Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018

Nghiên cứu mô tả cắt ngang bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 504 người cao tuổi sử dụng bộ câu hỏi

WHOQOL-OLD nhằm xác định một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà

Nội năm 2018. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Người cao tuổi là nữ giới, sống đơn thân, không con cái, không có thu

nhập từ công việc ổn định, trình độ học vấn thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, tình trạng sức khỏe không tốt và sống

ở khu vực nông thôn có điểm chất lượng cuộc sống thấp hơn, điều này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Khuyến nghị

các chương trình, chính sách can thiệp nâng cao chất lượng cuộc sống, cần ưu tiên cho những người cao tuổi là nữ,

sống đơn thân, không con cái, điều kiện kinh tế khó khăn, tình trạng sức khỏe không tốt và sống ở khu vực nông thôn.

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 1

Trang 1

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 2

Trang 2

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 3

Trang 3

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 4

Trang 4

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 5

Trang 5

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 6

Trang 6

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 7

Trang 7

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 12420
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018

Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
310 TCNCYH 129 (5) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hữu Thắng, 
Viện ĐT YHDP &YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: nguyenhuuthang@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 07/02/2020
Ngày được chấp nhận: 13/03/2020
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 2018
Nguyễn Hữu Thắng1, , Nguyễn Thị Như Ngọc2, Nguyễn Hà Lâm2, 
Phạm Hải Thanh2, Nguyễn Ngọc Khánh2, Nguyễn Vũ Thiện2, 
Mạc Đức Long2, Đỗ Thị Thanh Toàn1, Lê Thị Thanh Xuân1
1Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội,
2Sinh viên Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 504 người cao tuổi sử dụng bộ câu hỏi 
WHOQOL-OLD nhằm xác định một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà 
Nội năm 2018. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Người cao tuổi là nữ giới, sống đơn thân, không con cái, không có thu 
nhập từ công việc ổn định, trình độ học vấn thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, tình trạng sức khỏe không tốt và sống 
ở khu vực nông thôn có điểm chất lượng cuộc sống thấp hơn, điều này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Khuyến nghị 
các chương trình, chính sách can thiệp nâng cao chất lượng cuộc sống, cần ưu tiên cho những người cao tuổi là nữ, 
sống đơn thân, không con cái, điều kiện kinh tế khó khăn, tình trạng sức khỏe không tốt và sống ở khu vực nông thôn.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong những nước có tốc 
độ già hóa nhanh nhất thế giới.1 Quá trình già 
hoá quá nhanh khiến chúng ta không kịp ứng 
phó với những thách thức mà nó gây ra. Thủ đô 
Hà Nội là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị 
của Việt Nam với sự phát triển kinh tế, dân cư 
đông đúc, trong đó nhiều hộ gia đình Việt Nam 
có cấu trúc từ 2 đến 3 thế hệ cùng sinh sống. 
Gánh nặng từ vấn đề dân số mà đặc biệt là sự 
già hóa dân số nhanh chóng đang gây áp lực 
nặng nề lên sự phát triển chung của Thủ đô. 
Một trong những vấn đề thiết yếu đang được 
chú trọng hiện nay là đảm bảo chất lượng cuộc 
sống cho người cao tuổi thành phố. chất lượng 
cuộc sống là một khái niệm đa chiều, mang 
tính chủ quan cao và theo Tổ chức Y tế Thế 
giới (WHO), chất lượng cuộc sống là “sự hiểu 
biết của cá nhân về vị trí xã hội của họ trong 
bối cảnh văn hóa, hệ thống các giá trị và trong 
mối quan hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn 
mực và mối quan tâm của họ”.2 Một số nghiên 
cứu đã chỉ ra rằng những khía cạnh quan trọng 
ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống là sức 
khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, điều kiện 
kinh tế, môi trường và tôn giáo.3,4 Một nghiên 
cứu ở Bangladesh đã chỉ ra rằng sự ốm yếu đã 
gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống 
của nghười tàn tật, ảnh hưởng theo nhiều khía 
cạnh khác nhau về tâm lý, xã hội và kinh tế.5 
người cao tuổi có trình độ học vấn và thu nhập 
cao hơn có liên quan đến điểm chất lượng cuộc 
sống cao hơn.6 Một số yếu tố lối sống chẳng 
hạn như uống rượu, thói quen tập thể dục và lái 
xe ô tô có liên quan đến chất lượng cuộc sống 
tốt hơn, trong khi béo phì bụng và đi xe gắn 
máy lại có liên quan đến chất lượng cuộc sống 
thấp hơn.7 Cụ thể đối với người cao tuổi tại Việt 
Nam, chất lượng cuộc sống cao hơn ở những 
người có trình độ học vấn cao hơn, có điều kiện 
Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, người cao tuổi, mối liên quan, WHOQOL-OLD, Hà Nội.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
311TCNCYH 129 (5) - 2020
kinh tế xã hội tốt hơn, là chủ hộ gia đình và 
không có ốm đau bệnh tật trong 6 tháng qua 8 - 
10. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có nhiều bằng 
chứng về chất lượng cuộc sống và các yếu tố 
ảnh hưởng lên nó ở người cao tuổi thành phố 
Hà Nội. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến 
công tác thiết kế và thực hiện các chính sách và 
chương trình can thiệp phù hợp nhằm nâng cao 
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm xác 
định một số yếu tố liên quan đến chất lượng 
cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội 
năm 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) hiện đang 
sinh sống trong địa bàn thành phố Hà Nội năm 
2018. Đối tượng được chọn vào nghiên cứu 
là những người sống tại hộ gia đình khảo sát 
ít nhất 12 tháng tính đến thời điểm tiến hành 
nghiên cứu và những người tự nguyện tham 
gia nghiên cứu. Trường hợp hộ gia đình có 
nhiều hơn 01 người cao tuổi đủ điều kiện thì 
chọn người cao tuổi gặp đầu tiên hoặc ở bên 
tay trái ĐTV. Trường hợp không có người cao 
tuổi hoặc không người cao tuổi nào trong hộ 
gia đình đó hoàn thành phỏng vấn được ta tiếp 
tục đi đến hộ gia đình tiếp theo sát bên tay trái.
2. Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện 
trên mẫu 504 người cao tuổi trên địa bàn thành 
phố Hà Nội. 
Chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu nhiều 
giai đoạn. 
Bước 1: Chọn ngẫu nhiên hệ thống 3 quận 
nội thành và 3 huyện ngoại thành thuộc địa bàn 
thành phố Hà Nội. 
Bước 2: Chọn ngẫu nhiên hệ thống 3 
phường / xã thuộc mỗi quận / huyện đã chọn. 
Bước 3: Chọn mẫu t ... ng về 
đặc điểm cá nhân gồm: tuổi, giới, tôn giáo, tình 
trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập, nợ 
nần, bệnh đang mắc, sức khỏe tự đánh giá, 
người sống cùng, người chăm sóc chính, chủ 
hộ gia đình, số con, thời gian lưu trú, khu vực 
sống. Phần 2: Thang đo chất lượng cuộc sống 
WHOQOL - OLD gồm 24 câu hỏi chia thành 6 
khía cạnh, mỗi khía cạnh gồm 4 câu hỏi: Giác 
quan, Tự chủ, Hoạt động xã hội, Hoạt động quá 
khứ, hiện tại và tương lai, Cái chết và Tình thân.
3. Phân tích số liệu
Thông tin được thu thập được nhập, mã hóa 
bằng phần mềm Epidata 3.1 và phân tích bằng 
phần mềm STATA 15. Điểm chất lượng cuộc 
