Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ truyền thống (đình, đền, chùa ) chiếm một vị trí

quan trọng trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam, vì vậy được rất nhiều nhà nghiên cứu quan

tâm. Việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu mỹ thuật truyền thống Việt Nam chính là góp phần

thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam của Đảng và Nhà nước.

Ở Thanh Hóa, những di sản văn hóa về nghệ thuật chạm khắc gỗ hiện còn là rất khiêm

tốn so với lịch sử vốn có của nó. Theo thống kê của Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thanh

Hóa, trong 149 ngôi đình đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh, hầu hết đang còn

cấu kiện kiến trúc gỗ. Phần lớn các di vật đình làng đều làm bằng vật liệu hỗn hợp, trong đó

chất liệu gỗ thường sử dụng làm kết cấu khung lực phía trên. Do vậy, thường hư hại sớm, nếu

được chăm sóc bảo dưỡng thường xuyên, tuổi thọ cao nhất cũng không quá 300 - 500 năm

(nhóm gỗ loại 1) nếu thường xuyên được bảo trì. Các bộ phận mau hư hỏng nhất như bộ rui,

mè, đầu đao, cột hiên do tiếp xúc mưa, nước ẩm ướt; nhiều công trình rất khó đoán định niên

đại vì nhiều lần trùng tu, sửa chữa, chắp vá kiến trúc. Thường nửa thế kỷ thì phải sửa chữa,

trùng tu lớn nhằm thay thế các bộ phận cấu trúc gỗ hay tiếp xúc với mưa gió. Do tính phức tạp

trong kỹ thuật kiến trúc gắn liền với hình khối chạm khắc ngay trên một vật kiến trúc (đầu dư,

kẻ bẩy, rường, ván nong, hoành, xà ), vấn đề làm lại, mô phỏng một bức chạm gỗ của người

xưa là rất khó, bởi người nghệ nhân thường có sự tự do thể hiện các nét chạm khắc theo tâm

hồn và vốn văn hóa, ít theo khuôn mẫu sẵn có. Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ truyền

thống ở Thanh Hóa phát triển liên tục, gắn với nhiều công trình đình, đền, chùa , đặc biệt là

hệ thống đình làng. Có đình làng còn giữ những mảng chạm khắc phong cách nghệ thuật thế

kỷ XVI2, có nhiều đình làng kiến trúc gỗ, chạm khắc đẹp, được công nhận là di tích cấp quốc

gia3. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều đình làng đang bị xuống cấp, nhiều mảng chạm khắc đẹp bị

hư hỏng nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, khẳng định giá trị của nghệ thuật kiến

trúc, chạm khắc gỗ đình làng ở xứ Thanh sẽ góp phần thúc đẩy việc bảo tồn, phát huy giá trị

của đình làng nói riêng, di tích ở Thanh Hóa nói chung trong bối cảnh hiện nay.

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 1

Trang 1

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 2

Trang 2

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 3

Trang 3

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 4

Trang 4

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 5

Trang 5

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 6

Trang 6

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 7

Trang 7

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 8

Trang 8

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 9440
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh

Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ đình làng xứ Thanh
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 NGHỆ THUẬT KIẾN TRÖC VÀ CHẠM KHẮC GỖ 
 ĐÌNH LÀNG XỨ THANH 
 TS. Trần Việt Anh1 
 Tóm tắt: Đình làng là một công trình kiến trúc công cộng truyền thống lớn nhất của làng 
xã với chức năng tín ngưỡng, văn hóa và xã hội. Kể từ khi xuất hiện, đình làng luôn gắn bó với 
những vấn đề trọng yếu của làng xã và dân tộc. Chính vì vậy, thông qua đình làng, người ta có 
thể tìm lại diện mạo lịch sử, văn hóa của địa phương nói riêng và dân tộc nói chung qua từng 
thời kỳ, đặc biệt là thông qua nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ. Xứ Thanh trong lịch sử 
luôn được nhìn nhận là một vùng đất giàu truyền thống và có vị thế khá đặc biệt, cho nên đình 
làng xứ Thanh một mặt vẫn mang đặc điểm chung của đình làng Việt, mặt khác, lại mang trong 
mình nét đặc trưng, thể hiện qua nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ. 
 Từ khóa: Đình làng, nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ, Thanh Hóa. 
 1. Đặt vấn đề 
 Nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ truyền thống (đình, đền, chùa) chiếm một vị trí 
quan trọng trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam, vì vậy được rất nhiều nhà nghiên cứu quan 
tâm. Việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu mỹ thuật truyền thống Việt Nam chính là góp phần 
thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam của Đảng và Nhà nước. 
 Ở Thanh Hóa, những di sản văn hóa về nghệ thuật chạm khắc gỗ hiện còn là rất khiêm 
tốn so với lịch sử vốn có của nó. Theo thống kê của Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thanh 
Hóa, trong 149 ngôi đình đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh, hầu hết đang còn 
cấu kiện kiến trúc gỗ. Phần lớn các di vật đình làng đều làm bằng vật liệu hỗn hợp, trong đó 
chất liệu gỗ thường sử dụng làm kết cấu khung lực phía trên. Do vậy, thường hư hại sớm, nếu 
được chăm sóc bảo dưỡng thường xuyên, tuổi thọ cao nhất cũng không quá 300 - 500 năm 
(nhóm gỗ loại 1) nếu thường xuyên được bảo trì. Các bộ phận mau hư hỏng nhất như bộ rui, 
mè, đầu đao, cột hiên do tiếp xúc mưa, nước ẩm ướt; nhiều công trình rất khó đoán định niên 
đại vì nhiều lần trùng tu, sửa chữa, chắp vá kiến trúc. Thường nửa thế kỷ thì phải sửa chữa, 
trùng tu lớn nhằm thay thế các bộ phận cấu trúc gỗ hay tiếp xúc với mưa gió. Do tính phức tạp 
trong kỹ thuật kiến trúc gắn liền với hình khối chạm khắc ngay trên một vật kiến trúc (đầu dư, 
kẻ bẩy, rường, ván nong, hoành, xà), vấn đề làm lại, mô phỏng một bức chạm gỗ của người 
xưa là rất khó, bởi người nghệ nhân thường có sự tự do thể hiện các nét chạm khắc theo tâm 
hồn và vốn văn hóa, ít theo khuôn mẫu sẵn có. Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ truyền 
thống ở Thanh Hóa phát triển liên tục, gắn với nhiều công trình đình, đền, chùa, đặc biệt là 
hệ thống đình làng. Có đình làng còn giữ những mảng chạm khắc phong cách nghệ thuật thế 
kỷ XVI2, có nhiều đình làng kiến trúc gỗ, chạm khắc đẹp, được công nhận là di tích cấp quốc 
1 Khoa Mỹ thuật - Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 
2 Nguyễn Du Chi, Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông “Ngôi đình sớm nhất ở Hoằng Hóa còn lại vết tích 
kiến trúc là Bảng Môn Đình. Đình được tu sửa vào thế kỷ này (TK 17), nhưng vẫn còn lưu giữ được hai vì kèo 
 29 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
