Nghệ thuật cải lương
Vài nét lịch sử
Hai tiếng "Cải lương" có
nghĩa là "Sửa đổi cho tốt
hơn". Từ xưa ở Việt Nam
không có lối diễn tuồng nào
khác hơn là hát Chèo hay hát
Tuồng (ở Bắc Phần) và hát
bội (ở Trung và Nam Phần).
Ðến 1917, khi cải lương ra
đời, người mình nhận thấy
điệu hát này có thể tân tiến hơn điệu hát bội, nên cho đó là một việc cải
thiện điệu hát xưa cho tốt hơn. Vì lẽ ấy người mình dùng hai tiếng "Cải
lương" để đặt tên cho điệu hát mới mẻ này.
Trước kia ở rải rác trong các tỉnh Nam Phần (Nam bộ) có những ban tài
tử đờn ca trong các cuộc lễ tư gia, tân hôn, thăng quan, giỗ,. Nhưng
không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công chúng. Qua năm
1910, ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều, tục gọi Tư Triều
gồm bản thân Tư Triều (chơi đờn kìm), Chín Quán (đờn độc huyền),
Mười Lý (thổi tiêu), Bảy Vô (đờn cò),Cô Hai Nhiễu (đờn tranh) và Cô
Ba Ðắc (ca). Ban tài tử này đờn ca rất hay vì phần đông đã được chọn đi
trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp mới về.
Năm 1911, Nguyễn Tống Triều muốn đưa ca nhạc ra trước công chúng,
nên thương lượng với chủ nhà hàng "Minh Tân khách sạn" ở ngang ga xe
lửa Mỹ Tho – Sài Gòn để ban tài tử đờn ca giúp vui cho thực khách.
Người đến nghe ngày càng đông. Nhận thấy sáng kiến này có kết quả
khả quan, Thầy Hộ, chủ rạp hát bóng Casino, phía sau chợ Mỹ Tho,
muốn cho rạp hát mình đông khán giả bèn mới ban tài tử đến trình diễn
mỗi tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu và đã được công chúng hoan
nghênh nhiệt liệt.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật cải lương
Nghệ thuật Cải lương . Vài nét lịch sử . Vì sao cải lương được nhiều . Ðặc điểm người đón nhận? . Âm nhạc . Mỗi người một câu hỏi . Âm điệu . Ðời thường nghệ sỹ. . Vọng cổ hoài lang . Chân dung nghệ sỹ Vài nét lịch sử Hai tiếng "Cải lương" có nghĩa là "Sửa đổi cho tốt hơn". Từ xưa ở Việt Nam không có lối diễn tuồng nào khác hơn là hát Chèo hay hát Tuồng (ở Bắc Phần) và hát bội (ở Trung và Nam Phần). Ðến 1917, khi cải lương ra đời, người mình nhận thấy điệu hát này có thể tân tiến hơn điệu hát bội, nên cho đó là một việc cải thiện điệu hát xưa cho tốt hơn. Vì lẽ ấy người mình dùng hai tiếng "Cải lương" để đặt tên cho điệu hát mới mẻ này. Trước kia ở rải rác trong các tỉnh Nam Phần (Nam bộ) có những ban tài tử đờn ca trong các cuộc lễ tư gia, tân hôn, thăng quan, giỗ,... Nhưng không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công chúng. Qua năm 1910, ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều, tục gọi Tư Triều gồm bản thân Tư Triều (chơi đờn kìm), Chín Quán (đờn độc huyền), Mười Lý (thổi tiêu), Bảy Vô (đờn cò),Cô Hai Nhiễu (đờn tranh) và Cô Ba Ðắc (ca). Ban tài tử này đờn ca rất hay vì phần đông đã được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp mới về. Năm 1911, Nguyễn Tống Triều muốn đưa ca nhạc ra trước công chúng, nên thương lượng với chủ nhà hàng "Minh Tân khách sạn" ở ngang ga xe lửa Mỹ Tho – Sài Gòn để ban tài tử đờn ca giúp vui cho thực khách. Người đến nghe