Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế

Đặt vấn đề: Thai to có ảnh hưởng lớn cho bà mẹ, trẻ sơ sinh và kết quả mang thai. Mục tiêu: Mô tả đặc

điểm lâm sàng và cận lâm sàng và kết quả xử trí các trường hợp thai to. Đối tượng và phương pháp nghiên

cứu: Gồm các sản phụ và trẻ sinh ra ≥ 3500 gram đối với con so và trên 4000 gram với thai lần hai trở lên tại

khoa Phụ Sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Thời điểm chọn bệnh vào nhóm nghiên cứu là sau khi

sinh có kết quả trẻ > 3500/4000 gram, sau đó theo dõi tiếp kết quả thai kỳ và hồi cứu lại các đặc điểm lâm

sàng, cận lâm sàng. Kết quả: Từ tháng 5/2019 đến tháng 4/2020 có 223 sản phụ sinh con có cân nặng ≥ 3500

gram. Cân nặng trung bình của nhóm thai to là 3869,96 ± 315,72(g). Trẻ ≥ 4000 g ramthì tỷ lệ mổ lấy thai là

91,5%, sinh đường âm đạo là 8,5%. Trẻ từ 3500 - < 4000 g thì tỷ lệ mổ lấy thai là 76%, sinh đường âm đạo là

24%. Có 1 trường hợp rách tầng sinh môn phức tạp chiếm 1,1% trong nhóm ≥ 4000 (g). Kết luận: Các yếu tố

liên quan đến thai to: Tuổi mẹ, giới tính thai, số lần sinh, tiền sử sinh con to, chiều cao của mẹ, tăng cân thai

kì. Mổ lấy thai chiếm đa số.

