Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ
thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích
những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn
tuổi từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật nội soi
cắt nang thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng kiểu Roux‐en‐Y. Phân tích những điểm kỹ thuật của tất cả
những trường hợp phẫu thuật này.
Kết quả: Thời gian phẫu thuật 175‐360 phút. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Có 35 trường hợp
nối ống gan – hỗng tràng bằng kỹ thuật khâu nội soi ở mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1
trường hợp ống gan trái có vách ngăn phải cắt vách. Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật và
thời gian hậu phẫu từ 4 – 17 ngày. Thời gian theo dõi 1‐ 46 tháng.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm
được tích lũy.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 304 Nc 584 NHỮNG ĐIỂM KỸ THUẬT CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN Đỗ Minh Hùng* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật nội soi cắt nang thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng kiểu Roux‐en‐Y. Phân tích những điểm kỹ thuật của tất cả những trường hợp phẫu thuật này. Kết quả: Thời gian phẫu thuật 175‐360 phút. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Có 35 trường hợp nối ống gan – hỗng tràng bằng kỹ thuật khâu nội soi ở mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1 trường hợp ống gan trái có vách ngăn phải cắt vách. Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật và thời gian hậu phẫu từ 4 – 17 ngày. Thời gian theo dõi 1‐ 46 tháng. Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm được tích lũy. Từ khóa: Những điểm kỹ thuật, phẫu thuật nội soi, cắt nang ống mật chủ. ABSTRACT TECHNICAL NOTE ON LAPAROSCOPIC EXCISION OF CHOLEDOCHAL CYSTS IN ADULTS Do Minh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 4 ‐ 2013: 304 ‐ 310 Background: Laparoscopic excision of choledochal cysts in adults is technically challenging. In Vietnam, there have been few reports on the laparoscopic treatment of choledochal cyst. We present technical notes of laparoscopic adult choledochal cyst excision from an only surgeon’s experience. Materials and methods: From July 2009 to April 2013, we performed laparoscopic resection choledochal cyst for 39 adult patients. The current report analyzes the author’s technique of laparoscopic en bloc excision of choledochal cysts with Roux‐en‐Y anastomosis. Results: The range operating time was 175‐360 min. There was no open conversion. Laparoscopic hepato‐ jejunostomy was fashioned at the level of the common hepatic duct in 35 and at the bifurcation in 4 patients. Oral feeds were started from the first to the fourth postoperative day and the duration of post‐operative stay was 4‐17 days. Follow‐up observations lasted 1‐46 months. Conclusion: With accumulated experience, laparoscopic resection of choledochal cyst in adult is feasible and safe. Key words: Technical note, laparoscopic excision, choledochal cyst. ĐẶT VẤN ĐỀ Nang ống mật chủ là 1 bệnh lý lành tính hiếm gặp của đường mật nhưng một khi được chẩn đoán nang phải được cắt đi cùng với túi mật, tái tạo ống gan‐ruột vì nguy cơ diễn tiến thành ung thư đường mật chính và túi mật. Xử trí kinh điển nang đường mật là phẫu thuật mở. Với những tiến bộ cả về kỹ thuật và dụng cụ, các * Khoa ngoại tổng quát bệnh viện Bình Dân, TP.HCM Tác giả liên lạc: Ths.BS. Đỗ Minh Hùng ĐT: 0903857495 Email: dominhhung@rocketmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 305 phẫu thuật viên đã thực hiện các phẫu thuật có mức độ phức tạp cao mà vẫn đảm bảo kết quả với ít chấn thương hơn và mau hồi phục