Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn

Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ

thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích

những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn

tuổi từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu

thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật nội soi

cắt nang thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng kiểu Roux‐en‐Y. Phân tích những điểm kỹ thuật của tất cả

những trường hợp phẫu thuật này.

Kết quả: Thời gian phẫu thuật 175‐360 phút. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Có 35 trường hợp

nối ống gan – hỗng tràng bằng kỹ thuật khâu nội soi ở mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1

trường hợp ống gan trái có vách ngăn phải cắt vách. Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật và

thời gian hậu phẫu từ 4 – 17 ngày. Thời gian theo dõi 1‐ 46 tháng.

Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm

được tích lũy.

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 1

Trang 1

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 2

Trang 2

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 3

Trang 3

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 4

Trang 4

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 5

Trang 5

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 6

Trang 6

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 7780
Bạn đang xem tài liệu "Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn

Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
304
Nc 584 NHỮNG ĐIỂM KỸ THUẬT CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT 
NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN 
Đỗ Minh Hùng* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ 
thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích 
những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn 
tuổi từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu 
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật nội soi 
cắt nang thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng kiểu Roux‐en‐Y. Phân tích những điểm kỹ thuật của tất cả 
những trường hợp phẫu thuật này. 
Kết quả: Thời gian phẫu thuật 175‐360 phút. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Có 35 trường hợp 
nối ống gan – hỗng tràng bằng kỹ thuật khâu nội soi ở mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1 
trường hợp ống gan trái có vách ngăn phải cắt vách. Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật và 
thời gian hậu phẫu từ 4 – 17 ngày. Thời gian theo dõi 1‐ 46 tháng. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm 
được tích lũy. 
Từ khóa: Những điểm kỹ thuật, phẫu thuật nội soi, cắt nang ống mật chủ. 
ABSTRACT 
TECHNICAL NOTE ON LAPAROSCOPIC EXCISION OF CHOLEDOCHAL CYSTS IN ADULTS 
Do Minh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 4 ‐ 2013: 304 ‐ 310 
Background: Laparoscopic excision of choledochal cysts  in adults  is  technically challenging.  In Vietnam, 