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 1

Trang 1

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 2

Trang 2

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 3

Trang 3

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 4

Trang 4

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 5

Trang 5

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 6

Trang 6

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 10660
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường hợp sinh thai to tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y dược Huế
78
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí các trường 
hợp sinh thai to tại Khoa sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
 Trương Thị Linh Giang , Mai Văn Quảng
 Bộ môn Phụ sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm Tắt:
Đặt vấn đề: Thai to có ảnh hưởng lớn cho bà mẹ, trẻ sơ sinh và kết quả mang thai. Mục tiêu: Mô tả đặc 
điểm lâm sàng và cận lâm sàng và kết quả xử trí các trường hợp thai to. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Gồm các sản phụ và trẻ sinh ra ≥ 3500 gram đối với con so và trên 4000 gram với thai lần hai trở lên tại 
khoa Phụ Sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Thời điểm chọn bệnh vào nhóm nghiên cứu là sau khi 
sinh có kết quả trẻ > 3500/4000 gram, sau đó theo dõi tiếp kết quả thai kỳ và hồi cứu lại các đặc điểm lâm 
sàng, cận lâm sàng. Kết quả: Từ tháng 5/2019 đến tháng 4/2020 có 223 sản phụ sinh con có cân nặng ≥ 3500 
gram. Cân nặng trung bình của nhóm thai to là 3869,96 ± 315,72(g). Trẻ ≥ 4000 g ramthì tỷ lệ mổ lấy thai là 
91,5%, sinh đường âm đạo là 8,5%. Trẻ từ 3500 - < 4000 g thì tỷ lệ mổ lấy thai là 76%, sinh đường âm đạo là 
24%. Có 1 trường hợp rách tầng sinh môn phức tạp chiếm 1,1% trong nhóm ≥ 4000 (g). Kết luận: Các yếu tố 
liên quan đến thai to: Tuổi mẹ, giới tính thai, số lần sinh, tiền sử sinh con to, chiều cao của mẹ, tăng cân thai 
kì. Mổ lấy thai chiếm đa số. 
Từ khóa: Thai to, đái tháo đường thai kì, sinh thường, mổ lấy thai.
Abstract
Clinical and subclinical characterictis and pregnancy outcome of fetal 
macrosomia at Obstetric Department at Hue University of Medicine 
and Pharmacy Hospital
 Truong Thi Linh Giang, Mai Van Quang 
Ob/Gyn Department, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Fetal macrosomia has a major influence on maternal, neonatal and pregnancy outcomes.Ob-
jective: To describe the clinical and subclinical features and the management of fetal macrosomia on pregnancy 
outcomes. Subjects and methods: Study subjects including pregnant women and babies born ≥ 3500 g with 
nulliparous and over 4000 grams with primiparous or multiparous at Departement of Obstetrics and Gy-
necology in Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital. The time of choosing subjects to enter the 
research group is that after birth, the weight is above 3500/4000 grams, then follow up the pregnancy result 
and retrospect the clinical and subclinical characteristics. Results: From May 2019 to April 2020, there were 
223 pregnant women with the birth weight ≥ 3500 g in this study. The mean neonatal weight for macroso-
mia was 3869.96 ± 315.72 (g). The birth weight ≥ 4000 g, the rate of cesarean section was 91.5%, vaginal 
birth was 8.5%. The birth weight 3500 - under 4000 g, the rate of cesarean section was 76%, vaginal birth 
