Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây

Hồ Tây có vai trò quan trọng trong đời sống kinh

tế - xã hội của Hà Nội và được Tổ chức Môi trường Hồ

quốc tế (ILEC) xếp vào Danh sách các hồ cần bảo tồn

trên thế giới đặc biệt về ĐDSH [9]. Hiện nay, Hồ Tây

đang chịu áp lực lớn do quá trình đô thị hóa cũng như

BĐKH. Theo nghiên cứu trước[1], BĐKH trong đó

nhiệt độ tăng có thể làm cho chất lượng nước Hồ Tây

suy giảm theo hướng gia tăng phú dưỡng, hàm lượng

ôxy hòa tan giảm mạnh, ô nhiễm hữu cơ gia tăng.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy, khi chất lượng

nước thay đổi sẽ dẫn tới những ảnh hưởng ĐDSH theo

hướng làm thay đổi thành phần và số lượng các loài

sinh vật [12].

Vì vậy, nghiên cứu sẽ tập trung vào tác động của

BĐKH đối với thành phần TVPD tại Hồ Tây, là nhóm

sinh vật quan trọng ở Hồ Tây và đã có nhiều nghiên

cứu về thành phần loài với mục tiêu như sau: (i) Đánh

giá diễn biễn hiện trạng thành phần TVPD tại Hồ Tây;

(ii) Đánh giá và dự báo tác động của BĐKH tới sự phát

triển TVPD tại Hồ Tây.

Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây trang 1

Trang 1

Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây trang 2

Trang 2

Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây trang 3

Trang 3

Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây trang 4

Trang 4

Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 36420
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây

Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển thực vật phù du tại Hồ Tây
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 101
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN 
SỰ PHÁT TRIỂN THỰC VẬT PHÙ DU TẠI HỒ TÂY
Nguyễn Trâm Anh 1 
Trịnh Thị Thanh 2 
Đoàn Hương Mai 3 
1. Đặt vấn đề
Hồ Tây có vai trò quan trọng trong đời sống kinh 
tế - xã hội của Hà Nội và được Tổ chức Môi trường Hồ 
quốc tế (ILEC) xếp vào Danh sách các hồ cần bảo tồn 
trên thế giới đặc biệt về ĐDSH [9]. Hiện nay, Hồ Tây 
đang chịu áp lực lớn do quá trình đô thị hóa cũng như 
BĐKH. Theo nghiên cứu trước[1], BĐKH trong đó 
nhiệt độ tăng có thể làm cho chất lượng nước Hồ Tây 
suy giảm theo hướng gia tăng phú dưỡng, hàm lượng 
ôxy hòa tan giảm mạnh, ô nhiễm hữu cơ gia tăng. 
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy, khi chất lượng 
nước thay đổi sẽ dẫn tới những ảnh hưởng ĐDSH theo 
hướng làm thay đổi thành phần và số lượng các loài 
sinh vật [12]. 
Vì vậy, nghiên cứu sẽ tập trung vào tác động của 
BĐKH đối với thành phần TVPD tại Hồ Tây, là nhóm 
sinh vật quan trọng ở Hồ Tây và đã có nhiều nghiên 
cứu về thành phần loài với mục tiêu như sau: (i) Đánh 
giá diễn biễn hiện trạng thành phần TVPD tại Hồ Tây; 
(ii) Đánh giá và dự báo tác động của BĐKH tới sự phát 
triển TVPD tại Hồ Tây.
 1Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng
2 Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
3 Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng chuỗi số liệu về diễn biến thành phần thực vật phù du (TVPD) từ năm 1996 - 2018 
và thông số pH từ năm 2011 – 2020 nhằm phân tích tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với diễn biến 
thành phần TVPD, mối liên hệ giữa hiện trạng thành phần TVPD và chất lượng nước. Kết quả phân tích cho 
thấy, các chi/loài tảo có khả năng chịu đựng môi trường ô nhiễm xuất hiện nhiều hơn, vi khuẩn Lam đang là 
loài chiếm ưu thế trong quần xã TVPD. Nhiệt độ thúc đẩy tảo phát triển mạnh, làm cho pH tăng dần, là điều 
kiện thuận lợi thúc đẩy vi khuẩn Lam phát triển. Đồng thời, khi tảo chết, lại là nguồn hữu cơ gây ô nhiễm 
hồ. Thông qua cơ chế này, BĐKH (nhiệt độ tăng và nắng nóng kéo dài) sẽ góp phần thay đổi thành phần loài 
TVPD với các chi và loài tảo chịu ô nhiễm sẽ xuất hiện nhiều hơn, thúc đẩy vi khuẩn Lam chiếm ưu thế trong 
quần xã TVPD.
Từ khóa: Hồ Tây, Thực vật phù du, BĐKH.
Nhận bài: 23/2/2021; Sửa chữa: 10/3/2021; Duyệt đăng: 17/3/2021.
Bảng 1. Vị trí lấy mẫu
TT Mô tả vị trí Tọa độ
1 Cống cái (Công viên 
nước Hồ Tây)
N 21o04’21’’, E 105o 
49’24’’
2 Giữa hồ trên N 21o04’9’’, E 105o49’10’’
3 Cống Xuân La N 21o03’38’’, E 
105o48’33’’
4 Cống Trích Sài (phường 
Bưởi)
N 21o02’47’’, E 
105o48’55’’
5 Cống Đô (Thụy Khê) N 21o02’37’’, E 
105o50’33’’
6 Cống Trúc Bạch N 21o02’37’’, E 
105o50’32’’
7 Giữa hồ dưới N 21o03’6’’, E 105o50’11’’
8 Khách sạn Sheraton N 21o03’25’’, E 105o49’27
9 Quảng An (gần Phủ Tây 
Hồ)
N 21o03’3’’, E 105o48’5’’
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021102
2. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp 
nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hồ Tây và hệ vi tảo Hồ Tây:
Hồ Tây nằm ở phía Tây của TP. Hà Nội, với diện 
tích tự nhiên năm 2012 là 527,517 ha (Ban quản lý 
Hồ Tây, Hà Nội), dung tích khoảng 9 triệu m3; độ sâu 
lớn nhất là 3,5m. Hồ có tọa độ địa lý 21o04’ vĩ độ Bắc, 
105o50’ kinh độ Đông
 2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích mẫu tảo
Tiến hành thu mẫu TVPD (tảo) tại 9 địa điểm (Bảng 
1). Phân tích Chlorophyll - a theo phương pháp của 
Lorenzen (1967). Mẫu được lọc qua giấy lọc GF/C với 
kích thước lỗ 45µm, sau đó chiết bằng aceton 96%. 
Đánh giá mức độ ô nhiễm hồ theo chỉ số sinh học 
[11]
Sử dụng phương pháp Palmer (1969) để đánh giá 
mức độ ô nhiễm của nước hồ dựa vào sự xuất hiện của 
một số chi, hoặc loài tảo điển hình. Khung đánh giá 
theo Palmer (1969) về các chi, loài tảo chịu ô nhiễm 
như sau:
- Chi/ loài tào điểm 0 - 10: chi/loài tảo không chịu 
ô nhiễm 
- Chi/ loài tảo điểm 11 - 15: chi/loài chịu ô nhiễm 
trung bình.
- Chi/ loài tảo điểm 16 - 20: chi/loài tảo có thể ô 
nhiễm ở mức độ cao.
- Chi/loài tảo trên 21 điểm: chi/loài tảo chắc chắn 
chịu ô nhiễm ở mức độ cao
Phương pháp đánh giá tương quan: Đánh giá mối 
quan hệ giữa 2 đại lượng nhiệt độ nước mặt (x) và hàm 
lượng Chlorophyll-a (y) theo hệ số tương quan và kiểm 
định độ tin cậy của hệ số tương quan theo Phạm Tiến 
Dũng (2006) [4].
Phương pháp đánh giá tác động BĐKH: Đánh giá 
tác động của BĐKH đối với thành phần TVPD được 
thực hiện theo phương pháp định tính, trong đó công 
cụ chính là ma trận đánh giá. Phương pháp và công cụ 
theo Tài liệu hướng dẫn đánh giá tác động của BĐKH 
và xác định các giải pháp thích ứng của Viện Khí tượng 
Thủy văn BĐKH (2011) [6].
Phương pháp hồi cứu tài liệu: Tổng hợp, đúc rút và 
kế thừa, áp dụng kinh nghiệm trên thế giới và trong 
nước được thực hiện trước đó về nghiên cứu HST Hồ 
Tây, dựa trên các số liệu thứ cấp như số liệu về thành 
phần các loài TVPD được thu thập từ những nghiên 
cứu thực hiện từ năm 1996 - 2018.
3. Kết quả nghiên cứu.
3.1. Diễn biến thành phần TVPD tại Hồ Tây
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ năm 1996 - 
2018 về số lượng loài TVPD được trình bày ở Bảng 2 
[2, 3, 5, 7, 8].
Bảng 2. Tổng hợp diễn biến thành phần TVPD từ năm 
1996 - 2018
Ngành tảo 1996 2002 2007 2009 2011 2018
Tảo silic - 
Bacillariophyta
12 18 12 13 21 33
Tảo lục - 
Chlorophyta
73 71 20 21 19 22
Vi khuẩn 
Lam - 
Cyanobacteria
19 12 12 21 15 23
Tảo mắt - 
Euglenophyta
7 7 8 10 14 18
Tảo giáp - 
Pyrropphyta
4 4 0 0 3 -
Tổng cộng 115 112 52 65 72 96
Sau hơn 20 năm đa dạng loài TVPD thay đổi như 
sau: Ngành tảo Silic tăng từ 12 lên 33 loài, trong khi đó, 
ngành tảo Lục giảm đáng kể từ 73 xuống 22 loài. Thành 
phần loài của ngành tảo Mắt và vi khuẩn Lam cũng 
tăng tương ứng từ 7 lên 18 loài và 19 lên 23 loài.
3.2. Đánh giá mối liên quan giữa phân bố tảo với 
điều kiện sinh thái
Kết quả về tần suất xuất hiện các chi tảo có khả năng 
chịu ô nhiễm tại Hồ Tây được trình bày ở Bảng 3.