there  have  been  few  reports  on  the  laparoscopic  treatment  of  choledochal  cyst. We  present  technical notes  of 
laparoscopic adult choledochal cyst excision from an only surgeon’s experience. 
Materials and methods: From July 2009 to April 2013, we performed laparoscopic resection choledochal 
cyst for 39 adult patients. The current report analyzes the author’s technique of laparoscopic en bloc excision of 
choledochal cysts with Roux‐en‐Y anastomosis. 
Results: The range operating time was 175‐360 min. There was no open conversion. Laparoscopic hepato‐
jejunostomy was fashioned at the level of the common hepatic duct in 35 and at the bifurcation in 4 patients. Oral 
feeds were started from the first to the fourth postoperative day and the duration of post‐operative stay was 4‐17 
days. Follow‐up observations lasted 1‐46 months.  
Conclusion: With accumulated experience, laparoscopic resection of choledochal cyst in adult is feasible and 
safe. 
Key words: Technical note, laparoscopic excision, choledochal cyst. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nang  ống mật  chủ  là  1  bệnh  lý  lành  tính 
hiếm gặp của đường mật nhưng một khi được 
chẩn  đoán nang phải  được  cắt  đi  cùng với  túi 
mật,  tái  tạo  ống  gan‐ruột  vì nguy  cơ diễn  tiến 
thành ung thư đường mật chính và túi mật. Xử 
trí kinh điển nang đường mật là phẫu thuật mở. 
Với những tiến bộ cả về kỹ thuật và dụng cụ, các 
* Khoa ngoại tổng quát bệnh viện Bình Dân, TP.HCM 
Tác giả liên lạc: Ths.BS. Đỗ Minh Hùng   ĐT: 0903857495   Email: dominhhung@rocketmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
305
phẫu thuật viên đã thực hiện các phẫu thuật có 
mức độ phức  tạp cao mà vẫn đảm bảo kết quả 
với  ít  chấn  thương hơn và mau hồi phục hơn. 
Farello  lần đầu  tiên báo cáo phẫu  thuật nội soi 
cắt nang ống mật chủ type I, nối ống gan‐hỗng 
tràng  Roux‐en‐Y  vào  1995  cho  1  bé  gái  6 
tuổi(6,20,21).  Shimura  tiếp  đó  đã  báo  cáo  một 
trường hợp phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật 
ở bệnh nhân 19 tuổi vào 1998(15). Nhiều tác giả đã 
báo cáo kinh nghiệm phẫu thuật cắt nang đường 
mật bằng phẫu  thuật nội  soi. Tuy nhiên, phẫu 
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân 
lớn  tuổi vẫn  là một  thách  thức về mặt kỹ  thuật 
nhất  là  ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu 
báo  cáo  về  vấn  đề  này. Do  đó,  chúng  tôi  tiến 
hành  phân  tích  những  điểm  kỹ  thuật  để  thấy 
những  khó  khăn  trong  phẫu  thuật  nội  soi  cắt 
nang ống mật chủ ở bệnh nhân  lớn tuổi qua 39 
trường  hợp  từ  kinh  nghiệm  của  1  phẫu  thuật 
viên duy nhất,  rút kinh nghiệm  để có  thể  thực 
hiện phẫu thuật này ngày một hiệu quả, an toàn 
và dễ dàng hơn. 
ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây  là một nghiên cứu  tiền cứu mô  tả  loạt 
ca, đối  tượng  là những bệnh nhân có nang ống 
mật chủ  từ 16  tuổi  trở  lên được phẫu  thuật  tại 
bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh.  
Thời  điểm nghiên  cứu  từ  7  –  2009  đến  4  – 
2013, 39 trường hợp đã được chúng tôi thực hiện 
phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ  thành 
một khối,  ...  tế  để  tránh  tổn  thương  các  cấu  trúc  xung 
quanh như tá tràng, động mạch gan, tỉnh mạch 
cửa. Phẫu tích nang khỏi tĩnh mạch cửa phía sau 
trong giai đoạn đầu thì khó khăn cho đến khi tạo 
được 1 đường hầm giữa nang và tĩnh mạch cửa, 
nâng  ống  mật  chủ  ra  phía  trước.  Với  những 
trường  hợp  viêm  dính  nhiều,  phẫu  tích  vòng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
307
quanh  trọn nang  càng khó khăn  cho nên phẫu 
tích từ phần thấp với khẩu kính nang nhỏ sẽ tạo 
đường hầm dễ dàng hơn(10). Ở người lớn tuổi có 
bệnh sử đau nhiều  lần  thì khả năng viêm dính 
nang với  cuống gan  đầu  tụy  càng nhiều, phẫu 
tích  càng  khó  khăn(11).  Tỉ  lệ  viêm  dính  nhiều 
quanh  nang  khi  phẫu  thuật  trong  nghiên  cứu 
của  chúng  tôi  là  76.9%  làm  cho  thì  phẫu  tích 
nang khó khăn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận 
thấy những  trường hợp  có phần nang  to, nằm 
sâu trong nhu mô tụy, việc phẫu tích ở phần xa 
để tạo đường hầm trở nên khó khăn hơn nhất là 
khi  viêm  dính,  tăng  sinh  mạch  máu.  Những 
trường hợp này nên chọn lựa phẫu tích từ chỗ có 
kích thước nang nhỏ nhất ngoài tụy, thường là ở 
đoạn gần ống gan, thì việc tạo đường hầm tỏ ra 
dễ  dàng  hơn.  Trong  những  trường  hợp  nang 
quá  to  chúng  tôi  nhận  thấy  việc  thực  hiện  kỹ 
thuật cắt nang thành một khối mà không có làm 
xẹp  bớt  kích  thước  nang  bằng  cách mở  thành 
trước  nang  thì  cũng  góp  phần  khó  khăn  ở  thì 
phẫu  thuật  này.  Tuy  nhiên,  trong  nghiên  cứu 
của chúng  tôi chỉ  thực hiện giảm áp bằng chọc 
hút. Chúng tôi có 2 trường hợp kích thước nang 
khổng lồ 130‐150mm làm thời gian phẫu tích lên 
đến  106‐225  phút.  Thực  hiện  kiểm  định  mối 
tương  quan  giữa  yếu  tố  viêm  nhiễm  quanh 
nang,  kích  thước  ngang  của  nang  ảnh  hưởng 
đến thời gian phẫu tích nang bằng hồi qui tuyến 
tính cho thấy có mối liên hệ thuận chặt chẽ giữa 
các yếu tố này có ý nghĩa thống kê. 
Phẫu  tích nang ở đoạn cuối  trong nhu mô 
tụy  thì  cực  kỳ  quan  trọng,  tránh  không  chảy 
máu  để  có  thể  xác  định  đoạn  hẹp  lại  bình 
thường  của  ống  mật  chủ.  Các  tác  giả  cũng 
khuyên không nên sử dụng đốt điện quá mức 
vì  có  thể  làm  tổn  thương  ống  tụy  chính 
và/hoặc kênh chung. Hạch Cattell là mốc quan 
trọng để xác định cột mốc đầu dưới ở đoạn tá 
tràng đầu tụy. 
Thực tế trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ 
dùng dao đốt đơn cực để phẫu tích, cầm máu 
mà  vẫn  thực  hiện  an  toàn. Vấn  đề  đặt  ra  là 
phẫu tích tỉ mỉ, thận trọng để tránh phạm phải 
động mạch tá tụy sau trên và động mạch vị tá. 
Khi  phẫu  tích  lên  vùng  rốn  gan,  cần  hết  sức 
lưu ý đến động mạch gan phải, chạy sau ống 
gan chung tại rốn gan để tránh làm tổn thương 