ngày càng đông. Nhận thấy sáng kiến này có kết quả khả quan, Thầy Hộ, chủ rạp hát bóng Casino, phía sau chợ Mỹ Tho, muốn cho rạp hát mình đông khán giả bèn mới ban tài tử đến trình diễn mỗi tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu và đã được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Sân khấu thời bấy giờ cũng được dàn dựng rất đơn giản. Cái màn bạc dùng làm bối cảnh (fond), kế đó có lót một bộ ván, trước bộ ván có để cái bàn chưn cheo. Hai bên sân khấu có để cây kiểng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem thật nghiêm trang. 1 Sáng kiến đưa đờn ca tài tử lên sân khấu của Tư Triều từ năm 1912 tại Mỹ Tho đã lan tràn đến Sài Gòn và nhiều tỉnh ở Nam Phần. Năm 1913 – 1914, chủ nhà hàng ở sau chợ Mới, Sài Gòn, là "Cửu long giang" nghe danh tiếng ban tài tử nên đã xuống tận nơi để mời về. Ông Năm Tú là người có công nhất trong việc gây dựng lối hát Cải lương buổi ban đầu. Ông mướn thợ vẽ tranh cảnh phỏng theo lối trang trí rạp hát Tây Sài Gòn. Ông mua sắm y phục cho đào kép khá chu đáo và nhờ nhà văn Trương Duy Toản soạn tuồng. Ông cất một cái rạp hát rộng lớn và đẹp đẽ gần chợ Mỹ Tho để cho ban ca kịch của ông trình diễn. Ðiệu hát cải lương chính thức hình thành từ đó và ngày càng phát triển mạnh, nhiều Ban được thành lập. Có thể nói, sân khấu cải lương là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chính xác hơn là xã hội Nam bộ lúc bấy giờ. Chính vì vậy nó trưởng thành rất mau. Vài ba năm đầu thập kỷ 20, nó còn đang chập chững những bước đầu tiên. Năm 1931 nó đã chính thức được giới thiệu ở ngoài nước với danh nghĩa một loại hình nghệ thuật hiện đại ngang hàng tuồng chèo đã có nhiều thế kỷ lịch sử. Nó ra đời thu hút được đông đảo khán giả và hát bội chịu phần thua kém. Từ Nam Kỳ nó Bắc tiến và tuồng, chèo dần dần nhường bước. Trong hơn nửa thế kỷ, sân khấu cải lương vượt xa các loại hình sân khấu khác về thế mạnh, có thời kỳ nó giữ địa vị độc tôn, thu hút khán giả nhiều hơn các loại sân khấu khác, chỉ kém có điện ảnh. Tìm về nơi đầu nguồn của sân khấu cải lương, người ta gặp những sự kiện xã hội, lịch sử sau đây: Nam Bộ, xứ Nam kỳ cũ, vốn có một phong trào ca nhạc tài tử. Nó là sự phát triển của phong trào đàn cây. Trong các cuộc tế lễ, ma chay, người ta mời ban nhạc tới diễn tấu, không dùng các loại trống, kèn và các loại nhạc cụ gõ khác và chơi một số bản của nhạc lễ có viết thêm lời ca và một số bản của nhã nhạc từ miền Trung đi vào. Phong trào này dần dần phát triển sâu rộng khắp toàn dân. Nhạc cụ được bổ sung, cải tiến. Người ta thêm vào các bài ca nhạc dân gian hoặc sáng tác thêm những bài hát mới. Các địa phương có những ban ca nhạc tài tử nổi tiếng với các danh cầm như: Ba Ðại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Bảy Triều... và các danh ca như Ba Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc... tiếng tăm đồn đại khắp nơi. Phong trào ca nhạc tài tử lôi cuốn mọi giới đồng bào nhất là công chức, thợ thủ công, nông dân, công nhân. Khởi đầu, nhạc và lời ca được biểu hiện qua hình thức Ca-ra-bộ (một trình thức diễn xuất thô sơ) với một số nghệ nhân không chuyên, được phục vụ trong những buổi tiệc tùng, giải trí, trà dư tửu hậu ở thôn xóm và bài ca được hâm mộ nhất thời bấy giờ là "Bùi Kiệm thi rớt trở về". Ca-ra-bộ được đông đảo quần chúng hâm mộ, dần dần phát triển và con đường phát triển tất yếu của nó là đi vào nghệ thuật sân khấu, biến hát bội thành "hát bội pha cải lương" rồi tiến lên chuyển mình thành một loại 2 hình riêng để diễn các loại tuồng tàu, ... ũng gọi là đờn Nhị, có hai dây tơ, không có phím và dùng cây cung để kéo ra tiếng. Ðờn Cò là cây đờn đắc dụng nhất của âm nhạc Việt Nam. Nó chẳng khác nào cây Violon trong âm nhạc Âu Mỹ. Luôn luôn có mặt torng hát Bội, Cải lương, nhạc Tài tử,... 4. Ðờn Sến: Cây Sến có hai dây tơ và có đủ bậc như cây Banjo, nên đờn ít nhấn và có nhiều chữ lợ nghe ngộ. Có khi đờn ba dây nghe hơi như đờn Tỳ. 5. Guitare: Cây Guitare cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm, có sáu dây kim, nhưng thường đờn có năm dây. Tiếng thanh như đờn Tranh, khi đờn bực cao. 11 6. Violon: Cây Violon, cũng có tên là Vĩ Cầm, có bốn dây tơ và cung kéo như đờn Cò. đờnnày dùng phụ họa với cây Guitare hay cây Tranh để đờn Vọng cổ nghe hay, nhưng ít dùng đờn các bản khác vì tiếng nó kêu lớn làm lấn áp mấy cây đờn kia. 7.Cây Sáo: Cây hay ống Sáo, hoặc ống Tiêu, cũng có dùng trong điệu Cải lương, nhưng nó có một bậc Hò, không thay đổi. Thành thử người ta phải theo bậc Hò bất di bất dịch ấy. 8. Cây Cuỗn: Cây Cuỗn giống như cây Kèn, nhưng không có cái Loa. Âm điệu Bài ca Cải lương đặt theo bản đờn, nên kịch sỹ phải tùy âm nhạc, không được tự do phô diễn hết tài năng của mình như trong điệu hát Bội. Ca dư hơi thì trễ đờn, còn thiếu hơi dứt trước đờn. Kịch sỹ bị bó buộc trong khuôn khổ nhịp đờn, dầu có hơi hám nhiều cũng không thể vượt ra ngoài nhịp vì sợ ca lỗi nhịp.Lúc sau này, trong điệu Cải lương có bản Vọng cổ thêm nhiều nhịp. Bài ca vọng cổ đặt không ăn sát câu đờn, miễn vô đầu và dứt câu đờn, ca cho trúng hơi, trúng nhịp. Nhờ vậy, có nhiều kịch sỹ được tự do phô bày hết khả năng của mình. (Nghệ sỹ Thanh Thanh Tâm) Một khuyết điểm thứ hai là đương nói chuyện kế bắt qua ca. Trừ một ít danh ca biết cách "mở hơi" cho câu ca của mình có hứng thú, còn phần đông vô ca nghe khô khan lã chã lắm, không có mùi vị chút nào. Lỗi ấy một phần do ban âm nhạc thờ ơ, không thuộc chỗ nào sắp ca đặng giao đờn trước hầu gợi ý cho khán giả có cảm giác vui buồn trước khi nghe ca, như bên âm nhạc hát Bội. Cải lương được chỗ ưu điểm là nhờ âm nhạc biết tùy hơi cao thấp của kịch sĩ để lên dây Hò, nên kịch sỹ ca đúng hơi "thiên phú" của mình không rán hơi quá như bên hát Bội. Thế nào là một giọng ca cải lương hay? 12 Cải lương có những làn điệu bài bản cố định, từ đó nhạc sỹ thiết kế để phù hợp với tâm trạng từng nhân vật. Trong ngần ấy mẫu gốc, làn điệu cơ bản, hát thế nào cho hay, cho đẹp, có hơi ấm tình cảm và bản sắc riêng hoàn toàn phụ thuộc vào tài nghệ điều khiển, thao túng nhịp điệu của từng diễn viên hát cải lương. Yếu tố hàng đầu cho một giọng ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền cảm. Một giọng ca hời hợt, chỉ thấy lời mà không thấy lòng người, không phải là giọng ca hay. Ngay cả một giọng ca điêu luyện về kỹ thuật mà không có linh cảm, có cái "hồn" thì cũng chỉ là một giọng ca chết, không sinh khí. Một giọng ca hay là giọng ca lột tả đến cùng tình cảm của câu hát, của tâm trạng nhân vật bằng tất cả rung động của trái tim người hát và bằng cả quá trình khổ luyện, tìm ra được cách biểu hiện tốt nhất. Khi nội dung bài hát đã thấm vào lòng diễn viên, đã biến thành máu thịt, thì các kỹ thuật gieo câu, nhả chữ, ngừng lặng, luyến láy, đều là kết quả sự xúc động tình cảm sâu sắc của người hát. Một người rất ít nghe cải lương, thậm chí chưa nghe bao giờ, cũng có thể xúc động khi nghe một giọng ca truyền đạt chính xác sắc độ tình cảm của lời bài hát, của nhân vật như: yêu thương, nhớ nhung, buồn bã hoặc căm uất, giận hờn... Tùy cách chế ngự điều khiển của từng diễn viên với bài bản cải lương, sẽ quyết định từng màu sắc riêng biệt của mỗi giọng ca. Mỗi người sẽ tạo ra một chất giọng riêng, không lẫn vào đâu được. Và người ta dễ dàng nhận ra một Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Mỹ Châu... hay út Trà ôn, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh... trên sân khấu phía Nam. Một giọng ca hay trên sân khấu chỉ có thể được coi là hoàn hảo nếu không tách rời nghệ thuật sân khấu biểu diễn. Vì vậy, tiêu chuẩn thứ hai của giọng ca hay là biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa ca và diễn. Nếu 13 diễn viên chỉ chú ý đến lời hát mà không quan tâm đến nhân vật thì khán giả chỉ có thể nhớ đến con người thật của anh ta chứ hoàn toàn không gắn với một hình tượng nhân vật nào cả. Ðiều đó giống như là nghe hát những bài vọng cổ hơn là một vai diễn ca hay. Ngược lại, nếu diễn viên diễn xuất thật hay mà ca dở thì mọi người lại không nghĩ mình đang xem cải lương! Cần thiết phải có sự kết hợp hài hòa, nếu không xem như thất bại. Trong cải lương, giọng ca là vô cùng quan trọng nhưng không phải là tất cả. Vì thế, có được một giọng ca "trời phú" thì cần phải rèn luyện, trau dồi để ngày càng tiến bộ hơn với những vai diễn thật sự có "hồn". Vọng cổ hoài lang Người yêu, yêu đến si tình, nhưng người ghét thì ghét cay, ghét đắng. Chỉ nghe tên đã muốn đào đất đổ đi, có khi vì sự ghen ghét ấy mà sân khấu cải lương cũng bị vạ lây. Có lẽ vì thế mà sau khi ra đời bài Vọng cổ đã phải bao lần thay tên, đổi họ "hóa thân", mới sống được tới ngày hôm nay. Dạ cổ hoài lang (Vọng cổ hoài lang) ra đời được hơn nửa thế kỷ. Nó đã làm cho nền móng cho nhiều bài vọng cổ không ngừng phát triển. Ðó là một hiện tượng có liên quan đế cuộc đời tác giả-nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Xuất thân từ một gia đình bần nông thuộc tỉnh Long An (trước là Tân An), lúc lên sáu tuổi, nhạc sĩ đã phải cam chịu cảnh bị áp bức bóc lột như muôn ngàn gia đình nông dân nghèo khổ khác. Tuy còn nhỏ nhưng cậu bé Cao Văn Lầu đã chứng kiến nhiều sự ngang trái trong cuộc sống tha phương cầu thực, rày đây mai