phía cơ sở hợp tác đối với mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ có rối loạn phát triển trong trường mầm non Người quản lý trực tiếp của lớp can thiệp có một số ý kiến về thuận lợi và khó khăn của mô hình: Mặt thuận lợi, mô hình này có môi trường mầm non để giáo viên can thiệp có thể quan sát trẻ (bao gồm, quan sát lớp học, tương tác với bạn, các hoạt động trò chơi ở sân trường). Thứ hai, môi trường mầm non rộng rãi, thoáng mát, có nhiều đồ chơi, trò chơi có thể tổ chức hoạt động cho trẻ. Thứ ba, các bên tạo điều kiện để hỗ trợ tốt cho trẻ: gia đình phối hợp về giờ giấc đưa đón trẻ, nhà trường hỗ trợ về mặt cơ sở vật chất. Tuy vậy, có nhiều khó khăn như giờ can thiệp đôi khi còn phụ thuộc vào giờ làm việc tại lớp mầm non, thời gian dành cho trẻ để hướng dẫn các kỹ năng tự phục vụ - kỹ năng xã hội ít hơn do trẻ chỉ có thể học 1-2 giờ/ngày; tiếp đến là khó khăn trong việc phối hợp với giáo viên ở lớp mầm non; việc trao đổi với phụ huynh cũng gặp không ít khó khăn (vì không phải bao giờ cũng gặp được để trao đổi); thông tin nhận được nhiều chiều và phức tạp. 2.4. Đề xuất mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ có rối loạn phát triển trong trường mầm non Từ thực tiễn nghiên cứu, từ những thuận lợi và khó khăn/hạn chế của mô hình đang triển khai và những ý kiến thu thập được từ phía nhà trường, giáo viên, phụ huynh, cơ cở can thiệp, nhận thấy việc có một bộ phận hỗ trợ cho các trẻ có rối loạn trong trường mầm non là rất thiết thực và cấp bách. Một số đề xuất có thể rút ra từ nghiên cứu này như sau: - Quy trình can thiệp: gồm 7 bước cụ thể như đã được thảo luận ở mục 2.3.2. Chúng tôi cho rằng đây là mô hình tối ưu cho điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam hiện nay, nên được tiếp tục duy trì. - Mô hình giáo dục hòa nhập nên có sự hợp tác giữa trường mầm non và một cơ sở chuyên biệt nhằm đảm bảo hiệu quả giáo dục vừa hòa nhập lại vừa giúp đáp ứng nhu cầu riêng cho từng trẻ. - Cần có sự phối hợp giữa trường và cơ sở trong các lĩnh vực như cơ sở vật chất; liên kết giáo viên can thiệp với giáo viên mầm non; chương trình học, về hoạt động có thể hỗ trợ trẻ có rối loạn phát triển hòa nhập, về thời gian học, về môi trường, về chuyên môn,v.v. - Tổ chức lớp can thiệp theo các hình thức: can thiệp cá nhân, can thiệp nhóm, can thiệp hòa nhập, can thiệp tiền tiểu học tùy vào mức độ và vấn đề của trẻ. - Cơ cấu tổ chức: Gồm có người giám sát và định hướng chung, giám sát chuyên môn trực tiếp, trưởng nhóm can thiệp, giáo viên can thiệp trực tiếp và cần có những buổi chia sẻ chuyên môn nhằm thông báo và chia sẻ tình hình của trẻ để quá trình can thiệp được giám sát, khoa học, chuyên nghiệp và hiệu quả. - Tăng cường trao đổi trực tiếp với phụ huynh thông qua các kênh khác nhau như điện thoại, gặp mặt, email, các nhóm trên facebook, sổ liên lạc, v.v. - Tổ chức tập huấn cho phụ huynh về các chuyên đề cần thiết cho quá trình hỗ trợ con tại nhà của phụ huynh. 3. Kết luận Ý kiến của các bên liên quan trong mô hình giáo dục hòa nhập này đều cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng có một lớp can thiệp trong trường mầm non, bởi sự tiện lợi, giảm thời gian và sự vất vả do đưa đón, một số trẻ đã có thay đổi và tiến bộ khi được can thiệp sớm. Tuy vậy, mô hình này còn nhiều khó khăn, trong đó hai khó khăn chủ đạo là việc quản lý lớp và việc trao đổi thông tin giữa 3 bên: nhà trường (giáo viên lớp có trẻ gặp vấn đề), trung tâm chuyên biệt (gồm người quản lý và cán bộ can thiệp) và phụ huynh có con học lớp can thiệp. Dịch vụ can thiệp của lớp chưa có phần can thiệp cho trẻ ngay tại lớp học của trẻ. Việc liên kết giữa trường mầm non và cơ sở chuyên môn tạo thuận lợi cho việc hỗ trợ trẻ luôn có chuyên gia giám sát, đánh giá; đội ngũ giáo viên luôn được đào tạo, học hỏi nâng cao trình độ và đội ngũ giáo viên mầm non được hiểu và tiếp xúc với các hình thức can thiệp để hiểu vấn đề của trẻ hơn, có phương hướng đúng đắn giúp đỡ trẻ trong quá trình hòa nhập. Tuy vậy, trong bối cảnh trẻ có các rối loạn phát triển ngày càng phổ biến, các mô hình can thiệp và giáo dục chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của trẻ và gia đình, chính sách và sự hỗ trợ của nhà nước tuy có manh nha nhưng chưa đủ và chính gia đình trẻ có vấn đề phải tự chi phí và lo toan mọi thứ, việc có một lớp can thiệp trong trường mầm mon là một điểm mới, điểm sáng nên được khích