mạch máu này. Trong nghiên  cứu  của  chúng 
tôi có 2 trường hợp động mạch gan phải chạy 
trước  ống gan. Thời gian phẫu  tích  ở  thì này 
chiếm nhiều thời gian của cả cuộc phẫu thuật, 
trung  bình  121,7  ±  39,8  phút.  Với  đầu  trên, 
đoạn  ống  gan  chung  lý  tưởng  còn  lại  để  nối 
khoảng 1cm là đủ(10). 
Cắt đầu xa của nang 
Ống mật  chủ  có  thể nằm  sát  ống  tụy  cho 
nên  để  tránh  tổn  thương  các phẫu  thuật viên 
nhất trí cắt đầu dưới ở đoạn đường mật đi vào 
nhu mô tụy, gần chỗ nối với ống tụy nhất, và ở 
nơi  nhỏ  nhất  có  thể  (thường  1‐3mm)  là  an 
toàn. Có tác giả đề nghị chỉ cần phẫu tích đến 
chỗ hẹp  lại bình  thường, nhỏ nhất  trong nhu 
mô tụy là an toàn, không cần tìm chỗ nối mật 
tụy(2,21)  và  tránh  lạm  dụng  đốt  điện  đơn  cực 
quá nhiều vì có thể gây tổn thương ống tụy(18). 
Có tác giả dựa vào khoảng cách từ cổ nang tới 
chỗ nối mật tụy để quyết định sự phẫu tích(1). 
Nếu  khoảng  cách  này  >5mm,  khả  năng  tổn 
thương ống tụy thấp khi phẫu tích xuống đoạn 
cuối  ống  mật  nằm  trong  nhu  mô  tụy.  Nếu 
khoảng  cách này  ≤5mm hoặc không  có, phần 
nang  trong  tụy  chỉ phẫu  tích một phần,  lòng 
bên trong ống được cột lại để tránh tổn thương 
ống tụy(1). Chúng tôi cũng không cố gắng phẫu 
tích để tìm kênh chung mật tụy một khi phần 
hẹp bình thường của ống mật chủ đã được xác 
định  vì  nguy  hiểm(2). Một  trường  hợp  trong 
nghiên cứu của Jang J.Y(4) bị đứt đoạn cuối ống 
mật chủ vì lôi kéo nang lên phía trên quá mức, 
cho nên thao tác cần hết sức cẩn trọng. Chúng 
tôi có 2 trường bị đứt đầu dưới ống mật chủ, 1 
trường hợp được tìm thấy và kẹp lại, 1 trường 
hợp không xử  trí gì  thêm. Cả hai  trường hợp 
này do  cố gắng phẫu  tích  cho  đoạn  cuối nhỏ 
nhất và  lực kéo căng nên gây đứt. Tuy nhiên, 
cả hai trường hợp này đều không có viêm tụy 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
308
sau  mổ.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
đường  kính  đoạn  cuối  ống  mật  phần  trong 
nhu mô tụy được phẫu tích trung bình 2,2 ± 0,4 
mm (1‐3mm). 
Tạo chân hỗng‐hỗng tràng 
Chúng tôi tạo chân hỗng‐hỗng tràng ngoài 
ổ bụng bằng cách đưa đoạn đầu hỗng tràng ra 
ngoài qua việc mở rộng lổ trocar ở rốn khoảng 
2‐4cm. Thực hiện kỹ  thuật này giúp  tiết kiệm 
chi phí đáng kể cho bệnh nhân, giảm thiểu thời 
gian phẫu thuật(7,17). Việc tạo miệng nối hỗng –
hỗng tràng trong ổ bụng bằng stapler gây mất 
thời gian vì các vị  trí  trocars không  thích hợp 
lắm nhất là ở trẻ em(6). Tuy nhiên, trong ca đầu 
tiên chúng tôi mất hơn 1 giờ cho thì này vì sợ 
xoắn chân.  
Nối ống gan‐hỗng tràng 
Vấn  đề  cắt  đầu  trên  nang,  các  phẫu  thuật 
viên đều cố gắng cắt cao, ở ống gan chung hoặc 
gần chỗ hợp  lưu của 2 ống gan phải và trái(9,14). 
Todani  thích  cắt  cao  và  nối  ở  rốn  gan  nhưng 
Miyano  cho  rằng nối với  ống gan  chung  là  đủ 
hiệu quả, chỉ nối ở rốn gan trong một số trường 
hợp đặc biệt, và một số tác giả cũng ủng hộ quan 
điểm của Miyano(3,8,11). Trong nghiên cứu của Lee 