was 24%. 1.1% maternal complications was perineal tear. Conclusion:Factors related to fetal macrosomia: 
Maternal age, gender of fetus, parity, a history of fetal macrosomia, maternal height, pregnancy weight gain. 
Caesarean section is the majority.
Key words: Fetal macrosomia, gestational diabetes mellitus, normal labor, caesarean section.
Từ viết tắt: BMI: body mass index, GDM: gestional diabetes mellitus
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai to được định nghĩa dựa vào trọng lượng 
trẻ sơ sinh trên đường bách phân vị 90 theo biểu 
đồ phát triển cân nặng thai nhi hoặc trên 4000 g (ở 
Châu Âu), còn Việt Nam với con so là ≥ 3500 g, với 
con rạ là trên 4000 g. Tỷ lệ thai to có sự khác biệt giữa 
các nước trên thế giới. Tỷ lệ thai to các nước châu 
Âu như Pháp năm 2017 là 7,95% [22], còn ở châu Phi 
năm 2018 thì tỷ lệ thai to ≥ 4000 g là 8,0% [10], các 
quốc gia châu Á như Trung Quốc, tỷ lệ thai to khoảng 
Địa chỉ liên hệ: Trương Thị Linh Giang, email: ttlgiang@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2020.5.11
Ngày nhận bài: 21/5/2020; Ngày đồng ý đăng: 5/10/2020
79
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
11,24% (2015) [11], còn ở Việt Nam, năm 2017, theo 
nghiên cứu ở Bệnh viện Trung ương Huế trẻ sơ sinh 
có trọng lượng ≥ 4000 gram chiếm tỷ lệ 5,7% [2]. 
Thai to làm tăng nguy cơ trong chuyển dạ và ảnh 
hưởng đến lựa chọn phương pháp sinh vì thường 
gây chuyển dạ kéo dài, đẻ khó do vai, chảy máu sau 
sinh, sang chấn cho mẹ. Thai to còn gây nguy hiểm 
với thai nhi, trẻ sơ sinh gây ra các tình trạng như: 
chỉ số Appgar thấp, gãy xương đòn, xương cánh tay, 
hạ đường huyết, suy hô hấp, nhiễm trùng sơ sinh. 
Hơn nữa, trẻ sơ sinh có cân nặng vượt mức bình 
thường có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường týp 2, 
tăng huyết áp và béo phì ở tuổi trưởng thành [13]. 
Bên cạnh đó, còn các yếu tố liên quan đến thai to 
như: đái tháo đường, tiền sử sinh con to, béo phì, 
mẹ tăng cân quá mức trong khi mang thai đã được 
chỉ ra trong nhiều nghiên cứu [2], [3], [21]. Xuất phát 
từ tình hình thực tế và tầm quan trọng của vấn đề 
này, với mục tiêu tìm hiểu các yếu tố liên quan đến 
th ...  trẻ 
sơ sinh thừa cân là 3818 ± 243,1 g [3]. Về tuổi mẹ, 
độ tuổi trung bình sinh thai to là 27,46 ± 5,4 tuổi 
phù hợp với độ tuổi sinh đẻ chủ yếu của phụ nữ Việt 
Nam. Theo nghiên cứu ở Bệnh viện Trung ương Huế 
tuổi các bà mẹ sinh con thai to từ 31- 40 tuổi chiếm 
30,2% [2]. Một nghiên cứu của Thổ Nhĩ Kì nhận thấy 
mẹ trên 30 tuổi có nguy cơ sinh con to gấp 1,49 lần 
[18]. Như vậy tuổi mẹ là một yếu tố nguy cơ của thai 
to. Về trình độ học vấn: nhóm bà mẹ có trình độ học 
vấn cao đẳng và đại học chiếm tỷ lệ là 34,1% phù 
hợp với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phụng 
Vân là 41,9% [7] và tác giả Đoàn Thị Thu Trang là 
39,7% [6]. Theo nghiên cứu của tác giả Mengesha 
H.G nhận thấy mẹ có trình độ đại học và cao đẳng 
nguy cơ thai to tăng gấp 1,54 lần so với những bà 
mẹ có trình độ học vấn trung học cơ sở, OR=1,54 
[12]. Như vậy, trình độ càng cao ảnh hưởng đến sự 
tăng tỷ lệ sinh con to. Về nơi cư trú: có 34,9% bà mẹ 
cư trú ở thành thị, 65,1% bà mẹ cư trú ở nông thôn. 
Trong khi theo kết quả của tác giả Hà Thị Thanh 
Nga 58,1% các bà mẹ mang thai to đến từ thành 
thị còn 41,9% bà mẹ đến từ nông thôn [3]. Tác giả 
Mengesha H.G cũng nhận thấy rằng số bà mẹ mang 
thai con to đến từ thành thị chiếm tỷ lệ 70,1%, từ 
nông thôn là 29,9% [12]. Sự khác biệt có thể do mẫu 