sống được tính bằng tổng điểm của các câu và 
quy đổi sang thang điểm 0-100 theo hướng dẫn 
của Tổ chức Y tế Thế giới11. 
Điểm chất lượng cuộc sống khía cạnh (vd: 
Giác quan) 
 = 100 x 
Q1+Q2+Q10+Q20
4
 - 1
4
Điểm chất lượng cuộc sống chung
 = 100 x 
Q1+Q2+Q3+Q4++Q23+Q24
24
 - 1
4
Phân loại chất lượng cuộc sống chung dựa 
trên thang điểm 0-100 theo các mức sau:
0-25 điểm: chất lượng cuộc sống kém.
26-50 điểm: chất lượng cuộc sống trung 
bình
51-75 điểm: chất lượng cuộc sống khá
76-100 điểm: chất lượng cuộc sống tốt.
Sử dụng kiểm định test phi tham số Mann-
Whitney và Krusk Wallis để so sánh sự khác 
biệt về điểm chất lượng cuộc sống giữa các 
nhóm yếu tố.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
312 TCNCYH 129 (5) - 2020
3. Đạo đức trong nghiên cứu.
Nghiên cứu là một phần trong nghiên cứu 
của Đại học Mahidol, Thái Lan triển khai tại 5 
quốc gia Đông Nam Á đã được hội đồng đạo 
đức Trường đại học Mahidol phê duyệt ngày 
10/03/2018 với mã số 2018/218.2809. Đối 
tượng tham gia được giải thích về mục đích, nội 
dung của nghiên cứu, tự nguyện đồng ý tham 
gia và có quyền rút lui ở bất cứ giai đoạn nào. 
Các thông tin thu được là bí mật và chỉ được sử 
dụng phục vụ cho mục đích nghiên cứu
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trên 504 người từ 60 tuổi trở lên có độ tuổi trung bình là 67,97 ± 
6,93; nhỏ nhất là 60 tuổi và lớn nhất là 92 tuổi. người cao tuổi là nữ giới chiếm đa số với 56,94% 
và 51,98% người cao tuổi có trình độ THCS/ Trường dạy nghề. 53,17% đối tượng sống tại nông 
thôn và có đến 3,17% người cao tuổi độc thân. Phần lớn người cao tuổi hiện đang sống cùng với 
vợ/ chồng (72,22%) và con cái (59,33%). người cao tuổi có thu nhập từ công việc chiếm 76,39% 
và 4,37% người cao tuổi đang nợ nần. Tỷ lệ người cao tuổi tự làm chủ hộ gia đình là 42,46%. Liên 
quan đến tình trạng sức khỏe, có 21,4 % người cao tuổi tự đánh giá sức khỏe ở mức không tốt và 
1,2% ở mức rất không tốt. Trong sinh hoạt hàng ngày, 29,96% người cao tuổi cần đến sự chăm sóc 
chính của người khác (Bảng 1).
Bảng 1. Phân bố điểm chất lượng cuộc sống về đặc điểm cá nhân 
của người cao tuổi (n = 504)
Đặc điểm n TB ± ĐLC (0-100) p
Tuổi
60-69 tuổi 314 76,14 ± 13,13
0,000
*
70-79 tuổi 155 74,67 ± 12,33
≥ 80 tuổi 26 63,46 ± 13,56
Giới
Nam 217 76,39 ± 13,02 0,034
**Nữ 287 73,83 ± 13,14
Tôn giáo
Không tôn giáo 379 74,53 ± 13,51 0,309
**Có tôn giáo 125 76,18 ± 13,51
Tình trạng hôn nhân
Độc thân 16 71,74 ± 19,21
0,000
*
Có vợ/ chồng 376 76,37 ± 12,51
Góa/ Ly dị/ Ly thân 112 70,58 ± 13,27
Người sống cùng
Sống một mình 43 65,23 ± 18,32 0,000
**Sống cùng người khác 461 75,81 ± 12,22
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
313TCNCYH 129 (5) - 2020
Đặc điểm n TB ± ĐLC (0-100) p
Trình độ học vấn
Dưới THCS 172 70,94 ± 13,31 0,000
**Từ THCS trở lên 332 77,01 ± 12,58
Con cái
Không có con 21 68,30 ± 21,80 0,272
**Có con 483 75,23 ± 12,59
Khu vực sống
Nông thôn 268 71,94 ± 11,15 0,000
**Đô thị / Cận đô thị 236 78,34 ± 14,37 
* Kruskal Wallis test / ** Mann-Whitney test
Điểm chất lượng cuộc sống của nhóm 60 - 69 tuổi (76,14 ± 13,13) là cao nhất và nhóm từ 80 tuổi 
trở lên (63,46 ± 13,56) là thấp nhất. người cao tuổi là nam giới có điểm chất lượng cuộc sống cao 
hơn nữ giới. Về tình trạng hôn nhân, nhóm người cao tuổi có vợ/ chồng có điểm chất lượng cuộc 
sống cao nhất và thấp nhất là nhóm đã góa, ly dị hoặc ly thân (70,58 ± 13,27). người cao tuổi có sống 
cùng với người khác có điểm chất lượng cuộc sống (75,81 ± 12,22) cao hơn những người sống một 
mình (65,23 ± 18,32). Điểm chất lượng cuộc sống của nhóm có trình độ học vấn dưới THCS (70,94 
