Nghiên cứu các yếu tố xác định tháo lồng bằng phẫu thuật ở trẻ bị lồng ruột cấp
Đặt vấn đề: Lồng ruột cấp là nguyên nhân thường gặp gây tắc ruột ở trẻ dưới hai tuổi. Chẩn đoán chậm
trễ sẽ ảnh hưởng đến kết quả điều trị thậm chí có thể tử vong. Đề tài nhằm mô tả các triệu chứng lâm sàng,
tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công và xác định các yếu tố liên quan chỉ định tháo lồng bằng phẫu thuật ở
trẻ dưới 2 tuổi bị lồng ruột cấp.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại Bệnh viện Trung ương Huế. Bệnh
nhi ≤ 2 tuổi vào viện với triệu chứng tắc ruột, được chẩn đoán xác định lồng ruột cấp bằng siêu âm bụng.
Một số trường hợp đặc biệt sẽ chỉ định chụp X-quang bụng hoặc cắt lớp vi tính. Bệnh nhân được ưu tiên
chỉ định tháo lồng bằng hơi, nếu thất bại sẽ chuyển sang tháo lồng bằng phẫu thuật.
Kết quả: Có 70 trẻ trai và 48 trẻ gái trong độ tuổi từ 3 -24 tháng với trung vị 12,5 tháng. Triệu chứng lâm
sàng bao gồm: đau bụng khóc thét (100%), nôn (82,2%), phân máu (11,9%) và sờ thấy khối lồng (43,2%).
Bệnh nhân nhập với trong vòng 24 giờ sau khởi phát chiếm 80,5%. Tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công
98,3%. Lồng ruột đến muộn (≥ 24 giờ), phân máu và sự hiện diện tam chứng lồng ruột là các yếu tố tiên
lượng tháo lồng bằng phẫu thuật. Tất cả bệnh nhân hậu phẫu tốt, trung vị thời gian nằm viện 2 ngày đối với
tháo lồng bằng hơi và 6 ngày đối với nhóm phẫu thuật.
Kết luận: Chẩn đoán sớm lồng ruột cấp ở trẻ em góp phần tăng tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công,
giảm biến chứng và các nguy cơ khác cho trẻ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các yếu tố xác định tháo lồng bằng phẫu thuật ở trẻ bị lồng ruột cấp
Bệnh viện Trung ương Huế 26 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ XÁC ĐỊNH THÁO LỒNG BẰNG PHẪU THUẬT Ở TRẺ BỊ LỒNG RUỘT CẤP Hồ Hữu Thiện1, Nguyễn Hữu Sơn2, Nguyễn Thanh Xuân1 DOI: 10.38103/jcmhch.2020.59.4 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Lồng ruột cấp là nguyên nhân thường gặp gây tắc ruột ở trẻ dưới hai tuổi. Chẩn đoán chậm trễ sẽ ảnh hưởng đến kết quả điều trị thậm chí có thể tử vong. Đề tài nhằm mô tả các triệu chứng lâm sàng, tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công và xác định các yếu tố liên quan chỉ định tháo lồng bằng phẫu thuật ở trẻ dưới 2 tuổi bị lồng ruột cấp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại Bệnh viện Trung ương Huế. Bệnh nhi ≤ 2 tuổi vào viện với triệu chứng tắc ruột, được chẩn đoán xác định lồng ruột cấp bằng siêu âm bụng. Một số trường hợp đặc biệt sẽ chỉ định chụp X-quang bụng hoặc cắt lớp vi tính. Bệnh nhân được ưu tiên chỉ định tháo lồng bằng hơi, nếu thất bại sẽ chuyển sang tháo lồng bằng phẫu thuật. Kết quả: Có 70 trẻ trai và 48 trẻ gái trong độ tuổi từ 3 -24 tháng với trung vị 12,5 tháng. Triệu chứng lâm sàng bao gồm: đau bụng khóc thét (100%), nôn (82,2%), phân máu (11,9%) và sờ thấy khối lồng (43,2%). Bệnh nhân nhập với trong vòng 24 giờ sau khởi phát chiếm 80,5%. Tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công 98,3%. Lồng ruột đến muộn (≥ 24 giờ), phân