nghiên cứu của chúng tôi chưa nhiều hoặc điều kiện 
sống ở nông thôn đang dần tốt lên. Về nghề nghiệp 
của mẹ: nhóm bà mẹ là cán bộ, nhân viên chiếm tỷ 
lệ cao nhất 28,7%, tương tự nghiên cứu của tác giả 
82
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
Phan Thị Minh Thư [5], cán bộ, viên chức chiếm tỷ 
lệ cao nhất 34,9%. Điều này có thể lý giải là do công 
việc ổn định, nguồn thu nhập cao, công việc thường 
ít vận động nhiều.
4.2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của các 
trường hợp sinh thai to
Bề cao tử cung trung bình của các bà mẹ sinh 
con to là 33,34 ± 2,49 cm. Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Phụng Vân với bề cao 
tử cung trung bình là 33,33 cm [7] và nghiên cứu 
của tác giả Phan Thị Minh Thư với bề cao trung bình 
là 33,1 ± 2, 2 cm [5]. Ở nhóm thai to, vòng bụng 
trung bình là 103,59 ± 9,70 cm. Kết quả này cũng 
tương đồng với nghiên cứu của tác giả Hà Thị Thanh 
Nga là 102,5 cm và tác giả Nguyễn Thị Phụng Vân 
với vòng bụng trung bình là 100 ± 5,87 cm [3], [7]. 
Tỉ lệ sản phụ có tiền sử sinh con to chiếm 43,9%, 
tương tự kết quả nghiên cứu của Jasim có 34 bà mẹ 
có tiền sử sinh con to chiếm tỷ lệ 49,7% [18]. Tác 
giả Jasim và cộng sự (2018) thì nguy cơ sinh con to 
ở bà mẹ có tiền sử sinh con to gấp 18,3 lần so với 
bà mẹ không có tiền sử sinh con to [9]. Các kết quả 
đều nhận thấy rằng nguy cơ sinh con to ở bà mẹ có 
tiền sử sinh con to là khá cao. Tuổi thai trung bình 
của các sản phụ là 39,39 ± 0,938 tuần. Kết quả này 
tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Phụng 
Vân, Richardson C. (2014) [7], [16]. Về giới tính, có 
139 trẻ nam, chiếm tỷ lệ là 62,3% và có 84 trẻ nữ 
chiếm tỷ lệ là 37,7%. Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu của tác giả Usta với tỉ lệ trẻ trai là 65,6% 
và trẻ gái là 34,4% [18]. Tác giả Vinturache cũng cho 
kết quả tương đồng với trẻ nam: 59,1% và trẻ nữ: 
40,9% [19]. Như vậy, giới tính nam làm tăng nguy cơ 
sinh to. Chiều cao trung bình của các bà mẹ sinh con 
to là 153,36 cm, tương tự kết quả nghiên cứu của Hà 
Thị Thanh Nga chiều cao trung bình của sản phụ có 
thai to là 156,21 ± 5,56 cm [3]. Tác giả Li.Y cũng nhận 
thấy chiều cao trung bình của nhóm bà mẹ sinh thai 
to là 162,03 ± 4,13 cm, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,012). Như vậy, chiều cao của bà mẹ có mối 
liên quan với trọng lượng của trẻ. BMI của mẹ trước 
khi mang thai từ 18,5 - < 23 kg/m2 chiếm tỷ lệ cao 
nhất 69,5%. BMI ≥ 23 kg/m2 có tỷ lệ là 26%. Kết quả 
này tương tự như nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Thị Phụng Vân (BMI ≥ 23 kg/m2: 22,5%) và Hà Thị 
Thanh Nga (BMI ≥ 23 kg/m2: 20,5%) [3], [7]. Nghiên 
cứu của tác giả Wang N ở Trung Quốc cũng nhận 
thấy chỉ số BMI trước khi mang thai ở mức thừa cân 
và béo phì là 23,8% [20]. Tác giả Yang W và cộng sự 
cũng ghi nhận những bà mẹ thừa cân và béo phì 
trước mang thai làm tăng tỷ lệ thai to lên 2,29 lần 
[21]. Như vậy, BMI trước khi mang thai cũng ảnh 
hưởng tới sự phát triển của thai. Những bà mẹ tăng 
≥ 13 kg chiếm tỷ lệ cao nhất 63,2%, những bà mẹ 
tăng < 10 kg chiếm tỷ lệ thấp nhất 26,5%, những bà 
mẹ tăng cân đúng chuẩn chiếm 26,5%. Kết quả này 
tương đồng với nghiên cứu của Hà Thị Thanh Nga 
[3]. Tác giả Wang N cũng thừa nhận định tăng cân 
quá mức trong thai kì làm tăng nguy có thai to OR= 
2,884 [20]. Theo kết quả nghiên cứu, có 9 trường 
hợp bà mẹ có đái tháo đường thai kì chiếm tỷ lệ là 
