Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo

TÓM TẮT

Múa rối nước là nghệ thuật gắn với nền văn minh lúa nước của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, từ trước

thế kỷ X. Múa rối nước có nhiều giá trị liên quan tới nhận thức, xã hội, giáo dục, giải trí., nổi bật lên là giá trị thẩm

mỹ. Múa rối nước mang tính phổ quát, so với bất kỳ loại hình nghệ thuật (biểu diễn, tạo hình, cổ vật.) nào, kể

cả nghệ thuật truyền thống và hiện đại. Múa rối nước là một dòng văn hóa riêng biệt, được cả người trong và

ngoài nước vô cùng thích thú.

Từ khóa: Giá trị, múa rối nước, thẩm mỹ, nghệ thuật

ABSTRACT

Water puppet is an art attached to paddy field cultivation of residents in Red River Delta before 10th

century. Water puppet has many values linked to awareness, society, education, entertainment, especially

aesthetic values. Water puppet has broader sense than any other art forms (performing, fine art), including

classical and modern arts. Water puppet is a special cultural characteristics that get much attention from

Vietnamese and foreigners.

Key words: Value, Water puppet, Aesthetics, art

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo trang 1

Trang 1

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo trang 2

Trang 2

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo trang 3

Trang 3

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo trang 4

Trang 4

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo trang 5

Trang 5

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 9560
Bạn đang xem tài liệu "Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo

Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo
S 3 (48) - 2014 - Di sn vn h‚a phi vt th
 MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM - 
 MỘT DI SẢN VĂN HÓA ĐỘC ĐÁO
 67
 LÊ TH THU HIN*
 TÓM TẮT
 Múa rối nước là nghệ thuật gắn với nền văn minh lúa nước của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, từ trước
thế kỷ X. Múa rối nước có nhiều giá trị liên quan tới nhận thức, xã hội, giáo dục, giải trí..., nổi bật lên là giá trị thẩm
mỹ. Múa rối nước mang tính phổ quát, so với bất kỳ loại hình nghệ thuật (biểu diễn, tạo hình, cổ vật...) nào, kể
cả nghệ thuật truyền thống và hiện đại. Múa rối nước là một dòng văn hóa riêng biệt, được cả người trong và
ngoài nước vô cùng thích thú.
 Từ khóa: Giá trị, múa rối nước, thẩm mỹ, nghệ thuật
 ABSTRACT
 Water puppet is an art attached to paddy field cultivation of residents in Red River Delta before 10th
century. Water puppet has many values linked to awareness, society, education, entertainment, especially
aesthetic values. Water puppet has broader sense than any other art forms (performing, fine art), including
classical and modern arts. Water puppet is a special cultural characteristics that get much attention from
Vietnamese and foreigners.
 Key words: Value, Water puppet, Aesthetics, art
 úa rối nước là một sản phẩm thuộc di sản nơi xóm làng, đồng ruộng. Trong rối nước, chúng
 văn hóa độc đáo của dân tộc, một loại hình ta còn thấy nhiều phương ngôn, tục ngữ, ca dao,
Mnghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống dân ca của các làng nghề. Văn học rối nước nôm
của Việt Nam. Về thời điểm ra đời của nghệ thuật na, không bị gò bó trong một hình thức thơ văn
này, các nhà nghiên cứu khá đồng nhất khi cho nào. Những con rối đẹp một cách mộc mạc cùng
rằng, muộn nhất, nó cũng được hình thành từ thế nội dung và lời giáo trò không quá cao xa so với
kỷ X, với những căn cứ được ghi rõ trong các bộ cuộc sống nơi thôn dã. 
chính sử và tài liệu bia ký còn lại đến ngày nay. Khi nói về các thể loại sân khấu, sức hấp dẫn, lôi
 Trải qua hơn 1000 năm tồn tại, từ lúc ban đầu cuốn người xem thường thông qua kịch bản, ngôn
chỉ sử dụng hoạt động của quân rối, không lời để ngữ văn học và thể hiện bằng nghệ thuật diễn xuất-
diễn tả. Nghệ thuật múa rối nước ngày càng trở nên nội tâm, giọng nói, hành động của người diễn viên.
phong phú và hoàn thiện, với không gian biểu diễn, Còn ở Múa rối nước, điều hấp dẫn khán giả chính ở
có thủy đình, có lời giáo trò, lời thoại, dàn nhạc, sự ngộ nghĩnh, ở hành động ngoại hình của quân
tiếng pháo... nhằm tạo thêm hiệu quả và hấp dẫn rối. Khoảng hơn mười năm trở lại đây, ở Việt Nam
người xem. Nhờ đó, Múa rối nước thể hiện ngày bắt đầu xuất hiện và thể nghiệm một thể loại kịch
càng rõ ràng và phong phú các giá trị văn hóa mà mới - Kịch hình thể ( còn gọi là kịch mới). Thể loại
nó tích hợp, nhất là giá trị thẩm mỹ. này xuất hiện ở Mỹ khoảng những năm 60, đầu
 Có thể khẳng định, ở phương diện nghệ thuật, thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Ở thể loại này, thể
cơ sở hình thành của Múa rối nước là nghệ thuật những nhóm thể nghiệm đã phá vỡ cấu trúc truyền
dân gian và kỹ thuật truyền thống. Trên sân khấu thống bằng cách giới thiệu mối quan hệ giữa khán
độc đáo của mình, quân rối nước, một sản phẩm giả và không gian diễn xuất, loại bỏ ngôn ngữ đối
tạo hình độc đáo, tái hiện những gì thường gặp thoại kịch. Giá trị của loại kịch này không phải là ở
