Nghiên cứu chỉ số osta trong đánh giá nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh từ 40 tuổi trở lên
Chỉ số OSTA (Osteoporosis Self-Assessment Tool for Asians) là một công cụ dự báo
nguy cơ loãng xương đơn giản có ý nghĩa lâm sàng với độ nhạy và độ đặc hiệu đã được
sử dụng ở nhiều nước. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 406 phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh
từ 40 tuổi trở lên từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 09 năm 2015; được đo mật độ xương
theo phương pháp DEXA. Kết quả cho thấy chỉ số OSTA < -3 tức có nguy cơ loãng xương
cao: 11,6% (93,6% số phụ nữ này bị loãng xương), chỉ số OSTA -3 ≤ OSTA ≤ 0 tức có nguy
cơ loãng xương trung bình: 62,3% (43,9% số phụ nữ này bị loãng xương), chỉ số OSTA > 0
tương đương với nguy cơ loãng xương thấp: 26,1% (92,4 % số phụ nữ này không loãng
xương. Chỉ số OSTA có độ nhạy: 95,1%, độ đặc hiệu: 40,3%, AUC (diện tích dưới đường
cong): 0,811. Trên cơ sở trên, chỉ số nguy cơ cao đối với phụ nữ mãn kinh miền Bắc Việt
Nam trên bảng đánh giá chỉ số OSTA cần được dịch chuyển ở cột tuổi: tuổi có nguy cơ cao
từ 65 – 69 (tuổi) thành 60 – 64 (tuổi).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu chỉ số osta trong đánh giá nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh từ 40 tuổi trở lên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 16 - tháng 4/201636 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Loãng xương sau mãn kinh là vấn đề ngày càng được quan tâm do ước tính ảnh hưởng đến 200 triệu người trên toàn thế giới, hơn 75 triệu người ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản và ngày càng gia tăng khi tuổi thọ ngày càng cao [1]. Đây là bệnh lý toàn thể của khung xương đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương, tổn thương vi cấu trúc xương và tăng nguy cơ gãy xương xảy ra ở phụ nữ mãn kinh [2], [3]. Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ từ 50 đến 84 tuổi ở các quốc gia Đức, Pháp, Ý, Tây ban Nha, Anh là 21% [4]. Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh Hà Nội năm 2002 là 36,2% [5]. Với biến chứng thường gặp là gãy xương, loãng xương làm giảm chất lượng cuộc sống, gia tăng tỷ lệ tử vong và chi phí điều trị tốn kém: ở Châu Âu là 30,7 tỷ EU [6], ở Mỹ là 13,7 đến 20,3 tỷ USD, ở Anh là 1,8 tỷ Pounds [7]. Chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn WHO dựa vào đo mật độ xương bằng máy DEXA (Dual energy X ray absorptiometry) sử dụng tia X hấp thu nặng lượng kép [8]. Mặc dù đây là tiêu chuẩn vàng song việc đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA còn chưa được phổ biến ở nhiều khu vực thuộc các nước đang phát triển, trong đó có Việt NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ OSTA TRONG ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ LOÃNG XƯƠNG Ở PHỤ NỮ MÃN KINH TỪ 40 TUỔI TRỞ LÊN Nguyễn Thị Ngọc Lan*, Nguyễn Ngọc Bích*, Đào Xuân Thành* *Trường Đại Học Y Hà Nội TÓM TẮT Chỉ số OSTA (Osteoporosis Self-Assessment Tool for Asians) là một công cụ dự báo nguy cơ loãng xương đơn giản có ý nghĩa lâm sàng với độ nhạy và độ đặc hiệu đã được sử dụng ở nhiều nước. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 406 phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh từ 40 tuổi trở lên từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 09 năm 2015; được đo mật độ xương theo phương pháp DEXA. Kết quả cho thấy chỉ số OSTA < -3 tức có nguy cơ loãng xương cao: 11,6% (93,6% số phụ nữ này bị loãng xương), chỉ số OSTA -3 ≤ OSTA ≤ 0 tức có nguy cơ loãng xương trung bình: 62,3% (43,9% số phụ nữ này bị loãng xương), chỉ số OSTA > 0 tương đương với nguy cơ loãng xương thấp: 26,1% (92,4 % số phụ nữ này không loãng xương. Chỉ số OSTA có độ nhạy: 95,1%, độ đặc hiệu: 40,3%, AUC (diện tích dưới đường cong): 0,811. Trên cơ sở trên, chỉ số nguy cơ cao đối với phụ nữ mãn kinh miền Bắc Việt Nam trên bảng đánh giá chỉ số OSTA cần được dịch chuyển ở cột tuổi: tuổi có nguy cơ cao từ 65 – 69 (tuổi) thành 60 – 64 (tuổi). Từ khóa: Loãng xương, loãng xương sau mãn kinh, OSTA. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 16 - tháng 4/2016 Nội khoa Việt Nam 37 Nam, do chi phí cao và thiếu trang thiết bị. Do vậy, việc đưa ra một công cụ có thể dự báo nguy cơ loãng xương chính xác, đơn giản và giá cả phù hợp nhằm quyết định điều trị loãng xương kịp thời là vô cùng cần thiết. Với ý tưởng đó, năm 2001, Koh và cộng sự đã xây dựng được một công cụ dành cho phụ nữ mãn kinh châu Á. Đó là chỉ số OSTA (Osteoporosis Self-Assessment Tool for Asians). Đây là một công cụ đơn giản được tính toán dựa trên cân nặng và tuổi của đối tượng nghiên cứu, cho độ nhạy 91% và độ đặc hiệu 45% khi so sánh mật độ xương được đo bằng phương pháp DEXA [9]. Công cụ này đã được kiểm chứng tại nhiều quốc gia ở châu Á, cho thấy độ nhạy, độ đặc hiệu tương đương với kết quả của tác giả Koh. Sau đó, chỉ số này còn ứng dụng cho cả đối tượng là nam giới. Ở Việt Nam hiện nay chỉ có một nghiên cứu trên đối tượng nam giới của Nguyễn Xuân Trường 2014 [10], mà chưa có nghiên cứu nào về chỉ số OSTA trong dự báo nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh. Biểu đồ 1. Mô hình OSTA theo Koh [9] Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu chỉ số OSTA trong đánh giá nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh từ 40 tuổi trở lên nhằm hai mục tiêu: 1. Áp dụng chỉ số OSTA trong đánh giá nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh từ 40 tuổi trở lên. 2. Đối chiếu chỉ số OSTA với đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA ở các đối tượng trên. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 16 - tháng 4/201638 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân Gồm 406 phụ nữ mãn kinh ≥ 40 tuổi đi kiểm tra sức khỏe tại khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện Bạch Mai, được đo mật độ xương tại cột sống thắt lưng và cổ xương đùi theo phương pháp DEXA sử dụng tia X hấp thu năng lượng kép (máy Hologic) từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 09 năm 2015. 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân mắc các bệnh liên quan tới chuyển hóa xương và các yếu tố có thể ảnh hưởng đến mật độ xương: Bệnh lý nội tiết (cường giáp, cường cận giáp, suy giáp, Cushing, đái tháo đường), bệnh lý tiêu hóa (sau cắt dạ dày, ruột, rối loạn tiêu hoá kéo dài, xơ gan), suy thận, viêm khớp mạn tính, bệnh hệ thống (viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp), sau cắt buồng trứng, bệnh nhân đã điều trị loãng xương, mất trí nhớ, tiền sử thay khớp háng hoặc gãy cổ xương đùi hai bên. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thiết kế nghiê ... n bố đối tượng nghiên cứu theo chỉ số OSTA tại cut-off 0 và -3 Biểu đồ 4. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo chỉ số OSTA tại cut-off 0 và -3 với T-score chung Ghi chú: T-score chung: được coi là loãng xương khi bất kỳ một vị trí đo nào đạt ≤ -2,5 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 16 - tháng 4/2016 Nội khoa Việt Nam 41 IV. BÀN LUẬN 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 1.1. Đặc điểm chung - Tuổi Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 56,6 ± 9,0 tuổi, trong đó tuổi nhiều nhất là 88 và thấp nhất là 40 tuổi. Tuổi trung bình của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Huy Bình – năm 2006 với tuổi trung bình của phụ nữ mãn kinh trong khu vực ngoại thành Hà Nội là 62,7 ± 7,86 tuổi [12], sự chênh lệch này có thể giải thích bởi số lượng đối tượng nghiên cứu của Nguyễn Huy Bình rất cao ở độ tuổi từ 50 – 70 tuổi còn đối tượng của chúng tôi chủ yếu là ở ngoại tỉnh, do vậy nếu lên Hà Nội khám sức khỏe thì độ tuổi cũng chỉ giới hạn ở nhóm 50 – 59 tuổi (51,7%), còn nhóm ≥ 70 tuổi chiếm tỷ lệ không cao. - Chiều cao, cân nặng và BMI trung bình của chúng tôi tương ứng là: 152,2 ± 5,6 (cm), 52,8 ± 7,9 (kg) và 22,8 ± 3,0 (kg/m2), kết quả của chúng tôi thấp hơn kết quả của đối tượng trong nghiên cứu OSTA ở Malaysia và Trung Quốc [13], [14] 1.2. Tỷ lệ loãng xương và thiểu xương của đối tượng nghiên cứu Tỷ lệ loãng xương theo nghiên cứu của chúng tôi là 40,1%, thiểu xương là 40,4% theo (biểu đồ 4), kết quả của chúng tôi cao hơn so với tỷ lệ loãng xương ở Trung Quốc theo nghiên cứu của Liu và cộng sự năm 2013 là 29,31%, nhưng tỷ lệ thiểu xương của chúng tôi thấp hơn tỷ lệ thiểu xương của Trung Quốc là 45,46% [14] Nhận xét: - Với OSTA > 0 thì 92,4% đối tượng được khảo sát không loãng xương (có T-score > -2,5) - Với OSTA ≤ -3 thì 93,6% đối tượng được khảo sát có loãng xương (có T-score ≤ -2,5) Trên cơ sở như trên, mô hình OSTA cho phụ nữ mãn kinh miền Bắc Việt Nam sẽ chuyển dịch tuổi có nguy cơ cao từ 65 - 69 thành 60 – 64 (tuổi) Nguy cơ cao theo OSTA Việt Nam Nguy cơ cao theo OSTA của Koh Nguy cơ trung bình Nguy cơ thấp Biểu đồ 5. Mô hình OSTA cho phụ nữ mãn kinh miền Bắc Việt Nam Nhận xét: - Một phụ nữ có cân nặng trong khoảng 40 - 44 kg và thuộc nhóm tuổi 60 - 64, nếu theo mô hình OSTA của Koh thì sẽ nằm trong nhóm nguy cơ trung bình, nếu theo mô hình OSTA cho phụ nữ mãn kinh miền Bắc Việt Nam thì sẽ nằm trong nhóm nguy cơ cao. Tu ổi (n ăm ) Cân nặng (kg) NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 16 - tháng 4/201642 2. Khảo sát nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh từ 40 tuổi trở lên bằng chỉ số OSTA 2.1. Đặc điểm chỉ số OSTA ở phụ nữ mãn kinh từ 40 tuổi trở lên - Giá trị OSTA trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là -0,76 ± 2,26, giá trị nhỏ nhất là -10, lớn nhất là 6 (bảng 1), kết quả này thấp hơn giá trị OSTA ở Malaysia với giá trị OSTA trung bình là 0,3 ± 2,7, giá trị lớn nhất và nhỏ nhất là 6 và -6 [13], điều này có thể giải thích bởi chỉ số cân nặng trung bình của người Việt Nam là thấp hơn của người Malaysia. - Tại mỗi giá trị OSTA chúng tôi tính độ nhạy và độ đặc hiệu (bảng 1). Nếu lấy giới hạn dưới của OSTA tại cut-off -4, độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng là 26,99% và 98,77%, nếu lấy cut-off -3, độ nhạy và độ đặc hiệu là 34,36% và 97,12%. Như vậy nếu lấy cut-off -4 sẽ có 10% đối tượng nghiên cứu không được sàng lọc loãng xương. Nếu lấy giới hạn trên của OSTA tại cut-off -1, độ nhạy và độ đặc hiệu là 79,14% và 69,14%, nếu lấy cut-off 0, độ nhạy và độ đặc hiệu là 95,09% và 40,33%. Như vậy nếu lấy giới hạn trên của OSTA tại cut-off 0 thì sẽ có 16% đối tượng nghiên cứu của chúng tôi không được sàng lọc loãng xương. Từ đây chúng tôi quyết định dịch chuyển OSTA từ cut-off -4; -1 theo như tác giả Koh [9], sang cut-off -3; 0 để phù hợp với thực tế loãng xương ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam. - Tại cut-off 0 chúng tôi vẽ đường cong ROC và tính diện tích dưới đường cong AUC cho kết quả là 0,811 (biểu đồ 3). Giá trị này cho thấy OSTA là một công cụ tốt để sàng lọc loãng xương. - Kết quả của (bảng 2) cho thấy tại cut- off 0, đối tượng nghiên