4%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả 
Hà Thị Thanh Nga [3]. Một nghiên cứu ở Thuỵ Điển 
cũng nhận thấy kết quả tương tự với tỷ lệ thai to có 
bà mẹ đái tháo đường thai kì là 4,2% [17]. Vì vậy, cần 
phát hiện sớm đái tháo đường thai kì bằng cách làm 
test dung nạp đường từ tuần lễ 24 - 28 của thai kỳ 
và dựa vào các yếu tố nguy cơ như béo phì, tiền sử 
gia đình. Theo nghiên cứu của chúng tôi, cân nặng 
thai nhi ước lượng trước sinh bằng siêu âm có cân 
nặng trung bình là 3728,98 ± 348,6 g thấp hơn so 
với cân nặng thực tế khi sinh ra là 3869,96 ± 315,72 
g. Sai số trung bình là 295,21 ± 130,6(g). Tác giả Lê 
Lam Hương nhận định sự sai lệch giữa trọng lượng 
trẻ sơ sinh sau sinh với trọng lượng thai nhi ước tính 
qua siêu âm là ± 204,4 g [1], còn tác giả Phan Thị 
Minh Thư nhận thấy sai số trung bình là 229 ± 108g 
[5]. Mặc dù siêu âm thai nhi cho biết nhiều thông 
tin hữu ích nhưng không dựa vào siêu âm mà chẩn 
đoán thai to mà phải có sự kết hợp giữa lâm sàng và 
cận lâm sàng.
4.3. Thái độ xử trí của các trường hợp sinh thai to
Theo nghiên cứu của chúng tôi, trẻ ≥ 4000 g có tỷ 
lệ mổ lấy thai là 91,5%, sinh đường âm đạo là 8,5%. 
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của tác giả 
Hà Thị Thanh Nga (mổ lấy thai: 69,4%, sinh đường 
dưới: 30,6%) [3] và tác giả Đoàn Thị Thu Trang (mổ 
lấy thai: 71,5%, sinh đường dưới: 28,5%) [6]. Theo 
tác giả David Beleg thì tỷ lệ mổ lấy thai ở nhóm sơ 
sinh thừa cân là 47,9%, trong đó nhóm trẻ < 4000 g 
thì tỷ lệ mổ lấy thai là 9,3% [15]. Tỷ lệ mổ lấy thai ở 
nghiên cứu của chúng tôi lớn hơn nghiên cứu nước 
ngoài là do hạn chế về chiều cao và cân nặng trung 
bình của phụ nữ Việt Nam và tiền sử sản khoa trước 
đó. Về tình trạng trẻ sau sinh, tỷ lệ trẻ sau sinh có 
điểm số Apgar phút thứ nhất < 7 điểm ở nhóm 3500 
– < 4000 g và nhóm ≥ 4000 g lần lượt là 0,7% và 1,1% 
còn tỷ lệ trẻ sau sinh có điểm số Apgar phút thứ năm 
< 7 điểm ở nhóm 3500 – < 4000 g và nhóm ≥ 4000 g 
lần lượt là 0% và 1,1%.
Theo tác giả Osaikhuwuomwan thì tỷ lệ trẻ sơ 
sinh thừa cân chỉ số Apgar < 7 ở phút thứ nhất là 
10,4% [14], còn tác giả Ezegwui H.U thì tỷ lệ Apgar < 
7 điểm ở phút thứ nhất và phút thứ năm lần lượt là 
6,8% và 4,8% [8]. Sự khác biệt có thể do nước ngoài 
có tỷ lệ sinh đường âm đạo cao hơn. Biến chứng về 
83
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
phía mẹ: Có 1 trường hợp rách tầng sinh môn phức 
tạp chiếm 1,1% trong nhóm ≥ 4000 g. Không ghi 
nhận các trường hợp băng huyết sau sinh và nhiễm 
trùng hậu sản. Tác giả Hà Thị Thanh Nga có kết quả 
2 trường hợp chảy máu sau sinh (1,4%) và 4 trường 
hợp rách tầng sinh môn phức tạp (5,8%) [3], tác giả 
Bùi Thọ Ơn nhận thấy có 18 trường hợp chảy máu 
sau sinh gặp ở trẻ > 3500 g, chiếm 20,6% các trường 
hợp chảy máu [4]. Một nghiên cứu khác ở Irac cho 
thấy tỷ lệ rách tầng sinh môn phức tạp ở nhóm thai 
to là 3,5% nguy cơ rách tầng sinh môn phức tạp gấp 
7,7 lần (p < 0,01) [9]. Những tai biến ở nghiên cứu 
của chúng tôi thấp hơn các nghiên cứu khác có thể 
vì sự theo dõi tốt quá trình chuyển dạ và tiên lượng 
được cuộc đẻ. Biến chứng về phía con: Trong nhóm 
trẻ có trọng lượng ≥ 4000 g, có 3 trường hợp hạ 
đường huyết chiếm tỷ lệ 3,2%, 1 trường hợp suy hô 
hấp, 1 trường hợp vàng da và nhiễm trùng sơ sinh 
chiếm tỷ lệ 1,1%. Trong nhóm trẻ có trọng lượng 
3500 - < 4000 g, ghi nhận 1 trẻ có vàng da chiếm 
tỷ lệ 0,7%. Tác giả Hà Thị Thanh Nga nhận thấy có 4 