Kết quả Bảng 3 cho thấy, so với năm 2011, vào năm 
2018, số lượng loài trong một chi tảo được đánh giá 
có khả năng chịu đựng với môi trường ô nhiễm tăng. 
Nhiều loài tảo trong các chi tảo được đánh giá có 
mức chịu đựng cao nhất đối với môi trường ô nhiễm 
đều xuất hiện nhiều hơn trong năm 2018 đó là các 
chi Nitzschia, Navicula, Chlorella, Euglena. Đặc biệt, 
loài tảo Chlorella vulgaris được đánh giá là một trong 
những loài tảo có mức chịu đựng môi trường ô nhiễm 
cao nhất đã xuất hiện vào năm 2018. Đồng thời, nhiều 
chi Microcystis thuộc ngành vi khuẩn Lam có thể gây 
hiện tượng bùng phát tảo và gây độc cho nước cũng 
xuất hiện nhiều hơn trong năm 2018. Như vậy, các chi 
tảo có khả năng chịu đựng môi trường ô nhiễm xuất 
hiện nhiều hơn
Xem xét mật độ tế bào sẽ cho thấy loài chiếm ưu thế 
trong quần xã TVPD. Dựa trên kết quả một số nghiên 
cứu thực hiện từ năm 1960 - 2018 về mật độ tế bào của 
quần xã TVPD tại Hồ Tây để đánh giá diễn biến mật độ 
TVPD, từ đó đánh giá diễn biến loài có mật độ chiếm 
ưu thế. Kết quả trình bày ở Bảng 4.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 103
Bảng 3. Tần suất xuất hiện các chi tảo có khả năng chịu ô nhiễm tại Hồ Tây
Ngành Chi Điểm đánh giá Số loài xuất hiện
2011 2018
Tảo silic - 
Bacillariophyta
Nitzschia 98 3 6
Cymbella 24 2 3
Fragilaria 33 - 3
Synedra 58 2 3
Achnanthes 19 - 2
Navicula 92 3 4
Melorisa 51 4 4
Tổng số 14 25
Tảo lục - Chlorophyta Pediastrum 35 3 2
Coelastrum 24 1 2
Scenedesmus 112 4 4
Ankistrodesmus 57 1 2
Actinastrum 24 1 1
Chlorella 112 - 1
Oocystis 28 - 2
Chodatella - 1
Tổng số 10 15
Vi khuẩn Lam 
-Cynobacteria
Microcystis 49 1 4
Oscillatoria 161 3 3
Spirulina 25 2 3
Euglena 172 8 10
Phacus 57 2 4
Tổng số 16 24
Tổng cộng 40 64
Bảng 4. Diễn biến mật độ thực vật nổi ở Hồ Tây
Thời gian 1960 - 1970 1997 2012 2018
Mật độ tế bào 3 - 200 triệu tb /l 600.000 - 10.600.000 tb/l 98.400.000 -104.780.000 tb/l 122.700 -153.700 tb/l
Ghi chú Vi khuẩn Lam 
chiếm 60 - 90% 
mật độ
Vi khuẩn Lam chỉ chiếm 
40,3% về số lượng;
Tảo Silíc lại chiếm ưu thế, 
đạt 65,5% về khối lượng
Vi khuẩn Lam có mật độ rất 
lớn chiếm tới 60% tổng số 
TVPD
Vi khuẩn Lam chiếm 
trên 90%; tảo lục chiếm 
5% và các nhóm khác có 
mật độ không đáng kể
Kết quả cho thấy, mật độ TVPD tại Hồ Tây biến động 
khá lớn phụ thuộc vào mùa trong năm. Tuy nhiên, mật độ 
của vi khuẩn Lam tăng dần, vào năm 1997, vi khuẩn Lam 
chỉ chiếm 40,3%, đến năm 2012, chiếm 60% và đến 2018 
chiếm 90%. Điều này cho thấy, hiện vi khuẩn Lam đang 
là loài ưu thế của quần xã TVPD tại Hồ Tây. Đồng thời, 
trong thành phần vi khuẩn Lam có nhiều chi có thể gây 
bùng nổ như các chi Microcystis, Anabaene. 
3.3. Tác động của BĐKH đến sự phát triển TVPD
a. Nhận diện mối quan hệ giữa nhiệt độ và hàm 
lượng Chlorophyll a
Hàm lượng Chlorophyll-a (Chl.a) được coi là chỉ thị 
cho mật độ tảo, giá trị Chl.a càng cao chứng tỏ sinh khối 
của tảo càng lớn.
Kết quả phân tích về tương quan giữa nhiệt độ nước 
Hồ Tây và hàm lượng Chl.a cho thấy, hệ số tương quan 
giữa nhiệt độ và hàm lượng Chl.a là r*=0.9451 ở mức ý 