chỉ  có  23%  trường  hợp  (14/75  bệnh  nhân)  cần 
phẫu  tích  cao và nối  ở  chỗ hợp  lưu 2  ống gan 
phải và  trái(8). Tác giả Cho(1)  thường nối  ở  ống 
gan chung cách chỗ hợp  lưu 2 ống gan khoảng 
5mm. Để hạn chế hẹp miệng nối sau mổ có tác 
giả  khuyên  nên  tạo  hình miệng  nối  có  đường 
kính  ít  nhất  3cm(16);  một  số  tác  giả  sử  dụng 
đường khâu mũi rời cho những trường hợp ống 
gan  nhỏ  hơn  10mm(3,11),  hoặc  15mm(13,  19), mũi 
liên  tục  ở mặt  sau và mũi  rời  ở mặt  trước  cho 
miệng nối  lớn hơn  10mm(3,  11), hoặc  15mm(13,19). 
Điều  quan  trọng  là  tạo  được miệng  nối  niêm‐
niêm  để mô  lành  tốt không gây xơ hẹp miệng 
nối(14). Trường hợp có vách ngăn trong ống gan 
phải cắt bỏ vách này đi. 
Nối  ống  gan  hỗng  tràng  là  thì  phẫu  thuật 
quan  trọng và khó khăn nhất(2,4,6,15) vì đòi hỏi 1 
kỹ năng khâu nội soi tốt để tránh hẹp miệng nối 
sau mổ. Có 25 trường hợp của chúng tôi có phần 
ống  gan  còn  lại  >10mm,  đều  được  khâu  bằng 
mũi liên tục ở mặt sau và mũi rời ở mặt trước; 14 
trường hợp khâu nối hoàn toàn bằng mũi rời vì 
phần  ống  gan  nhỏ  <10mm. Chúng  tôi  thường 
khâu  lộn niêm mạc  ở miệng nối hỗng  tràng  ra 
ngoài ở thì làm ruột ngoài ổ bụng để miệng nối 
niêm‐niêm được thực hiện dễ dàng hơn, ống gan 
thường được cắt vát để tăng đường kính miệng 
nối. Tanaka và cộng sự thực hiện kỹ thuật nâng 
thành bụng, đưa kẹp kim vào để  thực hiện nối 
ống  gan‐hỗng  tràng(18).  Đối  với  những  trường 
hợp khó như đoạn ống gan còn  lại sát rốn gan, 
đoạn ống gan còn lại nhỏ <10mm... có tác giả làm 
một đường mổ nhỏ khoảng 5cm hoặc sử dụng 
bàn  tay  hổ  trợ  để  khâu  nối(12). Chúng  tôi  thực 
hiện 34 trường hợp hợp miệng nối ở ngang mức 
ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1 
trường hợp nối vào 2 ống gan được khâu nối lại 
giữa hai vách hoàn  toàn bằng nội soi. Trong ca 
đầu  tiên chúng  tôi  thực hiện nối  ống gan‐hỗng 
tràng mất  trung  bình  là  63,8  ±  18,4  phút.  Le(6) 
trong 2 trường hợp đầu thực hiện nối nang là 75 
và 55 phút. 
Dẫn lưu dưới gan 
Dẫn lưu dưới gan là thường qui cho những 
trường hợp cắt nang ống mật chủ nối ống gan‐
hỗng  tràng.  Dẫn  lưu  nhằm  thoát  dịch  còn 
đọng  lại, dẫn  lưu dịch  tiết do phẫu  tích, dẫn 
lưu dịch mật trong những trường hợp dò mật 
nhẹ  và  để báo hiệu  trong những  trường hợp 
chảy máu. Chúng  ta  phải  luôn  đề  phòng  dò 
mật  ở miệng  nối  vì  kiểm  soát  độ  kín  ở mũi 
khâu  liên  tục  trong phẫu  thuật nội soi  thì hơi 
khó(5). Trong ca đầu  tiên chúng  tôi sử dụng 5 
trocars, khi khâu mặt sau chúng tôi dùng dụng 
cụ để nắm chỉ nên đường khâu kín và không 
có dò mật. Chúng  tôi,  theo  kinh  nghiệm  của 
Le(6),  chỉ  cắt  ngang  đầu  trên  nang  khi miệng 
nối hỗng‐hỗng  tràng  đã  được  làm  xong,  ruột 
được đưa vào ổ bụng và chân nối đã được đưa 
lên gần rốn gan vì thế  lượng mật tụ dưới gan 
rất ít, sau khi lau rửa lượng dịch ra dẫn lưu rất 