gia3. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều đình làng đang bị xuống cấp, nhiều mảng chạm khắc đẹp bị 
hư hỏng nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, khẳng định giá trị của nghệ thuật kiến 
trúc, chạm khắc gỗ đình làng ở xứ Thanh sẽ góp phần thúc đẩy việc bảo tồn, phát huy giá trị 
của đình làng nói riêng, di tích ở Thanh Hóa nói chung trong bối cảnh hiện nay. 
 2. Nghệ thuật kiến trúc 
 Nghệ thuật kiến trúc ở Thanh Hóa hiện còn lưu lại nhiều dấu tích lâu đời, cho thấy sự 
phát triển liên tục và liền mạch của loại hình nghệ thuật này từ thời văn hóa Đông Sơn. Tuy 
nhiên, trải qua quá trình lịch sử, di vật chạm khắc gỗ ở Thanh Hóa còn lại khá hiếm do tính 
không bền vững của chất liệu gỗ, thêm vào đó là những biến cố chính trị - đặc biệt vào thế kỷ 
16 với sự đối đầu của hai thế lực phong kiến Nam Triều - Bắc Triều mà Thanh Hóa là địa bàn 
trọng điểm. Nhưng bù lại, từ thế kỷ 17 -19, xứ Thanh phục hồi kinh tế mạnh mẽ, thu hút một 
số lượng lớn dân di cư từ đồng bằng sông Hồng vào sinh tụ (trong đó có nhiều hiệp thợ mộc 
từ Nam Định, Hà Tây) đồng thời truyền nghề mộc cho thợ địa phương. Charles Robequain 
trong Tỉnh Thanh Hóa (Le Thanh Hoa) cho biết, những người thợ mộc Nam Định đi làm thuê 
ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa đã truyền nghề cho thợ mộc Đạt Tài (Hoằng Hóa)4. Riêng tổng 
Bút Sơn có 3 làng cận kề nhau, có 400 gia đình có người làm nghề mộc, trong đó làng Đạt Tài 
có 300 hộ, còn lại ở Hạ Vũ và Hà Thái. Họ không chỉ là những người thợ biết làm nhà mà còn 
là những người thợ khéo tay chạm trổ điêu khắc tinh xảo5. 
 Kiến trúc đình làng Việt nói chung và đình làng ở Thanh Hóa là kiến trúc công cộng, là 
nền tảng cho nghệ thuật chạm khắc gỗ, nó chỉ phát triển trên một nền tảng kinh tế xã hội phát 
triển. Nếu không có một nguồn lực kinh tế đủ mạnh thì khó có được một công tr ... n đứng trên lưng rồng. Điểm đặc biệt là tiên được tạc không có mắt mũi miệng, không 
biểu hiện khối mà chỉ thể hiện một mảng hình phẳng, hình dung như tiên đang quay lưng ra 
phía ngoài và quanh mặt vào trong với thần linh. Cùng mảng chạm này, các chi tiết xung 
quang đều tạo khối và đường nét rõ ràng. Có thể đoán định rằng, hình tượng tiên nữ cưỡi rồng 
ban đầu cũng được tạc có hình khối chi tiết nhưng qua quá trình lịch sử nhiều lần trùng tu, 
hoặc với một lý do nào đó nên hiện nay hình nét mờ chỉ còn khối nhẵn. Có thể, đây là một chủ 
ý của người đương thời không muốn có hình tượng người phụ nữ trong không gian linh thiêng 
một cách quá chi tiết để giảm bớt tính phàm tục8? Hơn nữa, không gian đình Bảng Môn là 
không gian sinh hoạt chủ yếu của tầng lớp nho sĩ, có thể vì lý do ấy mà người ta đã chấp nhận 
cách tạo tác khối hình phẳng, nhẵn về hình tượng tiên nữ này. Nhìn chung, chỉ có rất ít ỏi hình 
tượng tiên nữ trong kiến trúc của Thanh Hóa thế kỷ 17 - 19 còn lại đến ngày nay. Tuy nhiên, 
hình tượng này được xử lý cơ bản trau chuốt, kết hợp một cách linh hoạt, xen kẽ với mảng 
chạm khắc khác. Về phương diện nào đó, các hình tượng tiên rồng này đã được dân gian hóa, 
gần gũi với hình ảnh của người thường. 
 Ở đình Phú Điền (Hậu Lộc), tại vì nách gian bên hữu, phía Tây ngôi đình có bức chạm 
3 chiến binh cưỡi ngựa giao đấu. Nét chạm gợi khối âm kết hợp với khối nổi không quá 1cm, 
không chạm bong, nhưng hiệu quả diễn cảm khá ấn tượng. Các hình ảnh người đều đóng khố, 
đội mũ Đinh Tự, giống hình dũng sĩ đánh hổ trên hiện vật chạm khắc thế kỷ 17 ở Bảo tàng 
Mỹ thuật Việt Nam phần nào động tác cũng tương tự như hai võ sĩ cưỡi ngựa đấu giáo ở đền 