máu và sự hiện diện tam chứng lồng ruột là các yếu tố tiên lượng tháo lồng bằng phẫu thuật. Tất cả bệnh nhân hậu phẫu tốt, trung vị thời gian nằm viện 2 ngày đối với tháo lồng bằng hơi và 6 ngày đối với nhóm phẫu thuật. Kết luận: Chẩn đoán sớm lồng ruột cấp ở trẻ em góp phần tăng tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công, giảm biến chứng và các nguy cơ khác cho trẻ. Từ khoá: lồng ruột cấp, tháo lồng bằng hơi, tháo lồng bằng phẫu thuật. ABSTRACT FACTORS DETERMINING OF OPERATIVE REDUCTION IN ACUTE INTUSSUSCETION OF CHILDREN Ho Huu Thien1, Nguyen Huu Son2, Nguyen Thanh Xuan1 Background: Intussusception is the common cause of small intestinal obstruction in children under two years old. Late diagnosis can lead to a potentially worse condition. This prospective study aims to describe the clinical manifestation and develop the conservative management protocol for acute ileocaecal intussusception in children undertwo years old. Methods: This prospective study was carried out in 118 consecutive patients under two years old. 1. Khoa Ngoại Nhi CCB, BVTW Huế 2. Trung tâm Nhi, BVTW Huế - Ngày nhận bài (Received): 29/9/2019; Ngày phản biện (Revised): 27/01/2020; - Ngày đăng bài (Accepted): 20/02/2020 - Người phản hồi (Corresponding author): Hồ Hữu Thiện - Email: thientrangduc@hotmail.com; SĐT: 0905130430 Nghiên cứu các yếu tố xác định tháo lồng bằng phẫu thuật... Bệnh viện Trung ương Huế Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 27 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Lồng ruột là một cấp cứu ngoại khoa rất thường gặp ở trẻ em [1], là tình trạng bệnh lý trong đó một đoạn ruột chui vào lòng một đoạn ruột kề nó, gây nên hội chứng tắc ruột với 2 cơ chế: bịt nút và tắc nghẽn [1]. Lồng ruột có thể xuất hiện ở bất cứ lứa tuổi nào, nhưng thường gặp ở trẻ nhỏ hơn hai tuổi. Tại Việt Nam, trong ba năm từ 2009 - 2011, có tổng số 869 ca lồng ruột ở trẻ <12 tháng tuổi nhập viện ở thành phố Hồ Chí Minh, chiếm tỷ lệ 296/100.000 trẻ/năm [2]. Lồng ruột nếu không được chẩn đoán sớm sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng như hoại tử ruột, sốc có thể dẫn đến tử vong[3]. Hiện nay, nhờ sự phát triển vượt bậc của y học, đặc biệt là các công cụ chẩn đoán hình ảnh, việc chẩn đoán và điều trị lồng ruột đã cải thiện đáng kể, tỷ lệ tử vong rất nhỏ, đặc biệt là ở Nhật Bản và Anh không có tử vong. Dù vậy, trên thế giới, tỷ lệ tử vong do lồng ruột vẫn còn, tỷ lệ này nhỏ hơn 1 trẻ/100 - 2000 ca nhập viện và còn cao ở những nước đang phát triển, đặc biệt là ở châu Phi với tỷ lệ 1/10 ca nhập viện [4]. Chẩn đoán lồng ruột thường được dựa vào các dấu hiệu lâm sàng điển hình như đau bụng đột ngột, nôn, ỉa máu, sờ được khối lồng [5,6]. Đôi khi, có những bệnh nhân do bệnh cảnh lâm sàng không điển hình nên việc chẩn đoán thường nhầm lẫn và muộn làm cho việc điều trị trở nên khó khăn, có nhiều biến chứng nghiêm trọng. Vì thế, nhằm giúp chẩn đoán sớm, lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp, tránh các biến chứng muộn nặng nề, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công ở trẻ dưới 2 tuổi bị lồng ruột cấp. 2. Xác định các yếu tố liên quan đến chỉ định tháo lồng bằng phẫu thuật. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng Những bệnh nhân nhi dưới hai tuổi tuổi được khám và điều trị lồng ruột cấp tại Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 5/2017 – 5/2019. Chẩn đoán xác định lồng ruột cấp ở trẻ em có thể dựa vào các công thức kinh điển sau đây [5]: - Hội chứng tắc ruột + tiêu phân nhầy máu = lồng ruột. - Hội chứng tắc ruột + khối u lồng = lồng ruột. - Hội chứng tắc ruột + ... , 82,2%, 34,7% và 22,9%. Có 14 trường hợp đi cầu phân máu hoặc thăm trực tràng có máu, chiếm 11,9%. Dấu hiệu sờ được búi lồng chiếm 43,2%. Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng Triệu chứng lâm sàng n % Đau bụng (khóc thét) 118 100 Nôn 97 82,2 Bí trung đại tiện 41 34,7 Chướng bụng 27 22,9 Sốt 10 8,5 Phân máu 14 11,9 Sờ được khối lồng 51 43,2 Tiêu chảy 8 6,8 Tam chứng lồng ruột* 14 11,9 *Tam chứng lồng ruột bao gồm: nôn, đau bụng khóc thét, phân có máu. Trong số 118 bệnh nhân, chỉ có một trường hợp được chỉ định tháo lồng bằng phẫu thuật ngay từ đầu, số còn lại được tháo lồng bằng hơi. Có 115 trường hợp tháo lồng bằng hơi thành công (98,3%), hai trường hợp thất bại phải chuyển sang tháo lồng bằng phẫu thuật với kết quả tốt. Cả ba trường hợp tháo lồng bằng phẫu thuật bảo tồn được đoạn ruột. Tất cả 118 bệnh nhân sau tháo lồng không có biến chứng, trung vị thời gian hậu phẫu hai ngày đối với tháo lồng bằng hơi và sáu ngày với nhóm phẫu thuật. Lồng ruột đến muộn (≥ 24 giờ), phân có máu và sự hiện diện của tam chứng lồng ruột là những yếu tố góp phần quyết định phương pháp tháo lồng bằng phẫu thuật (Bảng 3). Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến phương pháp tháo lồng Yếu tố Tháo lồng bằng phẫu thuật (n=3) Tháo lồng bằng hơi (n=115) p Tuổi ≤ 12 tháng 2 22 0,0870 > 12 tháng 1 93 Thời gian từ lúc khởi bệnh đến nhập viện < 24 giờ 0 98 0,0166 ≥ 24 giờ 3 17 Máu trong phân Có 3 11 0,0071 Không 0 104 Thời gian xuất hiện máu trong phân < 5 giờ 1 1 0,3182 ≥ 5 giờ 2 10 Tam chứng lồng ruột Có 2 12 0,0243 Không 1 103 Bệnh viện Trung ương Huế 30 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 IV. BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm lâm sàng Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trung vị của tuổi mắc bệnh là 12,5 tháng, tỷ lệ lồng ruột cao nhất gặp ở nhóm tuổi 12-24 tháng tuổi. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Trang tại Bệnh viện Trung ương Huế [7], lứa tuổi thường gặp là từ 5 – 22 tháng. Các nghiên cứu của thế giới đều thống nhất lồng ruột cấp thường hay gặp ở trẻ dưới 2 tuổi [8-11]. Trong khi đó, nghiên cứu của tác giả Võ Thị Thu Thủy [12], Chan Lee Giak tại Malaysia [13], Satter [14], lứa tuổi thường gặp nhất là dưới một tuổi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh xảy ra ở nam nhiều hơn ở nữ, trẻ nam chiếm 59,3%, nữ chiếm 40,7%, tỷ lệ nam/nữ là 1,5/1. Kết quả của chúng tôi phù hợp với các tác giả khác trong và ngoài nước [12],[13],[15],[21]. Sự hơn hẳn về số lượng mắc bệnh của trẻ trai đã được ghi nhận qua tất cả các nghiên cứu lồng ruột trên thế giới [22], do