ít. Trong nghiên cứu  của Chowbey(2)  ống dẫn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
309
lưu dưới gan được  rút sau mổ 5‐27 ngày, khi 
dịch là dịch tiết và ít hơn 50ml. 
Thời gian mổ 
Có  hai  thì  phẫu  thuật  chiếm  nhiều  thời 
gian vì đòi hỏi sự tỉ mỉ là thì phẫu tích nang và 
thì nối ống gan‐ hỗng  tràng. Đây cũng  là một 
thách thức cho lòng kiên nhẫn của ê kíp phẫu 
thuật. Thời gian phẫu thuật phụ thuộc vào loại 
nang, nang có biến chứng trước đó hay không, 
tuổi, vào kỹ năng  thành  thạo  của  ê kíp phẫu 
thuật. Thời gian phẫu  thuật  trung bình  trong 
nghiên  cứu  của Chowbey(2)  là  326.6  phút  với 
thời  gian  cắt  nang  trung  bình  là  45 phút. Ca 
phẫu  thuật  đầu  tiên  trong  lô nghiên  cứu  của 
Jang(4) là 330 phút, nhưng với kinh nghiệm tích 
lũy dần, thời gian được rút ngắn lại trung bình 
còn 228 phút. Theo Lee(7), thời gian phẫu thuật 
trung bình là 439 phút vì trong nghiên cứu này 
có nhiều nang type Ic hơn, việc bóc tách nang 
khó khăn hơn so với nang type Ia. Tuy nhiên, 
theo Miyano(10), nang type Ic ít dính hơn so với 
type  Ia,  thường kích  thước nang  to hơn, dính 
hơn nên thời gian bóc tách có thể lâu hơn. Thời 
gian phẫu  thuật  trung bình  trong nghiên cứu 
của Tanaka đến 10h16 phút, của Nguyễn Tấn 
Cường là 239,64 phút(12). Trong nghiên cứu của 
chúng  tôi,  thời  gian  phẫu  thuật  trung  bình 
257,2 ± 50,1 phút. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật ngoài 
gan tuy còn nhiều thách thức nhưng có thể thực 
hiện được và an toàn hơn với ê kíp phẫu thuật 
nội  soi  có  nhiều  kinh  nghiệm  mà  không  cần 
dụng cụ đặc biệt nào. Bệnh nhân nên được phẫu 
thuật càng sớm càng tốt, trong tình trạng không 
có viêm nhiễm nhiều quanh nang.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cho MJ, Hwang S, Lee YJ, Kim KH, Ahn CS, Moon DB, Lee 
SK,  Kim  MH,  Lee  SS,  Park  DH,  Lee  SG  (2011).  Surgical 
Experience of 204 Cases of Adult Choledochal Cyst Disease 
over 14 Years. World J Surg, 35 (5):1094‐1102. 
2. Chowbey PK, Soni V, Sharma A, Khullar R, Baijal M (2005). 
Laparoscopic Hepaticojejunostomy for Biliary Strictures. Surg 
Endosc, 19:273‐279. 
3. Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Phúc Minh (2012). Phẫu Thuật Nội 
Soi Cắt Nang Ống Mật Chủ Ở Người Lớn  ‐ Nối Ống Gan 
Hỗng Tràng Roux‐En‐Y. Phẫu Thuật Nội Soi và Nội Soi Việt 
Nam, 2 (2):55‐60. 
4. Jang JY, Kim SW, Han HS, Yoon YS, Han SS, Park YH (2006). 
Totally  Laparoscopic  Management  of  Choledochal  Cysts 
Using a Four‐Hole Method. Surg Endosc, 20 (11):1762‐1765. 
5. Kim JH, Choi TY, Han JH, Yoo BM, Hong J, Kim MW, Kim 
WH  (2008).  Risk  Factors  of  Postoperative  Anastomotic 
Stricture  after  Excision  of  Choledochal  Cysts  with 
Hepaticojejunostomy. J Gastrointest Surg, 12 (5):822‐828. 
6. Le DM, Woo RK,  Sylvester K, Krummel TM, Albanese CT 
(2005). Laparoscopic Resection of Type 1 Choledochal Cysts 
in Pediatric Patients. Surgical Endoscopy, 20 (2):249‐251. 
7. Lee KH, Tam YH, Yeung CK, Chan KW, Sihoe JDY, Cheung 