± 13,31) thấp hơn nhóm có trình độ từ THCS trở lên (77,01 ± 12,58) và người cao tuổi sống tại khu 
vực nông thôn (71,94 ± 11,15) thấp hơn khu vực đô thị/ cận đô thị (78,34 ± 14,37). Chưa tìm thấy sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm trình độ học vấn, tôn giáo và con cái (Bảng 2).
Bảng 2. Phân bố điểm chất lượng cuộc sống về đặc điểm kinh tế của người cao tuổi (n = 
504)
Đặc điểm n TB ± ĐLC P
Thu nhập từ công việc
Không 119 69,91 ± 14,24 0,000
**Có 385 76,50 ± 12,39
Nợ nần
Không 482 75,28 ± 13,03 0,006
**Có 22 67,42 ± 13,58
Chủ hộ gia đình
Bản thân 214 76,28 ± 13,17 0,035
**Người khác 290 73,95 ± 13,05
** Mann-Whitney test
Nhóm người cao tuổi có thu nhập từ công việc có điểm chất lượng cuộc sống (76,50 ± 12,39) 
cao hơn nhóm không có (69,91 ± 14,24); nhóm người cao tuổi có nợ nần (67,42 ± 13,58) thấp hơn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
314 TCNCYH 129 (5) - 2020
nhóm không có nợ nần (75,28 ± 13,03); nhóm tự làm chủ hộ gia đình (76,28 ± 13,17) cao hơn nhóm 
không phải chủ hộ gia đình (73,95 ± 13,05). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) (Bảng 3).
Bảng 3. Phân bố điểm chất lượng cuộc sống về tình trạng sức khỏe
 của người cao tuổi (n = 504)
Đặc điểm n TB ± ĐLC P
Tình trạng sức khỏe tự đánh giá
Không tốt 114 68,38 ± 13,75
0,000
*
Bình thường 259 75,47 ± 11,52
Tốt 131 79,60 ± 13,42
Bệnh mạn tính kèm theo
Không mắc bệnh 119 77,86 ± 12,08 0,011
**Có mắc bệnh 385 74,04 ± 13,34
Người chăm sóc chính
Tự chăm sóc 353 76,42 ± 12,81 0,000
**Người khác 151 71,49 ± 13,30
* Kruskal Wallis test / ** Mann-Whitney test
Về đặc điểm tình trạng sức khỏe, những 
người cao tuổi tự đánh giá sức khỏe ở mức tốt 
có điểm chất lượng cuộc sống cao nhất (79,60 
± 13,42) và thấp nhất là người cao tuổi tự đánh 
giá sức khỏe mức độ không tốt (68,38 ± 13,75). 
Những người cao tuổi không mắc bệnh gì có 
điểm chất lượng cuộc sống (77,86 ± 12,08) 
cao hơn người có mắc bệnh (74,04 ± 13,34) và 
nhóm tự chăm sóc được cho bản thân có điểm 
(76,42 ± 12,81) cao hơn nhóm cần người khác 
chăm sóc chính (71,49 ± 13,30). 
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi, giới, tình 
trạng hôn nhân, người sống cùng, trình độ học 
vấn, khu vực sống, tình trạng kinh tế cá nhân 
và tình trạng sức khỏe là những yếu tố có liên 
quan đến chất lượng cuộc sống của người 
cao tuổi. Cụ thể có mối liên quan giữa tuổi cao 
và chất lượng cuộc sống thấp hơn đặc biệt là 
nhóm từ 80 tuổi trở lên, tương tự nghiên cứu 
của Vũ Toàn Thịnh năm 2013.9 Điều này là khá 
dễ hiểu khi tuổi càng cao người cao tuổi càng 
phải đối mặt nhiều hơn với các vấn đề về lão 
hóa khiến các đáp ứng kém nhanh nhạy, khả 
năng tự điều chỉnh và thích nghi cũng giảm 
dần, tất nhiên sức khỏe về thể chất và tinh thần 
cũng giảm sút. 
Trong nghiên cứu này, người cao tuổi là nam 
giới có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn nữ 
giới, tương đồng với nhiều nghiên cứu cả trong 
và ngoài nước sử dụng nhiều công cụ đo lường 
khác nhau.4,9 Sự khác biệt này có khả năng 
xuất phát từ thực tế là nam giới thường có trình 
độ học vấn cao hơn, thu nhập cao hơn, chủ 
động hơn trong việc ra quyết định so với phụ 
nữ và sự tương tác của họ với môi trường bên 
ngoài nhiều hơn phụ nữ. Bên cạnh đó kết quả 
cũng cho thấy người cao tuổi sống độc thân có 
chất lượng cuộc sống kém hơn người cao tuổi 
sống cùng gia đình hoặc người khác và người 
cao tuổi có vợ hoặc chồng có điểm chất lượng 
cuộc sống cao hơn người cao tuổi độc thân 
hoặc đã góa, ly dị hay ly thân. Kết quả tương 
đồng với hầu hết các nghiên cứu khác.8,10 Từ 
kết quả nghiên cứu này cho thấy các can thiệp 
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