nghĩa 0,05. Theo kết quả này (0,9 ≤ r ≤ 1) cho thấy, hai đại 
lượng có mối quan hệ rất chặt chẽ.
Như vậy, có thể thấy, nhiệt độ có ảnh hưởng rất rõ rệt 
lên sinh khối TVPD, làm tăng cường sinh khối của TVPD 
tại hồ, nhưng lại làm tăng ô nhiễm hữu cơ khi tảo chuyển 
sang pha suy vong. 
b. Ảnh hưởng của BĐKH đến sự phát triển vi khuẩn 
Lam ở Hồ Tây
Khí hậu nóng lên và pH thay đổi theo hướng axit 
hóa, hoặc kiềm hóa là những vấn đề được quan tâm, làm 
thay đổi HST nước ngọt. Tảo Lục với các chi Closterium, 
Cosmarium được coi là một loài đặc trưng của ao hồ 
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021104
▲Hình 1. Mối quan hệ giữa nhiệt độ và hàm lượng Chl.a
nói chung trong điều kiện dinh dưỡng ổn định và không 
ô nhiễm. Tuy nhiên, khi có sự thay đổi nhiệt độ và môi 
trường sống, thành phần tảo biến đổi nhanh chóng. Theo 
Jingwen Yang, sự cạnh tranh giữa vi khuẩn Lam và tảo 
Lục đã ảnh hưởng đến diễn thế của TVPD quyết định loài 
nào chiếm ưu thế trong quần xã TVPD [13]. 
Để đánh giá sự cạnh tranh giữa tảo Lục và vi khuẩn Lam 
trong các điều kiện môi trưởng thay đổi, một nghiên cứu 
thực nghiệm đã được thực hiện với Microcystis aeruginosa 
và Scenedesmus Obquus ở nhiệt độ từ 15 - 35°C và khoảng 
pH từ 5 - 9. Kết quả cho thấy, Scenedesmus Obquus cạnh 
tranh cao hơn ở 15°C. Ở nhiệt độ 20 - 30°C, quần thể của 
Scenedesmus và Microcystis đều bị ức chế bởi sự hiện diện 
của nhau. Trong giai đoạn ban đầu, Scenedesmus Obquus 
đã thống trị cạnh tranh, nhưng cuối cùng đã bị thay thế 
bởi M. aeruginosa. Microcystis giữ lợi thế cạnh tranh ở 
35°C. Trong khi Scenedesmus vượt qua Microcystis ở 
điều kiện axit (pH ≤ 6) thì các điều kiện trung tính và kiềm 
yếu (pH 7 - 9) đã hỗ trợ việc thay thế sự thống trị cạnh 
tranh từ Scenedesmus thành Microcystis. Nghiên cứu cho 
thấy, sự ấm lên của khí hậu có thể đẩy nhanh quá trình kế 
thừa từ tảo Lục sang vi khuẩn Lam cùng với sự nở hoa của 
vi khuẩn Lam. Đồng thời, quá trình kiềm hóa nước khiến 
Microcystis càng trở thành một đối thủ cạnh tranh mạnh 
hơn lấn át tảo Lục [13].
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra khi nhiệt 
độ trong khoảng 20oC sẽ tạo ra sự cạnh tranh đáng kể giữa 
vi khuẩn Lam với các loài tảo Lục và tảo bám, nhưng khi 
nhiệt độ trên 25oC thì sẽ thúc đẩy trực tiếp sự sinh trưởng 
của vi khuẩn Lam so với các loài tảo khác. Đồng thời, vi 
khuẩn Lam sẽ trở nên ưu thế trong tập hợp các loài TVPD 
trong môi trường phú dưỡng, đặc biệt là các giai đoạn ấm 
nhất trong năm [10].
Các nghiên cứu trên đã lý giải quá trình chuyển đổi ưu 
thế của vi khuẩn Lam ở Hồ Tây.
Theo kết quả trên Hình 2, pH của Hồ Tây khá cao 
(lớn hơn 7) liên tục trong 10 năm và có xu hướng tăng lên 
trong thời gian 2016 - 2020. pH cao là hệ quả của việc tảo 
phát triển mạnh do quá trình quang hợp mạnh mẽ của tảo 
đã tiêu thụ một lượng đáng kể CO2 khiến cho cân bằng 
CO2 trong nước chuyển dịch về phía tạo ra ion CO3-2 làm 
tăng pH của nước. pH tăng cao lại là điều kiện thuận lợi 
thúc đẩy vi khuẩn Lam phát triển, đặc biệt là các chi gây 