Đệ Tứ (Mỹ Lộc, Nam Định). Liên hệ xa hơn, các mảng chạm này còn có nét tương đồng với 
đề tài tương tự nổi tiếng của người Chăm (hiện vật ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đà Nẵng), 
8 Chu Quang Trứ (2003), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật: “Những chạm nổi trong một số đình thuộc thế kỷ 
16 và chạm lộng trong nhiều đình ở nửa cuối thế kỷ 17 sang đầu thế kỷ 18 thể hiện rất rõ xã hội Việt Nam và con 
người Việt Nam. Kỷ cương phong kiến nghiệt ngã với tôn ti trật tự khắt khe “quốc quân thần, gia phụ tử”, ràng 
buộc người phụ nữ trong cái gông “tam tòng”, cấm đoán “nam nữ thụ thụ bất thân”...[tr.134] 
 33 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
mỗi dũng sĩ cầm một binh khí khác nhau, ngựa trong tư thế đang đuổi nhau, hai chân trước co 
lại, hai chân sau duỗi. Trong không gian thâm nghiêm của ngôi đình hiện nay khó nhận thấy 
được hình ảnh này do vị trí trên cao và nằm ở mặt trong xà nách. Đây là đề tài khá đặc biệt, vì 
thông thường, ở đình làng, người ta hay chạm khắc những hình tượng liên quan đến đời sống 
sinh hoạt ở thôn dã hay hình tượng về ước mong của người dân thời bấy giờ về một cuộc sống 
tươi đẹp, mùa màng bội thu thông qua hình ảnh thần linh, vật linh. Đặt trong ngôi đình Phú 
Điền gắn với vị anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh và cuộc khởi nghĩa oai hùng đầu Công 
nguyên, có thể tạm giải thích là người đương thời như muốn nhắc nhở con cháu luôn luyện 
tập để giữ gìn giang sơn. 
 Nhóm đề tài gắn với hình tượng chạm khắc tứ linh, tứ quý và biểu hiện thần linh khác 
tiêu biểu như ở đình Đông Môn (Vĩnh Lộc), đình Trung (Hà Trung), đình làng Gạo (Bỉm 
Sơn), đình Vĩnh Trị (thành phố Thanh Hóa)... 
 Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thanh Hóa có một đặc trưng riêng, mật độ chạm khắc 
không cao bằng các đình ở đồng bằng Bắc Bộ, trang trí nội thất giản đơn hơn, chưa thấy có đồ 
án trang trí chia nhiều cấp độ trên nền đình như kiểu đình Tây Đằng hay đình Thụy Phiêu. 
Nhiều nền đình làng vẫn là nền đất, ngoại thất ít tô điểm, phần lớn sân đình rộng nhưng chỉ là 
sân cỏ cho thấy sự không hoàn thiện, dở dang do điều kiện kinh tế không đảm bảo kéo dài 
khiến cho người thợ không thể hoàn thiện xây dựng theo ý muốn. Tuy vậy, việc chạm trổ 
trang trí trên bộ khung kết cấu gỗ đã được chú trọng tại những vị trí trung tâm như các mặt 
của hai bộ vì gian giữa, mặt trong bộ vì nóc hai gian chái. 
 Nếu nghệ thuật chạm khắc gỗ đình làng ở Bắc Bộ theo một mạch nguồn có từ thời 
Mạc, là sự tô vẽ thêm cho cuộc sống thanh bình chốn làng quê, khẳng định những giá trị tự 
chủ làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ và biểu hiện mong cầu hạnh phúc; thì nghệ thuật chạm 
khắc gỗ đình làng Thanh Hóa lại chú trọng đến việc đề cao sức mạnh siêu linh, hoài niệm 
hình tượng về một thế giới thần tiên, như một cách tương phản về thực tại khốn khổ chốn 
thôn quê bị dày vò suốt hơn 100 năm nội chiến ở thế kỷ 16- 17 mà Thanh Hóa là địa bàn 
trọng yếu. Mặt khác, có thể thấy, việc đề cao hình tượng thần linh, tứ linh, tứ quí, theo nhà 
nghiên cứu Lê Văn Tạo, Hà Đình Hùng còn là biểu hiện về sự tôn sùng nho giáo9. 
 Nội dung, đề tài chạm khắc gỗ đình làng Thanh Hóa cơ bản tiếp nối mạch nguồn 
truyền thống nghệ thuật chạm khắc gỗ vùng đồng bằng Bắc Bộ vốn là trung tâm văn hóa lớn 
đương thời có sức lan tỏa mạnh mẽ đến các vùng khác. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rất rõ sự 