đó, hết làm nghề này lại chuyển sang nghề khác và trong con tim nhỏ bé đã chớm nở dần những xúc cảm về cuộc đời. Từ khi gia đình định cư ở một vùng đất biển Bạc Liêu thì tính nghệ sĩ của chàng trai ngày càng được thể hiện rõ rệt. Ðược sự dạy bảo cẩn thận về âm nhạc của lão nghệ sĩ Hai Khị, Cao Văn Lầu bắt đầu cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp âm nhạc. Nhạc sĩ rất thành thạo về môn nhạc lễ và nhạc tài tử khi nhạc sĩ đang độ 20 tuổi và cũng đồng thời với phong trào "ca ra bộ" bắt đầu phát triển ra khắp lục tỉnh Nam Kỳ lúc bấy giờ. 14 Bản Vọng cổ trước hết có tên là Dạ cổ được nhạc sỹ Cao Văn Lầu sáng chế hồi năm 1920 (sau ba năm khi cải lương ra đời). Sanh 1890, ông Sáu Lầu được 30 tuổi khi ông chế bản Vọng cổ. Lúc ấy ông cưới vợ được 10 năm, nhưng không có con. Cha mẹ ông buộc phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự. Ông buồn rầu không còn muốn làm ăn gì nữa. Ban ngày ra ngoài đồng, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói trước khi chia tay. Ông biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng người chồng đau khổ trước cảnh gia đình tan rã, ông cảm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi "Dạ cổ hoài lang" (Ðêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng), có ý để kỷ niệm mối tâm tình của vợ ông với ông. Không biết có phải ông trời vì thấu hiểu và cảm thông cho đôi vợ chồng mà ít lâu sau, vợ ông thụ thai... Về sau, bản nhạc ấy được đổi tên là "Vọng cổ hoài lang" cho rộng nghĩa thêm (Trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng). Biên bản nguyên thủy của "Dạ cổ hoài lang" của ông Sáu Lầu như sau: Từ là từ phu tướng, Bửu kiếm sắc phong lên đàng. Vào ra luống trông tin chàng, Ðêm năm canh mơ màng. Em luống trông tin nhàn Ôi, gan vàng quặn đau Ðường dầu xa ong bướm, Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang Còn đêm luống trông tin bạn Ngày mỏi mòn như đá vọng phu Vọng phu vọng, luống trông tin chàng, Lòng xin chớ phụ phàng 15 Chàng hỡi chàng có hay, Ðêm thiếp nằm luống những sầu tây. Biết bao thuở đó đây xum vầy, Duyên sắt cầm đừng lạt phai. Thiếp cũng nguyện cho chàng, Nguyện cho chàng hai chữ bình an Mau trở lại gia đàng Cho én nhạn hiệp đôi. Bài Dạ Cổ Hoài Lang không những khái quát được tâm tư tình cảm của một lớp người ở thời đại đó, mà còn nêu lên tính độc đáo của một loại hình mới về nghệ thuật âm nhạc được phát triển dựa trên những đường nét cổ truyền. Ðiều này đã nói lên bản lĩnh của tác giả do được rèn luyện và tích lũy vốn nghệ thuật dân gian lâu đời một cách vững chắc. Nó hoàn toàn thoát ly những đường nét định hình của nền nhạc truyền thống, không chạm trổ hoa mỹ, không dài dòng văn tự như một số bài bản trong nền cổ nhạc. Về cấu tạo âm hưởng đó là sự phối hợp một cách khéo léo những điệu thức khác nhau làm cho tác phẩm được tăng cường sức hấp dẫn và sự thể hiện phong phú về mặt hình tượng nghệ thuật, khiến cho người nghèo cảm như thấy có cuộc đời của mình ở trong đó. Trong cái buồn man mác có chất chứa nỗi oán hờn tủi nhục. Bài Dạ Cổ Hoài Lang không