hơn. Farello lần đầu tiên báo cáo phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ type I, nối ống gan‐hỗng tràng Roux‐en‐Y vào 1995 cho 1 bé gái 6 tuổi(6,20,21). Shimura tiếp đó đã báo cáo một trường hợp phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật ở bệnh nhân 19 tuổi vào 1998(15). Nhiều tác giả đã báo cáo kinh nghiệm phẫu thuật cắt nang đường mật bằng phẫu thuật nội soi. Tuy nhiên, phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi qua 39 trường hợp từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất, rút kinh nghiệm để có thể thực hiện phẫu thuật này ngày một hiệu quả, an toàn và dễ dàng hơn. ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là một nghiên cứu tiền cứu mô tả loạt ca, đối tượng là những bệnh nhân có nang ống mật chủ từ 16 tuổi trở lên được phẫu thuật tại bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh. Thời điểm nghiên cứu từ 7 – 2009 đến 4 – 2013, 39 trường hợp đã được chúng tôi thực hiện phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ thành một khối, ... tế để tránh tổn thương các cấu trúc xung quanh như tá tràng, động mạch gan, tỉnh mạch cửa. Phẫu tích nang khỏi tĩnh mạch cửa phía sau trong giai đoạn đầu thì khó khăn cho đến khi tạo được 1 đường hầm giữa nang và tĩnh mạch cửa, nâng ống mật chủ ra phía trước. Với những trường hợp viêm dính nhiều, phẫu tích vòng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 307 quanh trọn nang càng khó khăn cho nên phẫu tích từ phần thấp với khẩu kính nang nhỏ sẽ tạo đường hầm dễ dàng hơn(10). Ở người lớn tuổi có bệnh sử đau nhiều lần thì khả năng viêm dính nang với cuống gan đầu tụy càng nhiều, phẫu tích càng khó khăn(11). Tỉ lệ viêm dính nhiều quanh nang khi phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng tôi là 76.9% làm cho thì phẫu tích nang khó khăn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy những trường hợp có phần nang to, nằm sâu trong nhu mô tụy, việc phẫu tích ở phần xa để tạo đường hầm trở nên khó khăn hơn nhất là khi viêm dính, tăng sinh mạch máu. Những trường hợp này nên chọn lựa phẫu tích từ chỗ có kích thước nang nhỏ nhất ngoài tụy, thường là ở đoạn gần ống gan, thì việc tạo đường hầm tỏ ra dễ dàng hơn. Trong những trường hợp nang quá to chúng tôi nhận thấy việc thực hiện kỹ thuật cắt nang thành một khối mà không có làm xẹp bớt kích thước nang bằng cách mở thành trước nang thì cũng góp phần khó khăn ở thì phẫu thuật này. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ thực hiện giảm áp bằng chọc hút. Chúng tôi có 2 trường hợp kích thước nang khổng lồ 130‐150mm làm thời gian phẫu tích lên đến 106‐225 phút. Thực hiện kiểm định mối tương quan giữa yếu tố viêm nhiễm quanh nang, kích thước ngang của nang ảnh hưởng đến thời gian phẫu tích nang bằng hồi qui tuyến tính cho thấy có mối liên hệ thuận chặt chẽ giữa các yếu tố này có ý nghĩa thống kê. Phẫu tích nang ở đoạn cuối trong nhu mô tụy thì cực kỳ quan trọng, tránh không chảy máu để có thể xác định đoạn hẹp lại bình thường của ống mật chủ. Các tác giả cũng khuyên không nên sử dụng đốt điện quá mức vì có thể làm tổn thương ống tụy chính và/hoặc kênh chung. Hạch Cattell là mốc quan trọng để xác định cột mốc đầu dưới ở đoạn tá tràng đầu tụy. Thực tế trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ dùng dao đốt đơn cực để phẫu tích, cầm máu mà vẫn thực hiện an toàn. Vấn đề đặt ra là phẫu tích tỉ mỉ, thận trọng để tránh phạm phải động mạch tá tụy sau trên và động mạch vị tá. Khi phẫu tích lên vùng rốn gan, cần hết sức lưu ý đến động mạch gan phải, chạy sau ống gan chung tại rốn gan để tránh làm tổn thương mạch máu này. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp động mạch gan phải chạy trước ống gan. Thời gian phẫu tích ở thì này chiếm nhiều thời gian của cả cuộc phẫu thuật, trung bình 121,7 ± 39,8 phút. Với đầu trên, đoạn ống gan chung lý tưởng còn lại để nối khoảng 1cm là đủ(10). Cắt đầu xa của nang Ống mật chủ có thể nằm sát ống tụy cho nên để tránh tổn thương các phẫu thuật viên nhất trí cắt đầu dưới ở đoạn đường mật đi vào nhu mô tụy, gần chỗ nối với ống tụy nhất, và ở nơi nhỏ nhất có thể (thường 1‐3mm) là an toàn. Có tác giả đề nghị chỉ cần phẫu tích đến chỗ hẹp lại bình thường, nhỏ nhất trong nhu mô tụy là an toàn, không cần tìm chỗ nối mật tụy(2,21) và tránh lạm dụng đốt điện đơn cực quá nhiều vì có thể gây tổn thương ống tụy(18). Có tác giả dựa vào khoảng cách từ cổ nang tới chỗ nối mật tụy để quyết định sự phẫu tích(1). Nếu khoảng cách này >5mm, khả năng tổn thương ống tụy thấp khi phẫu tích xuống đoạn cuối ống mật nằm trong nhu mô tụy. Nếu khoảng cách này ≤5mm hoặc không có, phần nang trong tụy chỉ phẫu tích một phần, lòng bên trong ống được cột lại để tránh tổn thương ống tụy(1). Chúng tôi cũng không cố gắng phẫu tích để tìm kênh chung mật tụy một khi phần hẹp bình thường của ống mật chủ đã được xác định vì nguy hiểm(2). Một trường hợp trong nghiên cứu của Jang J.Y(4) bị đứt đoạn cuối ống mật chủ vì lôi kéo nang lên phía trên quá mức, cho nên thao tác cần hết sức cẩn trọng. Chúng tôi có 2 trường bị đứt đầu dưới ống mật chủ, 1 trường hợp được tìm thấy và kẹp lại, 1 trường hợp không xử trí gì thêm. Cả hai trường hợp này do cố gắng phẫu tích cho đoạn cuối nhỏ nhất và lực kéo căng nên gây đứt. Tuy nhiên, cả hai trường hợp này đều không có viêm tụy Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 308 sau mổ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đường kính đoạn cuối ống mật phần trong nhu mô tụy được phẫu tích trung bình 2,2 ± 0,4 mm (1‐3mm). Tạo chân hỗng‐hỗng tràng Chúng tôi tạo chân hỗng‐hỗng tràng ngoài ổ bụng bằng cách đưa đoạn đầu hỗng tràng ra ngoài qua việc mở rộng lổ trocar ở rốn khoảng 2‐4cm. Thực hiện kỹ thuật này giúp tiết kiệm chi phí đáng kể cho bệnh nhân, giảm thiểu thời gian phẫu thuật(7,17). Việc tạo miệng nối hỗng – hỗng tràng trong ổ bụng bằng stapler gây mất thời gian vì các vị trí trocars không thích hợp lắm nhất là ở trẻ em(6). Tuy nhiên, trong ca đầu tiên chúng tôi mất hơn 1 giờ cho thì này vì sợ xoắn chân. Nối ống gan‐hỗng tràng Vấn đề cắt đầu trên nang, các phẫu thuật viên đều cố gắng cắt cao, ở ống gan chung hoặc gần chỗ hợp lưu của 2 ống gan phải và trái(9,14). Todani thích cắt cao và nối ở rốn gan nhưng Miyano cho rằng nối với ống gan chung là đủ hiệu quả, chỉ nối ở rốn gan trong một số trường hợp đặc biệt, và một số tác giả cũng ủng hộ quan điểm của Miyano(3,8,11). Trong nghiên cứu của Lee chỉ có 23% trường hợp (14/75 bệnh nhân) cần phẫu tích cao và nối ở chỗ hợp lưu 2 ống gan phải và trái(8). Tác giả Cho(1) thường nối ở ống gan chung cách chỗ hợp lưu 2 ống gan khoảng 5mm. Để hạn chế hẹp miệng nối sau mổ có tác giả khuyên nên tạo hình miệng nối có đường kính ít nhất 3cm(16); một số tác giả sử dụng đường khâu mũi rời cho những trường hợp ống gan nhỏ hơn 10mm(3,11), hoặc 15mm(13, 19), mũi liên tục ở mặt sau và mũi rời ở mặt trước cho miệng nối lớn hơn 10mm(3, 11), hoặc 15mm(13,19). Điều quan trọng là tạo được miệng nối niêm‐ niêm để mô lành tốt không gây xơ hẹp miệng nối(14). Trường hợp có vách ngăn trong ống gan phải cắt bỏ vách này đi. Nối ống gan hỗng tràng là thì phẫu thuật quan trọng và khó khăn nhất(2,4,6,15) vì đòi hỏi 1 kỹ năng khâu nội soi tốt để tránh hẹp miệng nối sau mổ. Có 25 trường hợp của chúng tôi có phần ống gan còn lại >10mm, đều được khâu bằng mũi liên tục ở mặt sau và mũi rời ở mặt trước; 14 trường hợp khâu nối hoàn toàn bằng mũi rời vì phần ống gan nhỏ <10mm. Chúng tôi thường khâu lộn niêm mạc ở miệng