đó nhiều nghiên cứu đã sử dụng dấu hiệu trẻ trai < 1 tuổi như là một tiêu chuẩn phụ để chẩn đoán lồng ruột [23]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân vào viện trước 48 giờ chiếm tỷ lệ cao 92,4% và nhóm ≥ 48 giờ chiếm 7,6%. Kết quả này chứng tỏ sự hiểu biết và chăm sóc của gia đình đối với trẻ cũng như khả năng chẩn đoán của tuyến y tế ngày càng cao. Kết quả cũng tương tự đối với các nghiên cứu của các tác giả Trần Thế Hệ [15], Võ Thị Thu Thủy [12]. Biểu hiện khối lồng: Tỷ lệ sờ thấy búi lồng trong nghiên cứu của chúng tôi là 43,2%, thấp hơn so với nghiên cứu của Võ Thị Thu Thủy 63,3% [12], Chan Lee Giak 45,2% [13]. Lồng ruột có thể được nghi ngờ nếu có khối mềm được sờ thấy ở bụng hoặc qua khám trực tràng hoặc nhìn thấy trên phim bụng, chụp cắt lớp vi tính hoặc siêu âm. Nghiên cứu của chúng tôi có 14 bệnh nhân ỉa máu, chiếm tỷ lệ 11,9%. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với nhiều nghiên cứu trước đây, điều này có thể giải thích do bệnh nhân đến bệnh viện khá sớm, lúc chưa có biểu hiện ỉa máu [12,15,24]. Trong số 14 bệnh nhân ỉa máu, chỉ có hai bệnh nhân lồng ruột tự tháo. Đau bụng: Đau bụng trong nghiên cứu của chúng tôi xuất hiện ở tất cả các bệnh nhân, tương tự với tỷ lệ rất cao ở các nghiên cứu khác [12,15,25,26]. Đây là triệu chứng chính để bà mẹ đưa trẻ đi khám. Triệu chứng đau bụng trong bệnh lồng ruột cấp được mô tả là trầm trọng, xoắn vặn, từng cơn, kéo dài khoảng 4 – 5 phút với khoảng nghỉ cách nhau 10 – 20 phút. Trong suốt thời gian đau, trẻ trở nên giãy giụa, hoặc trở nên tái nhợt, ngủ lịm [27]. Nhiều trẻ có dấu hiệu kích thích quấy khóc hoặc khóc thét là một biểu hiện của đau bụng. Mức độ biểu hiện cơn đau cũng khác nhau tùy thuộc và thời gian vào viện. Vào viện sớm, cơn đau rõ rệt, vào viện muộn cơn đau không rõ nữa do ruột đã hoại tử, liệt ruột. Nôn mửa: Triệu chứng nôn mửa trong nghiên cứu của chúng tôi đạt tỷ lệ 82,2%, kết quả này không khác biệt với nhiều nghiên cứu khác [12,24- 26,28]. Nôn mửa là một dấu hiệu quan trọng của lồng ruột và nó cũng là triệu chứng đầu tiên hay gặp của lồng ruột, đặc biệt ở trẻ ≤ 4 tháng tuổi. Khởi đầu, chất nôn chỉ có thức ăn trong dạ dày, tuy nhiên nếu chẩn đoán muộn và ruột đã bị tắc thì có thể nôn ra mật hoặc phân. Tỷ lệ tam chứng kinh điển trong nghiên cứu của chúng tôi là 11,9% thấp hơn so với các tác giả khác Võ Thị Thu Thủy 31,57% [12], Trần Thị Lan Anh 65,2% [25], Nguyễn Thị Minh Trang [7]. Điều này có thể do tỷ lệ bệnh nhân vào viện sớm trước 24 giờ của chúng tôi cao hơn. 4.2. Các yếu tố xác định tháo lồng bằng phẫu thuật Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước được Nghiên cứu các yếu tố xác định tháo lồng bằng phẫu thuật... Bệnh viện Trung ương Huế Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 31 thực hiên nhằm tìm hiểu về các yếu tố lâm sàng và siêu âm giúp tiên lượng độ chặt lỏng của khối lồng, từ đó có hướng xử trí phù hợp, tránh kéo dài thời gian lồng ruột của bệnh nhân, giảm biến chứng nguy hiểm của bệnh và tăng hiệu quả khi điều trị tháo lồng [29]. Theo Katz và cộng sự [30], thời gian bị bệnh dưới 12 giờ, không có