 ngôn ngữ văn học, mà chủ yếu tập trung vào hình
* Phó Vụ trưởng, Vụ Đào tạo ­ Bộ VHTTDL ảnh, thị giác lẫn thính giác. 
 L˚ Th Thu Hin: Ma ri nc Vit Nam...
 Trong Kịch hình thể, có thể thấy đồ vật được phi Việt sau lũy tre làng, nó có thể đến với những cộng
 vật chất hóa, giữ vai trò trong phạm vi nhịp điệu tự đồng người ở khắp nơi trên thế giới, thuộc những
 nhiên của chúng. Thân hình của diễn viên thì dễ nền văn hóa khác nhau, những ngôn ngữ khác
 uốn và có thể tạo ra các hình ảnh; ví dụ: 3 diễn viên nhau, bởi chính ở đặc trưng khác biệt với tất cả các
68 phối hợp tạo ra hình ảnh liên hoàn của một con thể loại nghệ thuật khác: Người xem có thể hiểu nội
 ngựa nằm dài trên sàn diễn. Dùng diễn xuất tạo ra dung của trò diễn mà không cần phải hiểu về ngôn
 hình ảnh, đó là một sự thừa kế từ nghệ thuật Múa ngữ, tiếng nói. Để từ đó, ai cũng nhận thấy, nội
 đương đại, một nghệ thuật nhấn mạnh vào chuyển dung truyền tải qua ngôn ngữ biểu hình có tính
 động tự nhiên. Nó dùng những cử động mang tính phổ quát rộng hơn so với sự diễn giải bằng lời nói. 
 tự nhiên và tính cá nhân của diễn viên, sự tự do cá Bên cạnh đó, tính kỳ là một trong những yếu tố
 nhân trong thể hiện đồng thời làm cho họ xuất hiện làm nên sự, hấp dẫn của nghệ thuật. Ở rối nước Việt
 như đã được phong cách hóa cao độ trong những Nam, tính kỳ, nghịch thường đã đóng một vai trò
 mô thức chuyển động chậm, những mô thức đặc biệt trong phương pháp nghệ thuật và quyết
 chuyển sang nhanh, mô thức bất chuyển điệu của định sự thành công của trò diễn. Những quân rối
 lời nói hay cử động... Tất cả những gì ở Kịch hình chuyển động, nhảy múa, ca hát trên mặt nước mà
 thể làm cho ta liên tưởng đến Múa  ... hẳng đứng), phường Phú
vô giác, nhưng nhờ sự điều khiển khéo léo, tài nghệ Đa diễn bằng máy dây (sử dụng dây chão, dây
của người nghệ nhân, bỗng trở nên sống động như thép căng trên đầu một hệ thống các cọc ngầm từ
một sinh thể có hồn, đem đến những điều kỳ, cười- buồng trò ra sân khấu), còn phường Đào Thục lại
vui... Theo chúng tôi, đây chính là biểu hiện cao sử dụng cả hai kỹ thuật truyền thống dùng máy
nhất ở cái đẹp của nghệ thuật Múa rối nước (cũng sào bằng tre, sào gỗ, sào kim loại, kết hợp với máy
như nghệ thuật Xiếc). Khi đánh giá giá trị nghệ dây bằng chão, dây thép, để điều khiển những
thuật đối với các trò diễn Múa rối nước, chắc hẳn, con rối lớn như cô tiên, hổ, ba khí... hay làm cho
 L˚ Th Thu Hin: Ma ri nc Vit Nam...
 con rối lắc đầu, vung vẩy được cả hai tay. Độc đáo Trò đu của làng Đống, cô gái trèo lên, trèo
 hơn cả, chú Tễu của phường Đào Thục có thể dễ xuống, giang hay tay đu rất tự nhiên thoải mái
 dàng đi sang phải, đi sang trái, đi các hướng, thậm (khác hẳn với các phường khác, phải để người đánh
 chí quay ngược trở lại 3600 (các phường khác chỉ đu đứng sẵn trên bàn đu, nấp sau giấy diều, khi
70 với vòng quay từ 90 – 1200). Trong khi đó, làng đánh đu giấy này rách bung ra). Bí mật ở chỗ, chỉ
 Nguyên Xá dùng bàn máy dây là một khung cũi bằng một cái nẫy nhỏ gọi là lưỡi gà gắn ở bàn đu,
 lớn bằng gỗ (trên mặt đục các lỗ để lắp quân rối bám chặt vào một ngàm làm bằng kim loại gắn ở
 và dây điều khiển), đặt trên một cái nong, có thể đế quân rối, trong bụng con rối có một hòn chì
 điều khiển được những quân rối lớn mà máy sào buộc kéo hai cánh tay con rối theo kiểu đòn bẩy,