nối hỗng tràng ra ngoài ở thì làm ruột ngoài ổ bụng để miệng nối niêm‐niêm được thực hiện dễ dàng hơn, ống gan thường được cắt vát để tăng đường kính miệng nối. Tanaka và cộng sự thực hiện kỹ thuật nâng thành bụng, đưa kẹp kim vào để thực hiện nối ống gan‐hỗng tràng(18). Đối với những trường hợp khó như đoạn ống gan còn lại sát rốn gan, đoạn ống gan còn lại nhỏ <10mm... có tác giả làm một đường mổ nhỏ khoảng 5cm hoặc sử dụng bàn tay hổ trợ để khâu nối(12). Chúng tôi thực hiện 34 trường hợp hợp miệng nối ở ngang mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1 trường hợp nối vào 2 ống gan được khâu nối lại giữa hai vách hoàn toàn bằng nội soi. Trong ca đầu tiên chúng tôi thực hiện nối ống gan‐hỗng tràng mất trung bình là 63,8 ± 18,4 phút. Le(6) trong 2 trường hợp đầu thực hiện nối nang là 75 và 55 phút. Dẫn lưu dưới gan Dẫn lưu dưới gan là thường qui cho những trường hợp cắt nang ống mật chủ nối ống gan‐ hỗng tràng. Dẫn lưu nhằm thoát dịch còn đọng lại, dẫn lưu dịch tiết do phẫu tích, dẫn lưu dịch mật trong những trường hợp dò mật nhẹ và để báo hiệu trong những trường hợp chảy máu. Chúng ta phải luôn đề phòng dò mật ở miệng nối vì kiểm soát độ kín ở mũi khâu liên tục trong phẫu thuật nội soi thì hơi khó(5). Trong ca đầu tiên chúng tôi sử dụng 5 trocars, khi khâu mặt sau chúng tôi dùng dụng cụ để nắm chỉ nên đường khâu kín và không có dò mật. Chúng tôi, theo kinh nghiệm của Le(6), chỉ cắt ngang đầu trên nang khi miệng nối hỗng‐hỗng tràng đã được làm xong, ruột được đưa vào ổ bụng và chân nối đã được đưa lên gần rốn gan vì thế lượng mật tụ dưới gan rất ít, sau khi lau rửa lượng dịch ra dẫn lưu rất ít. Trong nghiên cứu của Chowbey(2) ống dẫn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 309 lưu dưới gan được rút sau mổ 5‐27 ngày, khi dịch là dịch tiết và ít hơn 50ml. Thời gian mổ Có hai thì phẫu thuật chiếm nhiều thời gian vì đòi hỏi sự tỉ mỉ là thì phẫu tích nang và thì nối ống gan‐ hỗng tràng. Đây cũng là một thách thức cho lòng kiên nhẫn của ê kíp phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật phụ thuộc vào loại nang, nang có biến chứng trước đó hay không, tuổi, vào kỹ năng thành thạo của ê kíp phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu của Chowbey(2) là 326.6 phút với thời gian cắt nang trung bình là 45 phút. Ca phẫu thuật đầu tiên trong lô nghiên cứu của Jang(4) là 330 phút, nhưng với kinh nghiệm tích lũy dần, thời gian được rút ngắn lại trung bình còn 228 phút. Theo Lee(7), thời gian phẫu thuật trung bình là 439 phút vì trong nghiên cứu này có nhiều nang type Ic hơn, việc bóc tách nang khó khăn hơn so với nang type Ia. Tuy nhiên, theo Miyano(10), nang type Ic ít dính hơn so với type Ia, thường kích thước nang to hơn, dính hơn nên thời gian bóc tách có thể lâu hơn. Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu của Tanaka đến 10h16 phút, của Nguyễn Tấn Cường là 239,64 phút(12). Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian phẫu thuật trung bình 257,2 ± 50,1 phút. KẾT LUẬN Phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật ngoài gan tuy còn nhiều thách thức nhưng có thể thực hiện được và an toàn hơn với ê kíp phẫu thuật nội soi có nhiều kinh nghiệm mà không cần dụng cụ đặc biệt nào. Bệnh nhân nên được phẫu thuật càng sớm càng tốt, trong tình trạng không có viêm nhiễm nhiều quanh nang. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cho MJ, Hwang S, Lee YJ, Kim KH, Ahn CS, Moon DB, Lee SK, Kim MH, Lee SS, Park DH, Lee SG (2011). Surgical Experience of 204 Cases of Adult Choledochal Cyst Disease over 14 Years. World J Surg, 35 (5):1094‐1102. 2. Chowbey PK, Soni V, Sharma A, Khullar R, Baijal M (2005). Laparoscopic Hepaticojejunostomy for Biliary Strictures. Surg Endosc, 19:273‐279. 3. Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Phúc Minh (2012). Phẫu Thuật Nội Soi Cắt Nang Ống Mật Chủ Ở Người Lớn ‐ Nối Ống Gan Hỗng Tràng Roux‐En‐Y. Phẫu Thuật Nội Soi và Nội Soi Việt Nam, 2 (2):55‐60. 4. Jang JY, Kim SW, Han HS, Yoon YS, Han SS, Park YH (2006). Totally Laparoscopic Management of Choledochal Cysts Using a Four‐Hole Method. Surg Endosc, 20 (11):1762‐1765. 5. Kim JH, Choi TY, Han JH, Yoo BM, Hong J, Kim MW, Kim WH (2008). Risk Factors of Postoperative Anastomotic Stricture after Excision of Choledochal Cysts with Hepaticojejunostomy. J Gastrointest Surg, 12 (5):822‐828. 6. Le DM, Woo RK, Sylvester K, Krummel TM, Albanese CT (2005). Laparoscopic Resection of Type 1 Choledochal Cysts in Pediatric Patients. Surgical Endoscopy, 20 (2):249‐251. 7. Lee KH, Tam YH, Yeung CK, Chan KW, Sihoe JDY, Cheung ST, Mou JWC (2009). Laparoscopic Excision of Choledochal Cysts in Children an Intermediate‐Term Report. Pediatr Surg Int 25:335‐360. 8. Lee KH, Tam YH, Chan EKW, Sihoe JDY, Cheung GST, Mou JWC (2009). A Twenty‐Year Experience in Choledochal Cysts in Children: From Open to Laparoscopic Excision. HK J paediatr, 14:158‐167. 9. Mabrut JY, Bozio G, Hubert C, Gigot JF (2010). Management of Congenital Bile Duct Cysts. Dig Surg, 27 (1):12‐18. 10. Miyano T, Urao M, Yamataka A (2006). ʺCholedochal Cystʺ, in Pediatric Surgery. Springer, New York. Sec. Chap 34: 371‐ 386. 11. Nguyễn Cao Cương (2005). Chẩn Đoán Và Kết Quả Phẫu Thuật Cắt Nang Đường Mật Ở Người Lớn. Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Luận Án Tiến Sĩ 12. Nguyễn Tấn Cường (2008). Kết Quả Bước Đầu Phẫu Thuật Cắt Nang Đường Mật Qua Ngã Nội Soi. Y Học TP.Hồ Chí Minh, 12 (4):143‐149. 13. Palanivelu C, Rangarajan M, Parthasarathi R, Amar V, Senthilnathan P (2008). Laparoscopic Management of Choledochal Cysts: Technique and Outcomes‐‐a Retrospective Study of 35 Patients from a Tertiary Center. J Am Coll Surg, 207 (6):839‐846. 14. Shah OJ, Shera AH, Zargar SA, Shah P, Robbani I, Dhar S, Khan AB (2009). Choledochal Cysts in Children and Adults with Contrasting Profiles: 11‐Year Experience at a Tertiary Care Center in Kashmir. World J Surg, 33 (11):2403‐2411. 15. Shimura H, Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K (1998). Laparoscopic Treatment of Congenital Choledochal Cyst. Surg Endosc, 12:1268–1271. 16. Singham J, Yoshida EM, Scudamore CH (2010). Choledochal Cysts.Part3.Management. Can J Surg, 53 (1):51‐56. 17. Srimurthy KR, Ramesh S (2006). Laparoscopic Management of Pediatric Choledochal Cysts in Developing Countries: Review of Ten Cases. Pediatr Surg Int, 22 (2):144‐9. 18. Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K, Yokohata K, Chijiiwa K, Yamaguchi K, Ogawa Y (2001). Laparoscopically Assisted Resection of Choledochal Cyst and Roux‐En‐Y Reconstruction. Surg Endosc, 15 (6):545‐552. 19. Tian Y, Wu SD, Zhu AD, Chen DX (2010). Management of Type I Choledochal Cyst in Adult: Totally Laparoscopic Resection and Roux‐En‐Y Hepaticoenterostomy. J Gastrointest Surg, 14 (9):1381‐1388. 20. Ure BM, Nustede R, Becker H (2005). Laparoscopic Resection of Congenital Choledochal Cyst, Hepaticojejunostomy, and Externally Made Roux‐En‐Y Anastomosis. J Pediatr Surg, 40 (4):728‐730. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 310 21. Ure BM, Schier F, Schmidt AI, Nustede R, Petersen C, Jesch NK (2005). Laparoscopic Resection of Congenital Choledochal Cyst, Choledochojejunostomy, and Extraabdominal Roux‐En‐ Y Anastomosis. Surg Endosc, 19 (8):1055‐1057. Ngày nhận bài báo: 25/07/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2013 Ngày bài báo được đăng: 15/12/2013
File đính kèm:
- nc_584_nhung_diem_ky_thuat_cua_phau_thuat_noi_soi_cat_nang_o.pdf