phải là bài ca tâm sự của một con người cụ thể. Nó đã hòa đồng nỗi lòng của một con người trong nỗi lòng của hàng triệu con người khác đang phải sống một cuộc đời cơ cực. Dạ cổ hoài lang là một bản vọng cổ có hình thức cấu trúc âm nhạc hoàn chỉnh cho một làn điệu bài bản, làm nền tảng cho vốn ca nhạc cải lương. Dạ cổ hoài lang đã sống với sân khấu cải lương gần 80 năm và vẫn được nhiều người hâm mộ. 16 Vì sao cải lương được nhiều người đón nhận? Hát Bội là lối diễn xuất cho một lớp người biết thưởng thức xem, còn Cải lương là lối diễn cho mọi thành phần xem. Từ giới thượng lưu đến những người bình dân đều có thể là khán giả của cải lương. Nghệ thuật cải lương rất dễ hiểu. Lời văn giản dị, gần gũi với đời sống hàng ngày. Nội dung các vở cải lương thường đi sát với quần chúng. Khi xem tuồng xã hội, khán giả có cảm tưởng hoàn cảnh của các vai tuồng có thể xảy đến cho mình và do đó sự cảm xúc càng thêm mạnh và in sâu vào trí não. Ngoài ra, cải lương có đủ các thú tiêu khiển "cầm ca thi họa" để cho khán giả thưởng thức. Trước hết có âm nhạc cổ điển, nhạc Âu và ca ngân nhiều bản tân và cổ. Kế đó có những lời văn và câu thơ soạn theo lối dễ hiểu... Cải lương còn cho xem những tranh cảnh hội họa và gợi khiếu thẩm mỹ về kiến trúc và xây dựng vở kịch, từ hình thức đến nội dung. Sau hết là cách sử dụng ánh sáng trên nhiều màu sắc tươi đẹp của y trang và tranh cảnh. Mỗi người một câu hỏi Nghệ sỹ ưu tú Lệ Thủy So với mấy năm trước, dường như năm nay chị ít đi hát tăng cường cho các đoàn tỉnh mà chị làm việc từ thiện nhiều hơn, vì sao vậy? Năm nay mưa gió nhiều, bà con làm ăn ngày càng khó nên đi coi hát không đông. Ða số các đoàn bị kẹt mưa, phải ăn nằm lây lất. Mấy năm trước kể từ năm có trận lụt lớn, thấy bà con khổ sở, tôi cũng không yên. Nhờ có quan hệ rộng tôi đã tập hợp được một nhóm bạn có lòng hảo tâm (có cả một số người ở nước ngoài) sẵn sàng ủng hộ khi tôi kêu gọi. Tất nhiên mình luôn phải đi đầu... Gần đây nhất, không chỉ có mình tôi mà còn nhiều nghệ sỹ khác nữa như Kim Cương, Hồng Nga... 17 NSƯT Thanh Tòng Anh đã làm gì cho sân khấu tuồng cổ? Theo anh điều gì là khả thi để vực dậy cải lương tuồng cổ Việt Nam? Tôi chỉ thực hiện được một số trích đoạn tuồng cổ trên sân khấu công viên Ðầm Sen, Kỳ Hòa... như An dương Vương, Lưu Bình Dương Lễ, Bức ngôn đồ Ðại Việt, Ngọn lửa Thăng Long... không có điều kiện để dàn dựng một vở hoàn chỉnh cho các em, các cháu. Ðáng mừng là các cháu Trinh Trinh, Tú sương, Quế Trân... đã có tay nghề khá vững vàng. Làm nghệ thuật không thể chắp vá. Chỉ có một sân khấu nghiêm túc, hoàn chỉnh về kịch bản dàn dựng và diễn xuất mới mong vực dậy sân khấu cải lương. NSƯT Nam Hùng Hơn 4 năm qua, anh miệt mài với công việc từ thiện ở Ban ái hữu, không chỉ vận động mạnh thường quân giúp đỡ cho nghệ sỹ nghèo mà còn đề xuất xin Hội bảo trợ bệnh viện miễn phí cho nghệ sỹ nghèo vào khám, chữa bệnh: vận động mọi người bỏ tiền trồng cây ở Khu Dưỡng lão... Bản thân anh rất ít đi hát, làm như vậy có phải anh có "hậu phương" vững chắc? Tuổi tôi bây giờ đôi ba tháng