 không làm được như cô tiên, chú Tễu, hay để thể nghệ nhân điều khiển con rối hai tay giơ ngang
 hiện những trò độc đáo của phường như múa Bát nắm lấy cái đu, đu lên, đu xuống dễ dàng, đẹp mắt.
 tiên, Múa sư tử... Ngoài phạm vi quân rối, kỹ thuật, kỹ xảo của các
 Như vậy, giá trị thẩm mỹ của Múa rối nước thể máy móc điều khiển quân rối, nghệ thuật Múa rối
 hiện rất rõ ở những dấu ấn địa phương, từ quân nước vùng châu thổ sông Hồng còn mang tính
 rối, kỹ thuật máy, kỹ thuật điều khiển, hay cùng nguyên hợp: Có tích, có trò, có ca, múa, nhạc, diễn,
 một trò diễn giống nhau, nhưng mỗi phường, hề trên cơ sở của tư duy nguyên hợp “ba trong
 mỗi địa phương thể hiện có khác nhau... làm nên một”. Từ đó, hướng tới thủ pháp sáng tạo hình tượng
 các tiểu vùng khác nhau trong văn hóa Châu thổ rối theo nguyên tắc: tả thực bằng “khác thực”, miêu
 sông Hồng. tả cuộc sống hiện thực bằng quân rối, bằng ca múa
 Khi nói tới giá trị thẩm mỹ, không thể quên nhạc, bằng sân khấu nước... Tuy nhiên, có thể thấy
 nhân vật Tễu, mang tính biểu tượng của múa rối rằng, tính nguyên hợp trong Múa rối nước nổi trội
 nước, của văn hoá lúa nước Việt Nam. Cùng một hơn ở Xiếc, vì nó kế thừa được giá trị văn hóa, văn
 nhân vật Tễu, nhưng Tễu làng Đống to hơn và hoạt minh lúa nước của người Việt vùng châu thổ sông
 động linh hoạt hơn so với các phường khác qua các Hồng. Nó là sự kết hợp tổng hòa, nhuần nhuyễn giữa
 động tác: gật đầu, đưa tay lên cao, xuống thấp, nghệ thuật chế tác và tạo hình quân rối, nghệ thuật
 xoay ngang, qua trái, qua phải, đi vòng khắp sân biểu diễn dân gian với kỹ thuật lắp máy, dây điều
 khấu, và thông minh, hóm hỉnh, nghịch ngợm, hết khiển quân rối và không thể thiếu âm nhạc dân gian
 sức sinh động với lời giáo: trong hội làng. Đặc biệt, hình ảnh nghệ nhân dùng
 “Nay mừng vận mở thái hòa, sào, dùng gậy để múa rối gợi cho ta liên tưởng đến
 Tễu tôi nhanh nhảu bước ra trình trò. việc người xưa đã dùng mái chèo khấy động mặt
 Bốn bề công chúng xem cho, nước trong các cuộc đua thuyền tại các ngày lễ hội...
 Múa thuận, múa nghịch mọi trò mọi hay. Suy rộng ra, trong điều kiện tự nhiên của vùng mênh
 Chứ không phải cứng ngay như người gỗ...” mông sông nước ấy, phương tiện giao thông bằng
 Còn Tễu làng Đào Thục được gọi là Ba Khí không thuyền là sự lựa chọn, thích ứng tất nhiên của con
 những đi lùi, đi chéo như Tễu ở các phường khác mà người. Bởi vậy, hành động đẩy thuyền, kéo thuyền
 có thể quay ngược trở lại khi muốn đi vào buồng trò. trở nên như thói quen hành động thường nhật của
 Hay cùng trò đánh cá nhưng những con cá phường con người, chẳng khác nào hành động đẩy sào, kéo
 Đống (Đông Các) từ mặt nước có thể nhảy được rất xa dây trong Múa rối nước. Không có hành động đẩy
 ra ngoài sân khấu, đến hàng chục mét (không phải
 từ buồng trò nghệ nhân ném ra). Hay trò Cáo bắt vịt
 của phường Nguyễn (Nguyên Xá), cáo lại ngoạm
 được con vịt và leo tót lên cây cau cao vút. (Người ta
 đã sử dụng hai con cáo được tạo hình giống nhau, để
 cùng phối hợp điều khiển, một con cáo để bơi, đuổi
 bắt vịt được điều khiển bằng sào, một con cáo để leo
 cây cau thẳng đứng và tụt xuống, được điều khiển
 bằng dây kéo. Bí mật cáo ngoạm vịt leo lên cây nằm
 ở một móc câu bằng một mẩu dây thép nhỏ, gắn vào
 mõm cáo và một khuy nhỏ bằng kim loại, gắn vào
 con vịt qua sự điều khiển của nghệ nhân).
 Thy ˜nh - ¹sŽn khu ma ri ncº (Gia LŽm - Hš Ni) - 