cứu có OSTA < 0 sẽ có nguy cơ mắc loãng xương cao gấp 13,09 lần so với OSTA < 0, có ý nghĩa thống kê với 95%CI (6,15 - 27,87). Độ nhạy và độ đặc hiệu của chỉ số OSTA tương ứng là 95,1% và 40,3%, kết quả của chúng tôi cũng tương tự như kết quả của tác giả Koh với độ nhạy là 91% và độ đặc hiệu là 41% [9]. - Kết quả của bảng (bảng 3) cho thấy tại cut-off -3, đối tượng nghiên có OSTA ≥ -3 thì khả năng không bị loãng xương cao gấp 29,58 lần so với đối tượng có OSTA < -3, có ý nghĩa thống kê với 95%CI: 8,99 - 97,23. Độ nhạy và độ đặc hiệu của OSTA tại cut-off -3 tương ứng là 27% và 98,8%. Độ đặc hiệu của chúng tôi cao hơn độ đặc hiệu của OSTA tại cut-off -4 theo nghiên cứu OSTA ở Trung Quốc (94,62%) [14]. Do đó OSTA tại cut-off -3 rất có giá trị chẩn đoán loại trừ loãng xương. • Biểu đồ 4 minh họa sự phân bố đối tượng nghiên cứu theo chỉ số OSTA tại cut-off 0 và -3. OSTA > 0 thì đa số đối tượng nghiên cứu có T-score bình thường, với OSTA ≤ -3 đa số đối tượng nghiên cứu có T-score ≤ -2,5. Với nhóm có OSTA dao động từ -3 đến 0 thì đối tượng nghiên cứu phân phố đều cho cả hai khu vực T-score > -2,5 và T-score ≤ -2,5. 2.2. Tỷ lệ nguy cơ của đối tượng nghiên cứu theo OSTA Trong số 406 phụ nữ mãn kinh ≥ 40 tuổi có 47 người nguy cơ cao bị loãng xương (11,6%), nguy cơ trung bình là 253 người (62,3%) đạt tỷ lệ cao nhất, nguy cơ thấp là 50 người (12,3%) theo chỉ số OSTA. Tỷ lệ nhóm nguy cơ có khác nhau theo kết quả nghiên cứu ở một số quốc gia châu Á khác [15], sự khác nhau này có thể liên quan tới tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh của Việt Nam cao hơn của các nước khác ở châu Á [13]. Tuy tỷ lệ nguy cơ loãng xương theo OSTA ở các quốc gia có chênh lệch giữa các nhóm nhưng tỷ lệ loãng xương trong nhóm đối tượng có nguy cơ cao theo OSTA đều cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ đó ở nhóm nguy cơ thấp. Điều này cho thấy trong điều kiện nước ta cũng như một số quốc gia đang phát triển khác, nơi mà máy đo mật độ xương bằng DEXA vẫn chưa thực sự phổ biến thì OSTA vẫn có giá trị NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 16 - tháng 4/2016 Nội khoa Việt Nam 43 trong sàng lọc nguy cơ loãng xương. Cụ thể là với OSTA < -3, tức là đối tượng nằm trong nhóm nguy cơ loãng xương cao, có thể khuyến cáo cho đối tượng đi đo mật độ xương ngay thậm chí điều trị loãng xương luôn khi chưa có kết quả mật độ xương, với OSTA từ -3 đến 0 cần thiết cho đo mật độ xương và cân nhắc điều trị loãng xương, với OSTA > 0 có thể trì hoãn đo mật độ xương Trên cơ sở như trên chúng tôi thiết lập chỉ số OSTA cho người Việt Nam. Biểu đồ 5 là mô hình OSTA cho phụ nữ Việt Nam, mô hình này đã được điều chỉnh theo mô hình của tác giả Koh – 2001(biểu đồ 1). Để mô tả sự khác nhau giữa hai mô hình chúng tôi đưa ra giả thiết: một người phụ nữ mãn kinh 63 tuổi, nặng 43 kg gióng vuông góc từ cột tuổi và cân nặng sẽ cắt nhau tại điểm chấm trắng như trên hình minh họa. Nếu theo mô hình OSTA cũ điểm này sẽ nằm trong vùng màu da cam tức là có nguy cơ loãng xương trung bình theo OSTA, nhưng nếu theo mô hình OSTA sửa đổi của chúng tôi điểm này nằm trong vùng màu đỏ tức là có nguy cơ loãng xương cao theo OSTA. Thực tế ở Việt Nam, tỷ lệ loãng xương cao hơn so với các quốc gia phát triển, điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn đặc biệt là ở các khu vực nông thôn và vùng cao, hơn nữa người Việt Nam có đặc điểm chỉ đi khám bệnh khi có triệu chứng của bệnh, do vậy việc áp dụng mô hình OSTA Việt Nam sửa đổi như trên sẽ giúp sàng lọc loãng xương tốt hơn và phụ nữ mãn kinh Việt Nam sẽ có cơ hội được chẩn đoán và điều trị loãng xương sớm hơn, góp phần hạn chế biến chứng gãy xương, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội. V. KẾT LUẬN 1. Tỷ lệ nguy cơ loãng xương theo OSTA - Chỉ số OSTA < -3 tức có nguy cơ cao: 11,6% (93,6% số phụ nữ này bị loãng xương). - Chỉ số OSTA -3 ≤ OSTA ≤ 0 tức có nguy cơ trung bình: 62,3% (43,9% số phụ nữ này bị loãng xương). - Chỉ số OSTA > 0 tương đương với nguy cơ thấp: 26,1% (92,4 % số phụ nữ này không loãng xương. 