315TCNCYH 129 (5) - 2020
tuổi cần ưu tiên nữ giới, nhất là phụ nữ cô đơn, 
không nơi nương tựa.
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy người cao 
tuổi sống tại khu vực nông thôn có chất lượng 
cuộc sống thấp hơn người cao tuổi sống tại 
khu vực đô thị và cận đô thị. Nghiên cứu của 
Marianne Baernholdt tại Hoa Kỳ cũng cho kết 
quả tương tự.12 Mối liên quan này có thể giải 
thích do điều kiện kinh tế, xã hội và đặc biệt là 
chăm sóc y tế giữa nội thành và một số huyện 
ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch. Sau đợt 
mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức 
chênh lệch này càng tăng. Tại không ít khu vực 
thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải 
sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu 
nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, 
nước giếng. Các can thiệp về chất lượng cuộc 
sống cũng nên ưu tiên tiến hành ở các khu vực 
nông nông nhằm nâng cao chất lượng cuộc 
sống chung cho người cao tuổi toàn thành phố.
Người cao tuổi trong nghiên cứu có thu 
nhập từ công việc hoặc lương hưu, trợ cấp có 
chất lượng cuộc sống tốt hơn người sống dựa 
vào người thân hoặc gia đình và người cao tuổi 
có nợ nần có chất lượng cuộc sống thấp hơn 
không nợ. Kết quả tương tự cũng đã được ghi 
nhận trong nghiên cứu của Gambin tại Brazil 
năm 2015.13 Điều này có thể giải thích là do 
những người có thu nhập ổn định hàng tháng 
giúp cuộc sống của họ có thể sẽ ổn định hơn 
và không cần phụ thuộc vào người khác; họ có 
điều kiện chăm sóc sức khỏe thường xuyên và 
tham gia vào các hoạt động xã hội nhiều hơn 
do đó chất lượng cuộc sống của họ tốt hơn. 
Thêm vào đó, những người là chủ hộ gia đình 
cũng có chất lượng cuộc sống cao hơn những 
người không là chủ hộ gia đình có thể do điều 
này mang đến cho họ quyền quyết định và vị 
thế cao hơn trong gia đình. 
Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để người 
cao tuổi có cuộc sống tích cực. Xem xét một 
số đặc điểm về tình trạng sức khỏe cho thấy 
những mối liên quan chặt chẽ. Trong đó tình 
trạng sức khỏe hiện tại do người cao tuổi tự 
đánh giá càng thấp thì chất lượng cuộc sống 
của họ càng thấp, đồng thời những người 
đang mắc bệnh có chất lượng cuộc sống thấp 
hơn những người không mắc bệnh. Kết quả 
này tương tự với nghiên cứu của Ana Luisa 
và Juana trên 285 người từ 60 tuổi trở lên tại 
Mexico cũng sử dụng bộ câu hỏi WHOQOL-
OLD14. Phát triển các hệ thống chăm sóc sức 
khỏe dài hạn là một vấn đề cần được chú trọng 
quan tâm trong công cuộc đảm bảo chất lượng 
cuộc sống cho người cao tuổi.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng 
cuộc sống của người cao tuổi trên địa bàn 
thành phố Hà Nội đạt mức khá tuy nhiên còn 
một bộ phận nhỏ người cao tuổi có chất lượng 
cuộc sống ở mức thấp và trung bình. Do đó, 
việc thực hiện các chương trình, can thiệp cộng 
đồng và chuyên khoa hướng đến nhóm đối 
tượng này là cần thiết. Các yếu tố như tuổi cao, 
người cao tuổi là nữ giới, trình độ học vấn thấp, 
tài chính không đảm bảo, sự cô đơn, điều kiện 
nơi sống khu vực ngoại thành và các vấn đề 
sức khỏe ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng 
cuộc sống người cao tuổi.
Khuyến nghị
Các chương trình, chính sách can thiệp cần 
ưu tiên cho những người cao tuổi là nữ giới, 
sống đơn thân, không con cái và không có thu 
nhập từ công việc ổn định, trình độ học vấn 
thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, tình trạng sức 
khỏe không tốt và sống ở khu vực nông thôn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế. Báo cáo tổng quan chung ngành 
Y tế năm 2016. Hướng tới mục tiêu già hóa 