 nh: Nguyn Thc
S 3 (48) - 2014 - Di sn vn h‚a phi vt th
sào, kéo dây, thì không có trò Múa rối nước. Rõ ràng, là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tư, tình
kỹ thuật điều khiển quân rối trong Múa rối nước là cảm của con rối vô tri mà lời thoại dẫu có cũng
sự kế thừa những hành động đẩy thuyền, kéo không chuyển tải hết. Âm nhạc còn làm nhiệm vụ
thuyền ấy, và hành động đẩy sào, kéo dây trong Múa gắn kết các trò diễn với nhau, làm người xem không
rối nước là sự sáng tạo dựa trên nguyên lý kỹ thuật có cảm giác vụn vặt giữa các trò diễn, giúp truyền 71
kéo, đẩy, kết hợp với sức nước. Giá trị này làm nên tải nội dung tốt hơn, tạo nên sự giao lưu, gần gũi
giá trị nghệ thuật của Múa rối nước, cũng chính là giữa con rối và người xem. Chính điều này làm cho
giá trị của nghệ thuật dân gian Việt Nam. khán giả thoải mãi, thích thú theo dõi từ đầu đến
 Cái làm nên giá trị độc đáo của nghệ thuật Múa cuối buổi biểu diễn. Ngày nay, đôi khi người ta cũng
rối nước ngoài con rối, kỹ thuật biểu diễn, thì yếu sử dụng băng casette thay thế cho dàn nhạc sống,
tố âm nhạc - nhạc sống đã giữ vai trò quan trọng, nhưng làm như vậy đã mất đi một phần nào sự hấp
tạo nên sự hấp dẫn của loại hình. Như đã phân tích, dẫn của nghệ thuật Múa rối nước. Bởi lẽ, tiết tấu của
Múa rối nước là một nghệ thuật nguyên hợp, luôn nhạc sống gây hưng phấn cả người diễn lẫn người
có âm nhạc dân gian và dân ca, dân vũ. Trước đây, xem, nghệ nhân điều khiển con rối lúc dịu dàng,
khi giai điệu âm nhạc chưa xuất hiện, thì bộ gõ là khoan thai, lúc mãnh liệt, sôi động, thiếu nó, không
những nhạc cụ sơ khai của Múa rối nước. Ban đầu, khí của cả chương trình sẽ thiếu tính hấp dẫn, sôi
trong đời sống của người Việt, tiếng trống, tiếng gõ động. Với Rối nước, âm nhạc đứng thứ hai sau kỹ
chỉ nhằm xua đuổi thú dữ, tiếng gọi đất trời, tiếng thuật biểu diễn, và làm nên giá trị của nghệ thuật
tập trung quân đi đánh trận, hay tập trung cộng dân gian độc đáo này.
đồng... Nên người Việt ta đã có trống đồng, có nền Nảy sinh trực tiếp từ cuộc sống, trong tiến trình
văn minh trống đồng. Sau này, bộ gõ đã thành âm lịch sử hình thành dân tộc Việt, Múa rối nước là một
nhạc không thể thiếu trong buổi diễn Rối nước. loại hình nghệ thuật dân gian mang đậm tính chất
Múa rối nước cần âm thanh mạnh, để giữ tiết tấu nguyên hợp. Múa rối nước thể hiện cả phong tục
và khuấy động không khí buổi diễn trong không tập quán, về sự hình thành của các nghề thủ công
gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào, náo của cư dân người Việt vùng châu thổ sông Hồng
nhiệt. Tiếng trống rộn ràng, cùng với mặt nước trong lịch sử như nghề mộc, chạm, điêu khắc, tạo
phản âm làm âm thanh càng thêm vang, xa, náo hình. Nó là một chỉnh thể nguyên hợp giữa các
động đã tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút, kích động thành tố thẩm mỹ mang tính chất tạo hình, tính chất
mạnh cả người diễn lẫn người xem. Các nhạc cụ gõ vũ đạo, âm thanh, dân ca, dân vũ, nghệ thuật biểu
sử dụng trong Múa rối nước là: trống cái, trống con, diễn... Trong quá trình phát triển, Múa rối nước tiếp
trống cơm, mõ, thanh la, não bạt. Khán giả đến với biến với các loại hình nghệ thuật truyền thống khác
nghệ thuật Rối nước không chỉ xem những con rối hình thành thêm các thành tố ngôn từ (ngữ văn),
ngộ nghĩnh, chuyển động tài tình trên mặt nước, được nói, hát lên theo làn điệu nhất định (âm nhạc)