2. Độ nhạy, độ đặc hiệu và AUC (diện tích dưới đường cong) của chỉ số OSTA - Độ nhạy: 95,1% - Độ đặc hiệu: 40,3% - AUC: 0,811 - Trên cơ sở các thông số trên (độ nhạy, độ đặc hiệu và AUC), chỉ số nguy cơ cao đối với phụ nữ mãn kinh miền Bắc Việt nam cần dịch chuyển, tuổi có nguy cơ cao từ 65 – 69 (tuổi) thành 60 – 64 (tuổi). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Reginster J.Y, Burlet N. (2006). Osteoporosis: A still increasing prevalence. Bone. 38(2 Suppl 1), S4-S9 2. Palacios S, Borrego RS, Forteza A. (2005). The importance of preventive health care in post-menopausal women. Maturitas. Orthopedics. 35(9), 798-805. 3. Ferrer J, Neyro JL, Estevez A. (2005). Identification of risk factors for prevention and early diagnosis of a-symptomatic post-menopausal women, Maturitas;52 Suppl 1:S7–22 4. Strom O, Borgstrom F, Kanis JA, Compston JE, Cooper C, McCloskey E, Jonsson B. (2011). Osteoporosis: burden, health care provision and opportunities in the EU, Osteoporos doi 5. Trần Thị Tô Châu. (2002). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng về cơ xương khớp và đo mật độ xương gót bằng siêu âm trên phụ nữ mãn kinh Hà Nội. Luận văn thạc sĩ y hoc, tr 45 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 16 - tháng 4/201644 6. Strom O, Borgstrom F, Kanis J.A, et al. (2011). Osteoporosis: Burden, health care provision and opportunities in the EU. A report prepared in collaboration with the International Osteoporosis Foundation (IOF) and the European Federation of Pharmaceutical Industry Associations (EFPIA). Arch Osteoporos. 6(1-2), 59-155. 7. Burge R, Dawson-Hughes B, Solomon D.H, et al. (2007). Incidence and economic burden of osteoporosis-related fractures in the United States 2005-2025. J Bone Miner Res.22(3), 465-475. 8. 6 F. Cosman và CS. (2013). Clinician’s guide to prevention and treatment of osteoporosis 9. Koh và CS. (2001). A Simple Tool to Identify Asian Women at Increased Risk of osteoporosis, Osteoporos Int, 12:699–705 10. Nguyễn Xuân Trường. (2014). Nghiên cứu chỉ số osta và monogram trong chẩn đoán sàng lọc loãng xương ở nam giới. Luận văn thạc sĩ y học 11. Nguyễn Thị Thanh Hương. (2012). Osteoporisis, a major health problem in Viet Nam life style factors and determinants of bone mass 12. Nguyễn Huy Bình. (2006). Nghiên cứu thực trạng sức khỏe phụ nữ mãn kinh và đề xuất giải pháp can thiệp nhằm nâng cao chất lượng sống của lứa tuổi này 13. DAJ Muslim et al. (2012), Performance of osteoporosis self-tool for asian (OSTA) For primary osteoporosis in ipost menopause Malay women. Ma laysian Orthopaedic Journal Vol 6 No 1 14. Yong Yang và CS. (2013). Validation of an osteoporosis self-assessment tool to identify primary osteoporosis and new osteoporotic vertebral fractures in postmenopausal Chinese women in Beijing. BMC Musculoskeletal Disorders 2013, 14:271 15. Fujiwara S, et al. (2001). Curr Ther Res 62(8): 586-94 ABSTRACT PERFORMANCE OF OSTEOPOROSIS SELF-ASSESSMENT TOOL FOR ASIAN (OSTA) FOR PRIMARY OSTEOPOROSIS IN POST-MENOPAUSAL VIETNAMESE WOMEN The Osteoporosis Self-Assessment Tool for Asians (OSTA) score is a simple, valuable tool predicts women at risk of osteoporosis with the high