khỏe mạnh ở Việt Nam. 2018.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
316 TCNCYH 129 (5) - 2020
2. The World Health Organization quality of 
life assessment (WHOQOL). Possition paper 
from the World Health Organization. Soc Sci 
Med. 1995;41 (10):1403-1409.
3. S. Ventegodt, T. Flensborg-Madsen, N. 
J. Andersen et al. Which factors determine our 
quality of life, health and ability? Results from a 
Danish population sample and the Copenhagen 
perinatal cohort. J Coll Physicians Surg Pak. 
2008;18(7):445-450.
4. D. Hongthong, R. Somrongthong and 
P. Ward. Factors Influencing the Quality of 
Life (Qol) Among Thai Older People in a 
Rural Area of Thailand. Iran J Public Health. 
2015;(44(4)):479-485.
5. Jan Nilsson, A. K. M. Masud Rana, Zarina 
Nahar Kabir. Social capital and quality of life in old 
age: results from a cross-sectional study in rural 
Bangladesh. J Aging Health. 2006;18(3):419-
434. https://www.người chế biếni.nlm.nih.gov/
pubmed/16648394. Accessed January 5, 2020.
6. Knesebeck Ovd, Wahrendorf M, Hyde M, 
Siegrist J. Socio-economic position and quality 
of life among older people in 10 European 
countries: results of the SHARE study. Ageing 
Soc. 2007;27.269-284.
7. Wu T-Y, Chie W-C, Liu J-P etal. Association 
of quality of life with laboratory measurements 
and lifestyle factors in community dwelling 
older people in Taiwan. Aging Ment Health. 
2015;19(6):548-559. 
8. Huong NT, Ha LTH, Chi NTQ et al. 
Exploring quality of life among the elderly in 
Hai Duong province, Vietnam: a rural–urban 
dialogue. Glob Health Action. 2012;5(1):18874. 
9. Lê Thị Hoàn, Trần Thị Thoa, Nguyễn 
Phương Hoa và cộng sự. Một số yếu tố liên 
quan đến chất lượng cuộc sống của người cao 
tuổi tại xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh 
Hà Nam, năm 2014. Tạp Chí Nghiên Cứu Học. 
2015;(95(3)).
10. V. Hoi le, N. T. Chuc and L. Lindholm. 
Health-related quality of life, and its 
determinants, among older people in rural 
Vietnam. BMC Public Health. 2010;(10):549.
11. WHO. The WHOQOL-OLD module - 
manual. 2006.
12. M. Baernholdt, G. Yan, I. Hinton et al. 
Quality of life in rural and urban adults 65 years 
and older: findings from the National Health and 
Nutrition Examination survey. J Rural Health. 
2012;(28(4)):339-347.
13. G. Gambin, A. Molzahn, A. C. Fuhrmann 
et al. Quality of life of older adults in rural 
southern Brazil. 2015;15 (3):3300.
14. Ana Luisa González-Celis and Juana 
Gómez-Benito. Quality of life in the elderly: 
Psychometric properties of the WHOQOL-
OLD module in Mexico. Health (N Y). 
2013;(5(12A)):110-116.
Summary
DETERMINANTS OF QUALITY OF LIFE OF THE ELDERLY IN 
HANOI CITY IN 2018
A cross-sectional study using direct interview method was conducted with 504 older people in Hanoi 
city. The study used the WHOQOL-OLD module to describe a number of factors related to the quality of 
life of older people in Hanoi city in 2018. The study result showed that: older female, living alone, having 
no child, having no income from work, having debt, having low level education, with unhealthy status 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
317TCNCYH 129 (5) - 2020
and living in rural area had the lower score of quality of life, with p value < 0.05. The intervention program 
to improve the quality of life should be prioritized for the elderly who are female, live alone with no child, 
no stable income or live in a poor economic condition, have unhealthy status and live in the rural area.
Keywords: Quality of life, the elderly, determinants, WHOQOL-OLD, Hanoi.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_den_chat_luong_cuoc_song_cua_nguoi_c.pdf