mà còn được thưởng thức không khí biểu diễn náo với những phương thức trình diễn nhất định (nghệ
nhiệt, sôi động, phấn khởi từ âm thanh của bộ gõ. thuật diễn xướng) trong môi trường không gian,
 Các diễn viên điều khiển rối thường kiêm luôn những cách trang trí, bối cảnh, hóa trang, y phục
vai trò nhạc công. Cách biểu diễn chỉ là ngẫu hứng, của quân rối (nghệ thuật tạo hình). Nghệ thuật ấy
tạo không khí tùy vào từng trò. Sau này, khi tiếp thu được diễn ra trong các ao làng, trong môi trường
Chèo trong quá trình phát triển, thì dàn nhạc Chèo văn hóa - xã hội vùng châu thổ sông Hồng với
cũng được chuyển vào Múa rối nước, tuy nhiên có những nét văn hóa đặc thù của đất nước Việt Nam
đơn giản hơn. Ngoài thành phần bộ gõ như trống mênh mông sông nước, với những đặc trưng địa
đế, thanh la, mõ, sanh tiền, trống cơm, trống bản, hình vùng trũng với nhiều ao, hồ và văn hóa làng xã
còn có bộ hơi sáo, kèn... Đi kèm với âm nhạc, người mà các vùng khác của đất nước không có hoặc
ta còn bổ sung diễn viên có giọng hát tốt để vừa không đậm nét. Qua đây, có thể khẳng định văn hóa
nói lời giáo, vừa hát các làn điệu Chèo. Ngoài ra, còn mang tính nguyên hợp trong Múa rối nước chính là
có pháo, tù và ốc hỗ trợ đắc lực cho trò diễn. Trò một trong những giá trị thẩm mỹ của Múa rối nước.
diễn Rối nước thường không lời, bởi vậy, sự chuyển Nếu chú Tễu là một biểu tượng của Múa rối
động của con rối cần thiết có sự hỗ trợ của âm nhạc. nước, thì chúng ta phải nói đến tòa thủy đình, nơi
 Qua âm nhạc, người nghệ nhân mới có thể diễn biểu diễn Rối nước, như một yếu tố góp phần làm
tả được hết vẻ đẹp của con rối. Có thể nói, âm nhạc nên nét độc đáo trong giá trị thẩm mỹ của Múa
 L˚ Th Thu Hin: Ma ri nc Vit Nam...
 rối nước. Không biết từ khi nào, ở Múa rối nước có cứu đi trước, chúng tôi đồng tình thủy đình là
 thủy đình? Trong thực tế, đã có đến 28 phường biểu tượng của Múa rối nước và chứa đựng
 hội rối nước dân gian ở 11 tỉnh của khu vực châu những giá trị văn hóa - lịch sử [7, tr 71]. Cho đến
 thổ sông Hồng (theo thống kê của các nhà nghiên nay, thủy đình là một trong những cứ liệu vật
72 cứu Tô Sanh, Nguyễn Huy Hồng). Cho đến nay, dù chất có giá trị để xác định sự hiện hữu của nghệ
 không có nhiều thủy đình còn tồn tại, thực tế thuật Múa rối nước trong đời sống văn hóa của
 chứng tỏ không phải phường rối nào cũng có nhà cư dân châu thổ sông Hồng. Đến thế kỷ XVI, thủy
 thủy đình và thủy đình không mang tính phổ biến đình mới xuất hiện là minh chứng cho nguồn gốc
 như Tễu (phường, hội nào cũng có), dầu vậy thủy ra đời của Múa rối nước, bắt nguồn từ chốn dân
 đình vẫn trở thành một biểu tượng của Múa rối gian, không phải như nhận thức của một số nhà
 nước Việt Nam. nghiên cứu với luận điểm Rối nước được du nhập
 Có lẽ, cách gọi thủy đình đơn giản chỉ bởi nó được vào Việt Nam, để phục vụ triều đình, rồi mới lan
 dựng lên giữa ao, hồ có nước, với kiến trúc cân đối, ở truyền trong dân gian. Hình ảnh của thủy đình
 các làng quê Việt Nam. Thực tế, thủy đình có mặt cho phép chúng ta có thể khẳng định, văn hóa
 bằng kiến trúc hình vuông, mái lợp được chia làm hai dân gian đã sinh ra Múa rối nước, còn văn hóa
 lớp: âm dương, bốn cột cái đỡ các mái trên. Mười hai cung đình lại góp phần hoàn thiện nghệ thuật
 cột con sắp thành hàng quanh bốn bên đỡ mái dưới. Múa rối nước dân gian Việt Nam. Hai biểu tượng