trường hợp hạ đường huyết (1,7%), 2 trường hợp 
suy hô hấp 0,9%, 3 trường hợp nhiễm trùng sơ sinh 
sớm (1,3%) và 2 trường hợp vàng da (0,9%) [3]. Theo 
tác giả Babatunde thì các biến chứng suy hô hấp 
(18,5%), hạ đường huyết (22,2%), vàng da (20,4%), 
ngạt (10,2%) và nhiễm trùng sơ sinh (11,4%) [10].
5. KẾT LUẬN
Trọng lượng trẻ sơ sinh thừa cân trung bình là 
3869,96 ± 315,72 g. Bề cao tử cung trung bình của 
sản phụ sinh con to là 33,34 ± 2,49 (cm). Vòng bụng 
trung bình của sản phụ sinh con to là 103,59 ± 9,70 
(cm). Tỷ lệ đái tháo đường thai kì là 4%. Các yếu 
tố liên quan đến thai to: giới tính thai, số lần sinh, 
chiều cao của mẹ, tăng cân trong thai kì. Phương 
pháp sinh: Trẻ ≥ 4000 g thì tỷ lệ mổ lấy thai là 91,5%, 
sinh đường âm đạo là 8,5%. Trẻ từ 3500- < 4000 g thì 
tỷ lệ mổ lấy thai là 76%, sinh đường âm đạo là 24%. 
Biến chứng mẹ gồm: 1 trường hợp rách tầng sinh 
môn phức tạp (1,1%), không ghi nhận băng huyết 
sau sinh và nhiễm trùng hậu sản. Biến chứng về phía 
con: Trong nhóm trẻ có trọng lượng ≥ 4000 g thì có 
3 trường hợp hạ đường huyết chiếm tỷ lệ 3,2%, 1 
trường hợp suy hô hấp,1 trường hợp vàng da và 
nhiễm trùng sơ sinh chiếm tỷ lệ 1,1%. Trong nhóm 
trẻ có trọng lượng 3500 - < 4000 g chỉ ghi nhận 1 trẻ 
có vàng da chiếm tỷ lệ 0,7%.
6. KIẾN NGHỊ
Tăng cường quản lý thai nghén, khám thai định 
kì để phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ thai to để có 
biện pháp dự phòng và điều trị thích hợp. Làm xét 
nghiệm glucose máu sàng lọc cho sản phụ từ 24-28 
tuần tuổi thai. Những sản phụ được chẩn đoán thai 
to cần được chăm sóc tốt trong quá trình sinh, xử trí 
tích cực giai đoạn III nhằm dự phòng biến chứng cho 
mẹ và trẻ sơ sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Thanh Hà (2013), “Nghiên cứu giá trị dự 
đoán trọng lượng thai và một số đặc điểm bánh rau của 
thai đủ tháng qua lâm sàng và siêu âm”, Luận văn thạc sỹ 
y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Trần Thị Hoàn và Hoàng Thị Liên Châu (2017), 
“Nghiên cứu tình hình trẻ sơ sinh thừa cân tại khoa phụ 
sản Bệnh viện Trung ương Huế”, Tạp chí Phụ sản, 15(3), 
pp.114-118.
3. Hà Thị Thanh Nga (2018), “Ngiên cứu một số liên 
quan và kết quả xử trí thai to”, Luận văn Thạc sỹ y học, 
Trường Đại học Y Dược Huế.
4. Bùi Thọ Ơn (2017), “Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm, 
sàng và kết quả xử trí chảy máu sớm sau sinh tại bệnh viện 
tỉnh Dắk Lăk”, Luận văn chuyên khoa cấp II, Trường Đại 
học Y Dược Huế.
5. Phan Thị Minh Thư (2016), “Nghiên cứu kết quả 
chuyển dạ ở sản phụ có thai to tại khoa Phụ Sản Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế”, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ 
đa khoa, Trường Đại học Y Dược Huế.
6. Đoàn Thị Thu Trang (2017), “Nghiên cứu tỷ lệ, đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đường huyết sau sinh ở 
trẻ sơ sinh trọng lượng cao tại bệnh viện trường Đại học 
Y Dược Huế”, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ đa khoa, Trường 
Đại học Y Dược Huế.
7. Nguyễn Thị Phụng Vân (2017), “Nghiên cứu một 
số yếu tố liên quan và kết quả thai kì ở những thai phụ 
có thai to tại khoa Sản bệnh viện trường Đại học Y Dược 
Huế”, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ đa khoa, Trường Đại học 
Y Dược Huế.
8. Ezegwui H., Ikeako L. , Egbuji C. (2011), “Fetal 
macrosomia: obstetric outcome of 311 cases in UNTH, 
Enugu, Nigeria”, Nigerian journal of clinical practice, 
14(3), pp.322-326.