phản ánh tinh thần xã hội nông thôn xứ Thanh này một cách sâu đậm qua các mảng chạm. 
Chạm khắc gỗ đình làng ở Thanh Hóa ít thấy sự ồn ào, náo nhiệt, lãng mạn của các hoạt cảnh 
minh họa dân gian trên cấu kiện kiến trúc như đình Hương Canh, đình Tây Đằng, Chu Quyến, 
Hạ Hiệp, Thụy Phiêu của xứ Đoài. Thay vào đó là sự trang trọng, trầm tĩnh với các hoạt cảnh 
9 Lê Văn Tạo- Hà Đình Hùng (2008), Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ truyền thống ở Thanh Hoá “Khác hẳn 
với đình làng Bắc Bộ, đình làng Thanh Hóa, ít thấy có đề tài chạm khắc cảnh sinh hoạt nông thôn đương thời, 
chủ yếu chạm khắc hình tượng, biểu tượng thiêng liêng như các tứ linh, tứ quý. Phải chăng, đó là một cách phản 
ánh một không gian văn hóa nho giáo đậm đặc trong làng xã xứ Thanh ở thế kỷ 17 - 18” [tr. 172]. 
34 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
thiên thần, tứ linh, tứ quý và thảng hoặc là những đồ án mang đầy tính ẩn dụ “nhân hóa” từ 
thiên nhiên như chạm khắc ở đình Thượng Phú và đình Đông Môn. 
 Mật độ chạm khắc gỗ trên kiến trúc đình làng ở Thanh Hóa thường thấp hơn so với di 
tích đồng bằng Bắc Bộ. Diện tích chạm khắc che phủ bề mặt kiến trúc trong đình làng ở 
Thanh Hóa đạt từ 20 - 30%, chủ yếu chạm khắc tập trung ở các vị trí: vùng bụng lợn, vì nóc, 
ván dong, vì nách, xà hoành, câu đầu, bẩy hiên. Trong khi đó, đình làng đồng bằng Bắc Bộ có 
mật độ chạm khắc cao hơn hẳn. Chúng tôi cho rằng, kinh tế xã hội nông thôn đồng bằng Bắc 
Bộ thế kỷ 16 - 18 có những thuận lợi hơn, cởi mở hơn và sự nông nhàn, “khoan thư sức dân” 
cho phép người thợ mộc có được nhiều cơ hội, thời gian say mê sáng tạo nhiều hơn. 
 3.2. Phong cách tạo tác 
 Thông thường, mỗi mảng chạm của đình làng còn lại đến ngày nay cũng phải trải qua 
nhiều lần trùng tu tôn tạo. Ở đình làng có thể có nhiều lớp phong cách tạo tác khác nhau do 
thời gian, do xuất phát từ những đặc thù kinh tế, xã hội làng quê, sự hạn chế về tính tự quản, 
mức độ phát triển kinh tế làng xã, vấn đề ruộng công ở làng quê bị thu hẹp, vai trò chi phối 
của tầng lớp quan tướng Tuy nhiên, qua các mảng chạm còn lại của đình làng xứ Thanh, 
chúng ta có thể nhận biết được các nhóm phong cách chạm khắc chủ yếu sau đây: 
 Nhóm phong cách chạm khắc gỗ thế kỷ 17:Tiếp tục bảo lưu phong cách thế kỷ 16 
nhưng bắt đầu chú trọng bố cục chặt chẽ hơn, kết hợp tạo khối và tạo hình, giai điệu nét và 
khối giàu gợi cảm hơn. Tuy nhiên, về độ cao của khối vẫn chỉ ở mức tối đa khối dương 7cm, 
bỏ cách tạo khối âm, nét trơn như phong cách thế kỷ 16. Tiêu biểu như chạm khắc nội thất 
đình Bảng Môn. Phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ đình làng ở Thanh Hóa ảnh hưởng 
nghệ thuật đồng bằng Bắc Bộ, thể hiện chủ yếu ở hậu cung đình Bảng Môn, các mảng chạm ở 
đình Thượng Phú Kỹ thuật chủ yếu chạm nông, khối dương chừng 1-1,5cm, khối âm đục 
xuống nền gỗ 1cm, bố cục giản đơn, ít chú tạo diễn khối, hay tả thực mà chủ yếu biểu đạt hình 
tượng, đến cuối thế kỷ 17, kỹ thuật chạm bong, kênh đã xuất hiện với độ cao hơn nền 7 - 
10cm với đại diện điển hình là chạm khắc gỗ ở đình Trung, đình Phú Điền... 
 Nhóm phong cách chạm khắc gỗ thế kỷ 18:Thường kết hợp nhiều kỹ thuật chạm bong, 
kênh, lộng nhưng chủ đề chú trong đến trang trí kiến trúc nhiều hơn là diễn ý nên khối bong 
không cao hơn nền 10 - 12cm, tập trung ở hình tượng rồng phượng là chủ yếu. Tiêu biểu 
nhóm này như ở đình Phú Điền, đình Trung. Nhóm phong cách chạm khắc thế kỷ 17-18 khá 
tinh tế và có khả năng biểu đạt sinh động mà thời sau khó đạt được. 