sensitivity and the specificity. It can be used as a screening tool for patients at risk who would benefit from bone mineral density measurement and treatment. A cross-sectional study evaluated the performance of OSTA among 406 post-menopausal health Vietnamese women at the age from 40 and above from 12/2014 to 09/2015. Subjects with history of metabolic disease, presence of bone metastasis, significant renal impairment, previous bilateral oophorectomy, previous both hip fracture or prior use of any bisphosphonate were excluded from the study, were measured BMD by DEXA. Cutoff points of 0 as -3 were used for diagnosis in this study. The low risk category (index > 0) represented 26.1% of all women with only 92.4 % of the women in this category having normal BMD. The intermediate risk category (-3 to 0) represented 62.3% of participants, the prevalence of osteoporosis was 43.9%. The high risk group (index <-3) represented only 11.6% of participants. The prevalence of osteoporosis was very high (93.6%) in this group. Our study result OSTA with sensitivity and specificity of 95.1% and 40.3% respectively and AUC (area under curve) 0.811. In conclusion, OSTA high risk index of women in the north of Vietnam should be changed in age column from 65 – 69 to 60 – 64. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 16 - tháng 4/2016 Nội khoa Việt Nam 45 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đư ờng (ĐTĐ) là một bệnh nội tiết chuyển hoá, tỷ lệ mắc ĐTĐ ngày càng tăng, trong đó trên 90% là ĐTĐ týp 2. Có nhiều yếu tố liên quan đến sự phát sinh và phát triển của bệnh ĐTĐ như béo phì, rối loạn lipid máu (RLLPM), THA... Ở Việt Nam qua một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ kiểm soát tốt glucose và RLLP máu chưa cao, các biến chứng vẫn còn nhiều. Trong quân đội hệ thống quân y được biên chế từ cấp cơ sở đến trung ương. Các cán bộ được kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm, quản lý và điều trị các bệnh mạn tính khá chặt chẽ. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng kiểm soát glucose và rối loạn lipid máu ở bệnh nhân nam đái tháo đường týp 2 là cán bộ điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng: gồm 200 BN ĐTĐ týp 2 là cán bộ trong quân đội được theo dõi và điều trị tại khoa Nội Cán bộ (A1) và phòng khám cán bộ cao cấp C1-2 – Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/ 2013 đến tháng 12/ 2014. Phương pháp nghiên cứu: mô tả, cắt ngang, tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ theo TCYTTG năm 1998, chẩn đoán ĐTĐ týp 2 NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT GLUCOSE VÀ RỐI LOẠN LIPID MÁU Ở BỆNH NHÂN NAM ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 LÀ CÁN BỘ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108 Trần Đình Thắng*, Nguyễn Văn Quýnh* *Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 TÓM TẮT Nghiên cứu trên 200 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 được theo dõi và điều trị tại khoa Nội A1 và phòng khám C1-3 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 1/2013 đến 12/2014 nhận thấy mức độ kiểm soát tốt glucosse, HbA1c và các thành phần lipid máu chưa cao. - Kiểm soát tốt glucosse chiếm 27,5%, chấp nhận 39,5%, kém là 33%, mức độ kiểm soát tốt theo HbA1c chiếm 18%, chấp nhận 19,5%, kém là 62,5%. - Kiểm soát tốt TG đạt thấp nhất là 26,0%, HDL-C cao nhất là 62,5%, đến CT là 39%, LDL-C là 30,5%. - Có mối liên quan giữa mức độ kiểm soát glucose, HbA1c với rối loạn lipid máu (OR là 2,16 và 1,68 với p <0,05).
File đính kèm:
- nghien_cuu_chi_so_osta_trong_danh_gia_nguy_co_loang_xuong_o.pdf