9. Jasim S. K., Al-Momen H., Majeed B. A. , Hussein M. 
84
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
J. (2018), “Rate of Fetal Macrosomia with Maternal and 
Early Neonatal Complications in Internally Moved People 
Affected by Violence”, International Journal of Medical 
Research & Health Sciences, 7(7),pp.141-146.
10. Kayode-Adedeji B., Egharevba O. , Omoregbee H. 
(2018), “Prevalence of fetal macrosomia and neonatal 
complications in a Nigerian suburban hospital: a five year 
study”, Journal of Pediatric and Neonatal Individualized 
Medicine (JPNIM), 7(1), pp.111-115.
11. Li Y., Liu Q.-F., Zhang D., Shen Y., Ye K., Lai H.-L., 
Wang H.-Q., Hu C.-L., Zhao Q.-H. , Li L. (2015), “Weight gain 
in pregnancy, maternal age and gestational age in relation 
to fetal macrosomia”, Clinical nutrition research, 4(2), 
pp.104-109.
12. Mengesha H. G., Wuneh A. D., Weldearegawi 
B., Selvakumar D. L. (2017), “Low birth weight and 
macrosomia in Tigray, Northern Ethiopia: who are the 
mothers at risk?”, BMC pediatrics, 17(1), pp.144-153.
13. Mohammadbeigi A., Farhadifar F., Soufizadeh 
N., Mohammadsalehi N., Rezaiee M. , Aghaei M. (2013), 
“Fetal macrosomia: risk factors, maternal, and perinatal 
outcome”, Annals of medical and health sciences research, 
3(3), pp.546-550.
14. Osaikhuwuomwan J., Osemwenkha A. , Orukpe G. 
(2016), “Macrosomic births in a tertiary public hospital: 
A survey of maternal characteristics and fetal outcome”, 
Ethiopian journal of health sciences, 26(1), pp.31-36.
15. Peleg D., Warsof S., Wolf M. F., Perlitz Y. , Shachar I. 
B. (2015), “Counseling for fetal macrosomia: an estimated 
fetal weight of 4,000 g is excessively low”, American 
journal of perinatology, 32(01),pp.71-74.
16. Richardson C. , Trotman H. (2014), “Risk factors 
for the delivery of macrosomic infants at the University 
Hospital of the West Indies”, American journal of 
perinatology, 31(11), pp.927-932.
17. Turkmen S., Johansson S. , Dahmoun M. (2018), 
“Foetal macrosomia and foetal-maternal outcomes at 
birth”, Journal of pregnancy, 121(2), pp.112-122.
18. Usta A., Usta C. S., Yildiz A., Ozcaglayan R., Dalkiran 
E. S., Savkli A. , Taskiran M. (2017), “Frequency of fetal 
macrosomia and the associated risk factors in pregnancies 
without gestational diabetes mellitus”, The Pan African 
Medical Journal, 26, pp.1-8.
19. Vinturache A. E., Chaput K. H. , Tough S. C. (2017), 
“Pre-pregnancy body mass index (BMI) and macrosomia 
in a Canadian birth cohort”, The Journal of Maternal-Fetal 
& Neonatal Medicine, 30(1),pp.109-116.
20. Wang N., Ding Y. , Wu J. (2018), “Effects of pre-
pregnancy body mass index and gestational weight gain 
on neonatal birth weight in women with gestational 
diabetes mellitus”, Early human development, 124(1), 
pp.17-21.
21. Yang W., Liu J., Li J., Liu J., Liu H., Wang Y., Leng J., 
Wang S., Chen H. , Chan J. C. (2019), “Interactive effects 
of prepregnancy overweight and gestational diabetes on 
macrosomia and large for gestational age: A population-
based prospective cohort in Tianjin, China”, Diabetes 
research and clinical practice, 154, pp.82-89.
22. Yao I. N. g., Bohoussou P. E. K., Menin M. M., 
Gianola G., Bazan E. , Dirix P. (2017), “Macrosomia at 
the Center Hospital of Montelimar (France): 141 Cases 
Report”, Open Journal of Obstetrics and Gynecology, 7(9), 
pp.966-972.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_thai_do_xu_tri.pdf