ST, Mou  JWC  (2009). Laparoscopic Excision of Choledochal 
Cysts in Children an Intermediate‐Term Report. Pediatr Surg 
Int 25:335‐360. 
8. Lee KH, Tam YH, Chan EKW, Sihoe JDY, Cheung GST, Mou 
JWC (2009). A Twenty‐Year Experience in Choledochal Cysts 
in  Children:  From  Open  to  Laparoscopic  Excision.  HK  J 
paediatr, 14:158‐167. 
9. Mabrut JY, Bozio G, Hubert C, Gigot JF (2010). Management 
of Congenital Bile Duct Cysts. Dig Surg, 27 (1):12‐18. 
10. Miyano T, Urao M, Yamataka A  (2006).  ʺCholedochal Cystʺ, 
in Pediatric Surgery. Springer, New York. Sec. Chap 34: 371‐
386. 
11. Nguyễn Cao Cương  (2005). Chẩn  Đoán Và Kết Quả  Phẫu 
Thuật Cắt Nang Đường Mật Ở Người Lớn. Đại Học Y Dược 
TP Hồ Chí Minh. Luận Án Tiến Sĩ 
12. Nguyễn Tấn Cường  (2008). Kết Quả Bước Đầu Phẫu Thuật 
Cắt Nang Đường Mật Qua Ngã Nội Soi. Y Học TP.Hồ Chí 
Minh, 12 (4):143‐149. 
13. Palanivelu  C,  Rangarajan  M,  Parthasarathi  R,  Amar  V, 
Senthilnathan  P  (2008).  Laparoscopic  Management  of 
Choledochal  Cysts:  Technique  and  Outcomes‐‐a 
Retrospective Study of 35 Patients  from a Tertiary Center.  J 
Am Coll Surg, 207 (6):839‐846. 
14. Shah OJ, Shera AH, Zargar SA, Shah P, Robbani  I, Dhar S, 
Khan AB  (2009). Choledochal Cysts  in Children and Adults 
with  Contrasting  Profiles:  11‐Year  Experience  at  a  Tertiary 
Care Center in Kashmir. World J Surg, 33 (11):2403‐2411. 
15. Shimura  H,  Tanaka  M,  Shimizu  S,  Mizumoto  K  (1998). 
Laparoscopic  Treatment  of  Congenital  Choledochal  Cyst. 
Surg Endosc, 12:1268–1271. 
16. Singham J, Yoshida EM, Scudamore CH (2010). Choledochal 
Cysts.Part3.Management. Can J Surg, 53 (1):51‐56. 
17. Srimurthy KR, Ramesh S  (2006). Laparoscopic Management 
of  Pediatric  Choledochal  Cysts  in  Developing  Countries: 
Review of Ten Cases. Pediatr Surg Int, 22 (2):144‐9. 
18. Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K, Yokohata K, Chijiiwa K, 
Yamaguchi  K,  Ogawa  Y  (2001).  Laparoscopically  Assisted 
Resection  of  Choledochal  Cyst  and  Roux‐En‐Y 
Reconstruction. Surg Endosc, 15 (6):545‐552. 
19. Tian Y, Wu SD, Zhu AD, Chen DX  (2010). Management of 
Type  I  Choledochal  Cyst  in  Adult:  Totally  Laparoscopic 
Resection  and  Roux‐En‐Y  Hepaticoenterostomy.  J 
Gastrointest Surg, 14 (9):1381‐1388. 
20. Ure BM, Nustede R, Becker H (2005). Laparoscopic Resection 
of  Congenital  Choledochal  Cyst, Hepaticojejunostomy,  and 
Externally Made Roux‐En‐Y Anastomosis.  J Pediatr Surg, 40 
(4):728‐730. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
310
21. Ure BM, Schier F, Schmidt AI, Nustede R, Petersen C,  Jesch 
NK (2005). Laparoscopic Resection of Congenital Choledochal 
Cyst, Choledochojejunostomy, and Extraabdominal Roux‐En‐
Y Anastomosis. Surg Endosc, 19 (8):1055‐1057. 
Ngày nhận bài báo:       25/07/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   30/07/2013 
Ngày bài báo được đăng:     15/12/2013 

File đính kèm:

  • pdfnc_584_nhung_diem_ky_thuat_cua_phau_thuat_noi_soi_cat_nang_o.pdf