 Nhóm phong cách chạm khắc gỗ thế kỷ 19: Có đặc trưng khối bong nhô khỏi mặt nền, 
độ cao hơn mặt nền từ 15 - 20cm, nhiều hình tách khỏi mặt nền như tượng tròn. Thời kỳ này 
đã kết hợp mạnh mẽ các phong cách chạm nông - sâu, sắc - mềm, mau - thưa, căng - dẹt một 
cách linh hoạt tùy theo mỗi đồ án, đề tài cụ thể. Tiêu biểu nhóm phong cách này là các chạm 
khắc ở đình Đông Môn. 
 Căn cứ số liệu ghi trên thượng lương hay bia ký tại các công trình cho thấy có 3 nhóm: 
(1) các đình làng còn đầy đủ đơn nguyên kiến trúc như nhà đại đình, hậu cung phong cách 
nghệ thuật sớm, như đình Bảng Môn, hiện trong hậu cung vẫn còn một số mảng chạm khắc có 
phong cách nghệ thuật thế kỷ 16 và thế kỷ 17; (2) các di tích có phong cách nghệ thuật cuối 
 35 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
thế kỷ 17, 18 như đình Thượng Phú, đình Phú Điền, đình Trung; (3) các di tích có phong 
cách nghệ thuật cuối thế kỷ 18, 19 như đình Đông Môn, đình Gia Miêu. 
 3.3. Kỹ thuật thể hiện 
 Kỹ thuật và phương pháp biểu đạt hình tượng trong nghệ thuật chạm khắc gỗ đình 
làng ở Thanh Hóa có những giá trị mới. Đó là sự thể hiện bản sắc riêng của văn hóa địa 
phương do nghệ nhân đã học tập các bố cục, chủ đề ở di tích có trước vùng đồng bằng Bắc Bộ 
nhưng biến cải, sáng tạo làm mới như hình tượng mèo bắt chuột, hình tượng người cướp lục 
lạc nghê ở đình Thượng Phú, hình tượng người tập trận ở đình Phú Điền... Sự chú trọng chạm 
khắc lồng kết nhiều phương pháp tạo hình trên một đồ án, phát huy tối đa hiệu quả của chạm 
nét âm, chạm nổi khối bong, chạm kênh, chạm lộng để tạo hiệu ứng ánh sáng đa diện, đa lớp 
một cách huyền diệu... Đó là các đồ án chạm hình rồng ổ ở đình Đông Môn, đình Phú Điền, 
đình Trung đã mang được giá trị điển hình. Việc kết hợp kinh nghiệm kỹ thuật chạm khắc tinh 
tế, đầy chất lãng mạn của nghệ nhân vùng đồng bằng Bắc Bộ ở các đình làng tiêu biểu như 
Chu Quyến, Tây Đằng, Hạ Hiệp, Phiêu Kỵ, Thổ Tang với phong cách chạm khắc khúc triết, 
tiết tấu mạnh mẽ trong tạo khối của nghệ nhân Thanh Hóa đã tạo nên những đồ án trang trí 
mới như ở đình Đông Môn, Thượng Phú... Đình làng Thanh Hóa thường hạn chế chiều cao 
dẫn đến các đồ án chạm khắc gỗ thường mang tính nhấn đậm ở những vị trí quan trọng hơn là 
khuynh hướng muốn phủ kín bề mặt nội thất công trình như ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mặt 
khác cho thấy, tính mặc định cao trong biểu đạt nghệ thuật chạm khắc gỗ ở Thanh Hóa, người 
nghệ nhân coi trọng thủ pháp lấy ý diễn hình là chủ yếu, như bố cục một người, đến hai người 
trong một đồ án trang trí, so với các mảng chạm khắc ở đình làng đồng bằng Bắc Bộ thường 
bố cục nhiều người trong một đồ án trang trí, tức lấy hình diễn ý. Đồng thời, việc ít phát huy 
chiều cao mà tận dụng nhiều không gian bề ngang trong các đình làng ở Thanh Hóa cũng gợi 
tính mức độ về mật độ dân cư ở thời kỳ này. 
 4. Tạm kết 
 Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ đình làng ở Thanh Hóa thể hiện những tương đồng 
với nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ đình làng Bắc Bộ trong kỹ thuật và biểu đạt hình 
tượng. Qua đó cho thấy, hiệu quả của sự kết hợp tay nghề của các tốp thợ vùng Nam Định, Hà 
Tây khi đến Thanh Hóa sinh sống từ thế kỷ16 - 19 cùng sự nỗ lực tiếp thu của nghệ nhân sở 
tại để đạt được những bước tiến nhất định trong tạo hình dân gian. Đó là khả năng miêu tả, 
dụng ý và khả năng xử lý trang trí bề mặt kiến trúc một cách độc đáo. Đặc biệt, việc chạm 