độc. Kết hợp với điều kiện nhiệt độ cao, nhất là trong các 
giai đoạn nắng nóng kéo dài, đây là điều kiện thuận lợi để 
vi khuẩn Lam với các chi như Microcystis phát triển. 
Như vậy, quá trình mà BĐKH (nhiệt độ tăng) đã làm 
vi khuẩn Lam phát triển và chiếm ưu thế trong quần thể 
TVPD ở Hồ Tây như sau:
(i) Nhiệt độ kết hợp với nồng độ CO2 cao trực tiếp thúc 
đẩy sinh trưởng của tảo.
(ii) Sinh khối TVPD tăng lên, làm cho pH tăng dần do 
quá trình quang hợp tảo sử dụng nhiều CO2 dẫn đến dịch 
chuyển cân bằng pH trong nước theo hướng kiềm hóa. 
pH tăng cao là điều kiện thuận lợi thúc đẩy vi khuẩn Lam 
phát triển, đặc biệt là các chi gây độc và hiện tượng bùng 
phát tảo.
c. Dự báo tác động của BĐKH đến sự phát triển 
TVPD và vi khuẩn Lam
Đánh giá và dự báo tác động BĐKH (nhiệt độ, cực 
đoan thời tiết) đến sự phát triển TVPD được trình bày ở 
Bảng 5.
4. Kết luận
Thứ nhất, thành phần loài TVPD ở Hồ Tây đã có sự 
thay đổi đáng kể ngành tảo Silic tăng lên, tảo Lục giảm đi, 
vi khuẩn Lam tăng lên; các loài chịu ô nhiễm xuất hiện 
nhiều hơn.
Thứ hai, nhiệt độ thúc đẩy tảo phát triển mạnh làm 
cho pH tăng dần. pH tăng cao lại là điều kiện thuận lợi 
thúc đẩy vi khuẩn Lam phát triển, đặc biệt là các chi gây 
▲Hình 2. Đồ thị diễn biến thông số pH của nước Hồ Tây giai 
đoạn 2010 - 2020
Bảng 5. Đánh giá và dự báo ảnh hưởng của BĐKH đến sự phát triển TVPD
Những tác động chính 
của BĐKH 
Đánh giá tác động của 
BĐKH đối với TVPD
Những rủi ro và thiệt 
hại có thể xảy ra
Dự báo 
Nhiệt độ tăng, các hiện 
tượng thời tiết cực đoan, 
nắng nóng kỷ lục kéo dài 
hơn
Tảo phát triển mạnh Ô nhiễm gia tăng
pH tăng
Thay đổi thành phần loài TVPD: Các loài 
chịu ô nhiễm cao, các chi tảo gây độc và 
nở hoa xuất hiện nhiều hơn.
Vi khuẩn Lam phát triển mạnh và ngày 
càng chiếm ưu thế trong quần xã TVPD.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trâm Anh (2018), Tác động của BĐKH đến chất 
lượng nước hồ: Nghiên cứu điến hình cho Hồ Tây, Hà Nội, 
Tạp chí Khoa học BĐKH, số 5, tr.11-19. 
2. Lưu Lan Hương (2007), Mô hình hóa hệ sinh thái ở Hồ Tây 
- Hà Nội nhằm bảo vệ và phát triển bền vững, Đề tài đặc 
biệt cấp ĐHQG, Mã số: QG - 06-35.
3. Lưu Lan Hương (2010), Xác định năng suất sơ cấp và năng 
suất thứ cấp cho Hồ Tây, Hà Nội (bằng mô hình toán), Đề 
tài đặc biệt cấp ĐHQG, mã số: QG-09-19.
4. Nguyễn Thị Lan, Phạm Tiến Dũng (2006), Giáo trình 
phương pháp thí nghiệm, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.
5. Dương Đức Tiến, nnk (1991), "Hiện trạng nước và vi tảo 
(Microalgae) trong các thủy vực ở Hà Nội", Tạp chí Sinh 
học, 15 (4).
6. Viện Khí tượng Thủy văn BĐKH (2011), Tài liệu hướng 
dẫn: Đánh giá tác động của BĐKH và xác định các giải 
pháp thích ứng, NXB Tài nguyên môi trường và bản đồ 
Việt Nam, Hà Nội.
7. Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Đại học Bách 
khoa Hà Nội (2018), Báo cáo đánh giá tác động môi trường 
Dự án nạo vét bùn, bổ cập nước và xây dựng cột phun nước 
cho Hồ Tây, Hà Nội.
8. Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật (2011), Đề án ''Điều 