ỉa máu, không có tắc ruột, sờ được khối lồng và không có mất nước là những yếu tố tiên lượng sự thành công của tháo lồng bằng hơi (p < 0,001). Phân tích đa biến của nghiên cứu cho thấy tắc ruột, mất nước và thời gian bị bệnh kéo dài trên 12 giờ là những yếu tố tiên lượng sự thất bại của tháo lồng bằng hơi mặc dù chúng không phải là những chống chỉ định của tháo lồng bằng hơi. Các yếu tố này có thể làm giảm tỷ lệ thành công của tháo lồng không phẫu thuật, tăng khả năng có nguyên nhân thực thể và tăng nguy cơ bị tai biến khi tháo lồng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có mối liên quan giữa thời gian vào viện và phương pháp điều trị. Kết quả này tương tự với các nghiên cứu trước đây của các tác giả Võ Thị Thu Thủy [12], Reijnen [29]. Điều này có thể giải thích được là do mốc thời gian chúng tôi khai thác được trong bệnh sử dựa theo lời khai của người nhà bệnh nhân chưa thật sự khách quan do phụ thuộc chủ yếu vào đánh giá của người nhà bệnh nhân. Theo Kuppermann [31], ỉa máu là một trong những yếu tố tiên lượng quan trọng nhất. Điều này có thể giải thích là do cơ chế sinh lí bệnh, khi lồng ruột, mạc treo ruột bị chèn ép giữa các lớp của khối lồng, các tĩnh mạch mạc treo ruột bị ứ máu, trong khi các quai ruột tiếp tục phù nề sẽ làm các tĩnh mạch bị chèn ép thêm, ứ máu rồi vỡ, gây chảy máu trong lòng ruột, dẫn tới ỉa máu. Ở giai đoạn muộn, do bị chèn ép mạnh, khối lồng sẽ thiếu máu cấp nên hoại tử, gây tắc ruột, thấm dịch vào ổ bụng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có sự khác biệt trong thời gian ỉa máu giữa lồng ruột tự tháo và lồng ruột có can thiệp. Điều này có thể giải thích được là do mốc thời gian chúng tôi khai thác được trong bệnh sử dựa theo lời khai của người nhà bệnh nhân chưa thật sự khách quan do phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người nhà bệnh nhân, đồng thời số lượng bệnh nhân ỉa máu trong nghiên cứu của chúng tôi là rất thấp. Trước đây, lồng ruột được chẩn đoán xác định khi có đủ các triệu chứng lâm sàng kinh điển (nôn, đau bụng khóc thét, ỉa máu, sờ thấy khối lồng. Trong nhóm các triệu chứng kinh điển thì ỉa máu là một yếu tố tiên lượng kết quả của tháo lồng bằng hơi. Ỉa máu xuất hiện càng sớm, ở trẻ càng nhỏ tuổi thì khả năng phẫu thuật càng cao [29]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân có biểu hiện ỉa máu thì tỷ lệ phẫu thuật càng cao, nếu bệnh nhân có biểu hiện cả 4 triệu chứng kinh điển thì khả năng phẫu thuật càng tăng (p < 0,001). Tuy nhiên, thời gian xuất hiện từng triệu chứng dài ngắn khác nhau, vì vậy, nếu đợi đầy đủ cả 4 triệu chứng mới chẩn đoán thì sẽ gây chậm trễ trong việc điều trị. Do đó, việc áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán lồng ruột cấp của hiệp hội Brighton có ý nghĩa rất lớn trong việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời cho bệnh nhân, làm giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong của bệnh. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu này cung cấp các dữ liệu về triệu chứng lâm sàng của lồng ruột cấp ở trẻ dưới 2 tuổi và tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công rất cao (98,3%). Đồng thời xác định các yếu tố góp phần xác định tháo lồng bằng phẫu thuật bao gồm: Lồng ruột đến muộn (≥ 24 hours), phân có máu và sự hiện diện của tam chứng lồng ruột. Vì vậy, cần phát hiện sớm lồng ruột cấp ở trẻ em nhằm tăng tỉ lệ tháo lồng bằng hơi thành công, giảm biến chứng và các nguy cơ khác cho bệnh nhi. Bệnh viện Trung ương Huế 32 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 1. Nguyễn Đình Hối, Lồng ruột, ed. Hoi. 2013: Bệnh học ngoại khoa tiêu hóa, Nhà xuất bản Y học. 2. Van Trang N, Le Nguyen NT, Dao HT, et al. (2014). Incidence and epidemiology of intussusception among infants in Ho Chi Minh City, Vietnam. The Journal of pediatrics. 164: 366-371. 3. Phạm Văn Lình, Lồng ruột cấp ở trẻ bú mẹ. Ngoại bệnh lý, ed. Linh. 2008: Nhà xuất bản Y học. 4. Clark AD, Hasso-Agopsowicz M, Kraus MW, et al. (2019). Update on the global epidemiology of intussusception: a systematic review of incidence rates, age distributions and case- fatality ratios among children aged< 5 years, before the introduction of rotavirus vaccination. International journal of epidemiology. 5. Trương Nguyễn Uy Linh, Lồng ruột, ed. Linh. 2018: Ngoại nhi lâm sàng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Y học. 6. Nguyễn Thanh Liêm, Lồng ruột, ed. Liem. 2016: Phẫu thuật tiêu hóa trẻ em, Nhà xuất bản Y học. 7. Nguyễn Thị Minh Trang, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, siêu âm và kết quả điều trị bệnh lồng ruột cấp ở trẻ em, ed. Trang. 2015: Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y dược Huế. 8. Kumar B, Kumar M, Sinha AK, Anand U, Kumar A (2019). Intussusceptions in Children. Indian Journal of Surgery. 1-4. 9. Jo S, Lim IS, Chae SA, et al. (2019). Characteristics of intussusception among children in Korea: a nationwide epidemiological study. BMC pediatrics. 19: 211. 10. Amante S, Chaves M, Sousa R, et al. (2018). Pediatric intussusception: review and imaging contribute. 11. Okimoto S, Hyodo S, Yamamoto M, Nakamura K, Kobayashi M (2011). Association of viral isolates from stool samples with intussusception in children. International Journal of Infectious Diseases. 15: e641-e645. 12. Võ Thị Thu Thủy, Nghiên cứu lâm sàng, siêu âm, kết quả điều trị và yếu tố tiên lượng bệnh lồng ruột cấp ở trẻ dưới 24 tháng tuổi tại Bệnh viện Trung ương Huế, ed. Thuy. 2009: Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Dược Huế. 13. Giak CL, Singh H, Nallusamy R, et al. (2008). Epidemiology of intussusception in Malaysia: a three-year review. 14. Satter SM, Aliabadi N, Yen C, et al. (2017). Epidemiology of childhood intussusception in Bangladesh: Findings from an active national hospital based surveillance system, 2012–2016. Vaccine. 15. Trần Thế Hệ, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chỉ định điều trị lồng ruột cấp tính ở trẻ nhũ nhi tại Bệnh viện Trung ương Huế, ed. He. 2001: Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Dược Huế. 16. Chang Y-J, Hsia S-H, Chao H-C (2010). Emergency medicine physicians performed ultrasound for pediatric intussusceptions. International Journal of Infectious Diseases. 