nhận show truyền hình, tôi diễn, vợ tôi diễn. Ðôi lúc tôi cũng được mời dàn dựng vài vở cải lương. Nhưng cảnh tình mấy năm qua cuộc sống vợ chồng tôi... hết sức khó khăn. Nhưng, làm từ thiện mà nghĩ đến bản thân mình thì làm sao công việc trọn vẹn được? Thời gian qua làm được nhiều việc ở Ban ái hữu cũng là nhờ Hồng đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều. "Hậu phương của tôi đó". NSƯT Tô Kim Hồng Tôi từng thấy chị ghen trên sân khấu (vai bà quan huyện vở Ngao Sò ốc hến) thật dễ sợ. Ông Hùng đi hoài, bỏ nhà bỏ cửa để một mình chị lo, y như hồi trước ông quan huyện đi khám..."điền thổ" vậy, chị đã từng ra tay chưa? (Ðỏ mặt) Không có đâu Ông đi đâu mình biết hết. Tính ổng không có liếc ngang liếc dọc mà chỉ có... nhậu thôi. Nhưng nếu có ghen thì mình sẽ... ghen đằm thắm hơn bà quan huyện nhiều. NS Thoại Mỹ 18 Mỹ có tin vào duyên số không? Tại sao? (Cười, một lúc sau e dè nói) Em... có chấm tử vi; ở cung phu là lận đận, nhiều lá số cũng nói như vậy, nhưng em không tin lắm. Em không phải là người cả tin. Hồi đó đến giờ đi coi cho vui nhưng ít khi để bụng chuyện bói toán (vì thường chỉ làm mình thêm lo thôi). "Ðường dài" không biết ra sao, hiện tại nói chị đừng cười, em có lận đận nên cũng hơi tin chút xíu. Còn sau này... biết ra sao ngày sau? Chẳng biết còn lận đận cỡ nào nữa chị ơi... NS Minh Vương Là một người đàn ông –nghệ sỹ, anh quan niệm như thế nào về hạnh phúc? Trong cuộc sống gia đình, trong mối quan hệ vợ chồng, hạnh phúc là hai người phải biết tôn trọng nhau, Thiếu sự "tương kính" này thì không thể có sự êm ấm, nếu có thì hoàn toàn giả tạo. Tôi không phải là người cầu kỳ, khó tính, cũng không mơ hạnh phúc ở ngoài tầm tay. Quan niệm của tôi đơn giản lắm. Niềm vui, hạnh phúc chỉ trong tầm tay mình, do mình tự tạo lấy, đâu có cái gì tự nhiên đến mà mình không phải trả giá? Tôi cũng không hẳn là người thích phiêu lưu, đôi khi chỉ vì hoàn cảnh đẩy đưa... Thực lòng tôi không muốn làm điều gì xúc phạm người khác, nhứt là phụ nữ! NS Thanh Ngân Có gì thay đổi trong cuộc sống và trên bước đường nghệ thuật của Thanh Ngân? Em rất vui sướng khi đoạt Huy chương vàng giải Trần Hữu Trang. Từ lần thử thách ấy em thấy mình vững vàng hơn trong nghề nghiệp, nhưng vẫn còn phải học hỏi nhiều. Cuộc sống của em bây giờ bận rộn lắm. điều làm em lo lắng là làm sao mỗi bài ca, mỗi trích đoạn của em đều phải thực sự có chất lượng... NS Châu Thanh Mặc dù anh không được... bảnh trai lắm, nhưng tôi biết có rất nhiều cô "chết" vì anh. Có lúc nào nghĩ lại anh thấy mình có lỗi với... một ai đó không? (Im lặng một lúc khá lâu rồi bắt đầu nói... cà lăm) A... à... để dò lại xem. 19 Nếu... nếu... nói không thì mọi người có tin không? Ðó là... là chuyện hồi đó, xa xưa lắm rồi, lúc trẻ ai mà không có chút chút. Riêng tôi, có "ít xịu" hà. Bản tính tôi không phải là người lãng mạn, thiệt tình là vậy. Hiện tại, gia đình tôi đã ổn định, sau 10 năm lang thang tôi đã "quẹo" trở về "bến" cũ... và có thêm đứa con thứ ba. trích " Câu Lạc Bộ Văn Hóa" 20
File đính kèm:
- nghe_thuat_cai_luong.pdf