 Cả hai mái đều được lợp bằng ngói mũi xếp chồng sinh động - Tễu và Thủy đình, đã thể hiện sinh
 lên nhau theo hình vẩy cá. Nơi giáp góc các mái đều động về sự gắn bó hữu cơ giữa văn hóa dân gian
 được làm thành những đầu đao uốn lượn cong lên. với văn hóa cung đình, để tạo nên giá trị thẩm mỹ
 Dù được xây bằng gạch hay dựng bằng gỗ thì thủy của Múa rối nước Việt Nam./.
 L.T.T.H
 đình vẫn được mở thông ra bốn hướng. 
 Như các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cho Tài liệu tham khảo
 rằng, tư duy người Việt thường gắn giá trị thẩm mỹ 1- Hoàng Chương (2012), Nghệ thuật Múa rối nước Việt
 với giá trị ích dụng. Vì vậy, thủy đình với kiến trúc Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
 như vậy sẽ không có nhiều công năng sử dụng, nên 2- Nguyễn Văn Định (2007), “Nghệ thuật Múa rối nước làng
 đã có ít thủy đình ở các phường rối. Tuy nhiên, tính Đống (xã Đông Các, huyện Đông Hưng, Thái Bình)”, Luận văn
 độc đáo của thủy đình rối nước ở chỗ, nó thường Thạc sĩ Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học
 tọa giữa ao làng, trong một tổng thể không gian xã hội Việt Nam, Hà Nội.
 kiến trúc của đình, đền, chùa, miếu... không những 3- Lê Hương Giang (2008), “Nghệ thuật Múa rối nước ở
 đẹp về kiến trúc, còn mang đậm ý nghĩa phong Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn
 thủy. Và, thủy đình đã gắn liền với múa rối nước, với hóa Hà Nội.
 sinh hoạt cộng đồng làng xã, với hội làng... Với đặc 4- Nguyễn Huy Hồng (2005), Lịch sử nghệ thuật Múa rối Việt
 điểm xuất hiện của thủy đình trong tổng thể kiến Nam, Nxb. Sân khấu, Hà Nội.
 trúc quan trọng ấy, có lẽ, những hoạt động biểu 5- Nguyễn Huy Hồng (2007), Nghệ thuật múa rối, Nxb. Sân
 diễn rối nước cũng được lựa chọn vào những dịp khấu, Hà Nội.
 6- Nguyễn Thành Nhân (2006), Nghệ thuật Rối và một số
 hội - lễ quan trọng, không đơn thuần là trò vui giải
 đặc trưng của sân khấu rối Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
 trí của người nông dân chốn dân gian. 
 7- Vũ Tú Quỳnh (2012), “Sự phục hồi của Rối nước đồng
 Do đó, chúng tôi tập trung nghiên cứu Rối
 bằng Bắc Bộ từ đổi mới đến nay”, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học,
 nước ở giai đoạn từ thế kỷ XVI trở lại đây, giai
 Học viện Khoa học xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
 đoạn có thủy đình, bởi cho rằng đó là thời kỳ rối
 8- Tô Sanh (1976), Nghệ thuật Múa rối nước, Nxb. Văn hóa,
 nước Việt Nam phát triển hoàn thiện, cả về không
 Hà Nội.
 gian biểu diễn, sân khấu - thủy đình. Ở thời Lý -
 9- Phạm Trọng Toàn (199), “Tìm hiểu nghệ thuật Múa rối
 Trần, dù Múa rối nước phát triển rực rỡ ở kỹ thuật,
 nước và sự phối hợp của âm nhạc trong biểu diễn Múa rối nước
 kỹ xảo điều khiển quân rối, nhưng nơi biểu diễn
 cổ truyền làng Nguyễn”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Trường
 gọi là buồng trò, do nghệ nhân tự dựng lên tạm
 Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
 bợ bằng phên tre, nứa lá để biểu diễn, sau diễn
 10- Trần Trí Trắc ( 2011), Cơ sở triết học, văn hóa học, mỹ học
 lại dỡ bỏ. Vì thiếu ổn định nên Múa rối nước chưa của Chèo cổ, Nxb. Sân khấu, Hà Nội.
 là nghệ thuật hoàn chỉnh, chỉ mang tính trò chơi (Ngày nhận bài: 11/7/2014; Ngày phản biện đánh giá:
 giải trí. Hơn nữa, từ quan điểm của nhà nghiên 19/8/2014; Ngày duyệt đăng bài: 21/8/2014)

File đính kèm:

  • pdfmua_roi_nuoc_viet_nam_mot_di_san_van_hoa_doc_dao.pdf