lệ và nhân rộng. Chính vì thế, mô hình này rất cần được sự nhận định và quan tâm đúng mức của các cơ quan thẩm quyền nói chung và các bên trực tiếp thực hiện nói riêng. Mô hình này hướng tới sự hỗ trợ hòa nhập cho trẻ ở nhiều môi trường khác nhau, vì vậy rất cần có sự trao đổi thông tin và thống nhất phương thức làm việc giữa các giáo viên can thiệp, giáo viên mầm non, giám sát chuyên môn, trường mầm non và gia đình. Đồng thời, mô hình này cũng hướng tới nâng cao nhận thức của giáo viên và phụ huynh về mô hình giáo dục hòa nhập để họ thực sự là một thành phần và được tham dự đóng góp vào mô hình này và cũng là để tinh thần trách nhiệm, tính tương thân tương ái, vì tương lai trẻ em được phát huy một cách hiệu quả nhất. Tài liệu tham khảo 1. American Psychiatric Association, 2013. Diagnostic and statistical manual of mental disorders, 5 th Edition (DSM-5). American Psychiatric Pub, Page 31- 85. 2. Booth, T., Ainscow, M., & Kingston, D., 2006. Index for Inclusion: Developing Play, Learning and Participation in Early Years and Childcare. Centre for Studies on Inclusive Education. Redland, Frenchay Campus, Coldharbour Lane, Bristol BS16 1QU, UK. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006. Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở tiểu học, NXB Giáo dục; tr. 18 – 34. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo & UNESCO tại Việt Nam, 2014. Tài liệu hiệu chỉnh “Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên giáo dục hòa nhập” – Tài liệu 1 – Giới thiệu. 5. Nguyễn Xuân Hải, 2010. Giáo trình Quản lý giáo dục hòa nhập, NXB Đại học sư phạm. 6. Nguyễn Xuân Hải, 2008. Giáo dục hòa nhập – Góc nhìn từ kết quả một nghiên cứu đánh giá nhu cầu giáo dục của trẻ khuyết tật ở tỉnh Bắc Kạn, Tạp chí Khoa học – Trường ĐHSP Hà Nội, số 2, tr148-157. 7. Nguyễn Xuân Hải, Trần Thị Thiệp, Hoàng Thị Nho, 2014. Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên giáo dục hòa nhập ở Việt Nam. Tạp chí Giáo dục Số đặc biệt, tr7-10. 8. Lê Minh Hằng, 2013. Giáo dục hòa nhập – Cánh cửa rộng mở cho trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, Khóa luận tại trường Swarthmore College, Pennsylvania, Hoa Kỳ. 9. Hoskin, J., Boyle, C., & Anderson, J., 2015. Inclusive education in pre- schools: predictors of pre-service teacher attitudes in Australia. Teachers and Teaching, 1-16. 10. Lambe, J., 2007. Student teachers, special educational needs and inclusion education: reviewing the potential for problem‐based, e‐learning pedagogy to support practice. Journal of Education for Teaching, 33(3), 359-377. 11. Nguyễn Văn Lê và cộng sự, 2012. Báo cáo nghiên cứu về năng lực nguôn nhân lực cho can thiệp sớm giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. 12. Lipsky, D. K., & Gartner, A., 1997. Inclusion and School Reform: Transforming America's Classrooms. Paul H. Brookes Publishing Co., PO Box 10624, Baltimore, Maryland. 13. Hoàng Thị Nho, 2014. Tìm hiểu sự hỗ trợ của giáo viên với học sinh khiếm thị - Lớp 1 học hòa nhập, Tạp chí Giáo dục Số đặc biệt, tr84-85. 14. Sayed, Y., & Soudien, C., 2005. Decentralisation and the construction of inclusion education policy in South Africa. Compare: A Journal of Comparative and International Education, 35(2), 115-125. 15. Stainback, S. B. E., & Stainback, W. C., 1996. Inclusion: A guide for educators. Paul H Brookes Publishing. 16. Trần Thị Minh Thành, 2014. Hành vi có vấn đề và quản lý hành vi của học sinh kho skhawn về học trong lớp tiểu học hòa nhập. Tạp chí Giáo dục Số đặc biệt, tr20-22. 17. Trần Thị Thiệp, Bùi Thị Lâm, Hoàng Thị Nho, Trần Thị Minh Thành, 2006. Giáo trình Can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, NXB Giáo dục. 18. Nguyễn Trang Thu, 2014. Chiến lược hỗ trợ học tập cho học sinh khuyết tật trí tuệ trong môi trường hòa nhập, Tạp chí Giáo dục Số đặc biệt, tr41-44. 19. UNESCO, 2009. Policy guidelines on inclusion in education. 20. Wagner, S., 2002. Inclusive Programming for the Middle School Student with Autism/Asperger's Syndrome: Topics and Issues for Consideration by Teachers and Parents. Future Horizons. 21. Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2012. Giáo dục đặc biệt và những thuật ngữ cơ bản, NXB Đại học Sư phạm. 22. Trường Cao đẳng Sư pham TW TP.HCM, 2014. Kỷ yếu Giáo dục hòa nhập – lý luận và thực tiễn.
File đính kèm:
- nghien_cuu_ve_mo_hinh_giao_duc_hoa_nhap_cho_tre_roi_loan_pha.pdf