khắc gỗ được che phủ và sinh động hóa tại các vị trí kiến trúc vốn dễ phơi bày nhược điểm 
cấu kiện. Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình làng Việt nói chung và đình làng Thanh Hóa nói 
riêng có thể xem là những tín hiệu, ngôn ngữ, thông điệp đặc biệt của cộng đồng dân cư ở 
làng quê. Mỗi ngôi đình làng chạm khắc gỗ có thể được xem là một bảo tàng nghệ thuật và 
lịch sử độc đáo. Xã hội ngày nay sẽ ngày một giàu hơn, nhưng di sản văn hóa, đặc biệt là di 
sản từ chất liệu gỗ thì rất hữu hạn. Đây là những tư liệu gốc để nhìn vào nó và phần nào giải 
mã được, có thể tạo niềm tự tôn dân tộc mạnh mẽ trong lớp trẻ hôm nay và tương lai... 
36 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 Tài liệu tham khảo 
 [1]. Nguyễn Thế Ẩm (1991), “Bảng Môn Đình, mỹ tục và lễ hội truyền thống”, Kỷ 
yếu hội thảo Văn hóa làng Thanh Hóa, Sở Văn hóa, Thông tin Thanh Hóa, tr 143 - 146. 
 [2]. Nguyễn Văn Cương (2009), “Đặc trưng kiến trúc đình làng đồng bằng Bắc Bộ”, 
tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 303. 
 [3]. Nguyễn Du Chi (2011), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Nxb Văn hóa 
Dân tộc, Hà Nội. 
 [4]. Trần Lâm Biền (2017), Đình làng Việt (châu thổ Bắc Bộ), Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 
 [5]. Huy Sanh (1991), “Nét đặc trưng Văn hóa làng qua cái đình”, Kỷ yếu hội thảo 
Văn hóa làng Thanh Hóa, Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa, tr 87 - 91. 
 [6]. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1998), Đình Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh. 
 [7]. Lê Văn Tạo, Hà Đình Hùng (2008), Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ truyền 
thống ở Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa. 
 [8]. Phạm Tuấn (2007), “Vài nét thoáng qua về kiến trúc gỗ truyền thống Thanh Hóa”, 
tạp chí Di sản Văn hóa, số 1(18), tr 91 - 93. 
 [9]. Lê Huy Trâm (1991), “Hội làng trong văn hóa làng”, Kỷ yếu hội thảo Văn hóa 
làng Thanh Hóa, Sở Văn hóa, Thông tin Thanh Hóa, tr 181 - 194. 
 [10]. Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2018), tài liệu hội 
thảo khoa học “Giải pháp bảo tồn phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của đình làng ở Thanh 
Hóa trong giai đoạn hiện nay”. 
 [11]. Viện Bảo tồn Di tích (2017), “Kiến trúc đình làng Việt qua tư liệu Viện Bảo tồn 
Di tích”, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 
 ARCHITECTURE AND WOOD CARVING ART ON COMMUNAL 
 HOUSES IN THANH LAND 
 Tran Viet Anh, Ph.D 
 Abstract: The communal house is the largest traditional public architecture promoting 
the function of religion, culture and society in the village. Since its appearance, the communal 
house is always attached to the key issues of the village and the nation. Thanks to the 
communal house, especially the architecture and wood carving art, people can find the 
historical and cultural imprints of the locality in particular and the nation in general. In 
history, Thanh land has always been recognized as a land rich in tradition so communal 
houses are covered with not only the common characteristics of Vietnamese communal house 
but also unique features reflected in the architure and wood carving art. 
 Key words: communal house, architure and wood carving art, Thanh Hoa 
Người phản biện: TS. Lê Thị Thảo (ngày nhận bài 03/12/2018; ngày gửi phản biện 05/12/2018; 
ngày duyệt đăng 05/01/2019). 
 37 

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_kien_truc_va_cham_khac_go_dinh_lang_xu_thanh.pdf