14. 17. Jo DS, Nyambat B, Kim JS, et al. (2009). Population-based incidence and burden of childhood intussusception in Jeonbuk Province, South Korea. International Journal of Infectious Diseases. 13: e383-e388. 18. Takeuchi M, Osamura T, Yasunaga H, et al. (2012). Intussusception among Japanese children: an epidemiologic study using an administrative database. BMC pediatrics. 12: 36. 19. Applegate KE, Sadigh G (2018). Intussusception in Infants and Children: Diagnostic Evidence- Based Emergency Imaging and Treatment. Evidence-Based Emergency Imaging. 567-582. 20. Ogundoyin OO, Olulana DI, Lawal TA (2016). TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghiên cứu các yếu tố xác định tháo lồng bằng phẫu thuật... Bệnh viện Trung ương Huế Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 33 Childhood intussusception: Impact of delay in presentation in a developing country. African journal of paediatric surgery: AJPS. 13: 166. 21. Hazra N, Karki O, Verma M, et al. (2015). Intussusception in Children: A Short-Term Analysis in a Tertiary Care Hospital. American Journal of Public Health. 3: 53-56. 22. Mehendale S, Kumar CG, Venkatasubramanian S, Prasanna T (2016). Intussusception in children aged less than five years. The Indian Journal of Pediatrics. 83: 1087-1092. 23. Bines JE, Liem NT, Justice F, et al. (2006). Validation of clinical case definition of acute intussusception in infants in Viet Nam and Australia. Bulletin of the World Health Organization. 84: 569-575. 24. Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Đào Trung Hiếu (2011). Đặc điểm lâm sàng và siêu âm lồng ruột được phẫu thuật tại Bệnh viện Nhi Đồng I. Y học Tp. Hồ Chí Minh. 3: 74-77. 25. Tran LAT, Yoshida LM, Nakagomi T, et al. (2013). A high incidence of intussusception revealed by a retrospective hospital-based study in Nha Trang, Vietnam between 2009 and 2011. Tropical medicine and health. 41: 121-127. 26. Buettcher M, Baer G, Bonhoeffer J, Schaad UB, Heininger U (2007). Three-year surveillance of intussusception in children in Switzerland. Pediatrics. 120: 473-480. 27. Bines JE, Ivanoff B, Justice F, Mulholland K (2004). Clinical case definition for the diagnosis of acute intussusception. Journal of pediatric gastroenterology and nutrition. 39: 511-518. 28. Hameed S (2006). Ultrasound guided hydrostatic reduction in the management of intussusception. The Indian Journal of Pediatrics. 73: 217-220. 29. Burge D (1991). Intussusception: Factors related to treatment: JAM Reijnen, C. Festen, and RP van Roosmalen. Arch Dis Child 65: 871–873,(August), 1990. Journal of Pediatric Surgery. 26: 1251. 30. Katz M, Phelan E, Carlin J, Beasley S (1993). Gas enema for the reduction of intussusception: relationship between clinical signs and symptoms and outcome. AJR. American journal of roentgenology. 160: 363-366. 31. Kuppermann N, O’Dea T, Pinckney L, Hoecker C (2000). Predictors of intussusception in young children. Archives of pediatrics & adolescent medicine. 154: 250-255.
File đính kèm:
- nghien_cuu_cac_yeu_to_xac_dinh_thao_long_bang_phau_thuat_o_t.pdf