tra đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường nước, hệ sinh 
thái lòng Hồ Tây; đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm 
và khai thác sử dụng hợp lý Hồ Tây" do UBND quận Tây 
Hồ và Ban quản lý Hồ Tây quản lý và thực hiện, Hà Nội.
9. Mai Đình Yên (2009), Prelimenary impacts of assessment 
of Alien quatic animals/ fishes on Auqatic Biodiversity and 
native fishes in Quaculture of Vietnam – sugestions the 
measures of management them.13th world lake conference 
China Wuham 2009.
10. Johnk K. D., Huisman J., Sharples J., Sommeijer B., Visser 
P. M., Stroom J. M. (2008), Summer heatwaves promote 
blooms of harmful cyanobacteria, Global Change Biology, 
14, pp. 495-512.
11. Palmer C. M. (1969), A composite rating of algae tolerating 
organic pollution, Journal of Phycology, 5 (1), pp. 78-82.
12. Secretariat of the Convention on Biological Diversity (2009), 
Connecting Biodiversity ad Climate Change mitigation 
and adaptation, report of the Second Ad hoc Technical 
Expert group on Biodiversity and Climate Change.
13. Yang J., Tang H., Zhang X., Zhu X., Huang Y., Yang Z. 
(2018), "High temperature and pH favor Microcystis 
aeruginosa to outcompete Scenedesmus obliquus", 
Environmental Science and Pollution Research, 25 (5), pp. 
4794-4802.
RESEARCH ON THE IMPACT OF CLIMATE CHANGE ON THE 
PHYTOPLANKTON IN HO TAY
Nguyen Tram Anh 
Centre for environment and community research
Trinh Thi Thanh
Vietnam Association for Conservation of Nature and Environment
Doan Huong Mai
Faculty of Biology, VNU University of Sciences
ABSTRACT
Using a series of data on changes in phytoplankton components from 1996 to 2018, a series of data on some 
water quality parameters (pH) from 2010 to 2020 to analyze the impacts of climate change on phytoplankton 
portion and the relationship between current phytoplankton composition and water quality parameters. The 
analysis results show that the genera/ species of algae that can tolerate environmental pollution appear more, 
Cyanobacteria is the dominant species in the phytoplankton community. Temperature promotes algae bloom, 
making pH increase gradually, create a favorable condition to promote the growth of Cyanobacteria. At the 
same time, when algae die, it is an organic source that pollutes the lake. Through this mechanism, climate 
change (increased temperature and extreme heat) will contribute to changing phytoplankton composition 
with more tolerant algae genus and promoting Cyanobacteria to be dominant in phytoplankton communities. 
Key words: Ho Tay, Phytoplantonk, Climate change.
độc và hiện tượng bùng phát tảo. Vi khuẩn Lam đang dần 
trở thành loài có mật độ chiếm ưu thế trong hệ TVPD ở 
Hồ Tây.
Thứ ba, BĐKH (nhiệt độ tăng và nắng nóng kéo dài) sẽ 
góp phần thay đổi thành phần loài TVPD, với các chi và 
loài tảo chịu ô nhiễm sẽ xuất hiện nhiều hơn và vi khuẩn 
Lam tiếp tục chiếm ưu thế trong quần xã TVPD■

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_anh_huong_cua_bien_doi_khi_hau_den_su_phat_trien.pdf