Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi

Nhận thức có liên quan đến khả năng hiểu

và nhận biết của chúng ta về môi trường.

Trong năm đầu tiên của cuộc sống trẻ “bình

thường” học những dồ vật liên quan đến trọng

lượng, kích cỡ, mùi vị và cảm giác. Trong

khoảng 18 đến 24 tháng, trẻ bắt đầu phát triển

trí tưởng tượng và có thể giả vờ. Từ 2 tuổi đến

7 tuổi, trẻ trở nên giỏi suy nghĩ với những thuật

ngữ trừu tượng và không cần nhìn hoặc sờ đồ

vật lâu hơn để nhận biết nó. Suốt thời thơ ấu,

phát triển nhận thức ảnh hưởng sâu sắc đến

phát triển các lĩnh vực khác nhau, nhưng đặc biệt

là khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Trái lại,

trẻ tự kỷ có một rối loạn phát triển thần kinh có

cơ sở di truyền học rõ ràng. Hội chứng này

được đặc trưng bởi một kiểu loại hành vi bao

gồm sự suy giảm (về) chất lượng trong phát

triển ngôn ngữ, kỹ năng truyền đạt, tương tác

xã hội, tưởng tượng và vui chơi. Đa số trẻ tự kỷ

có một số bất thường về khả năng nhận thức.

Sự vận hành của trí tuệ biểu hiện các mức độ

khác nhau từ chậm phát triển đến khả năng

phát triển vượt trội trong một vài lĩnh vực.

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 1

Trang 1

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 2

Trang 2

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 3

Trang 3

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 4

Trang 4

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 5

Trang 5

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 6

Trang 6

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 7

Trang 7

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 8

Trang 8

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 9

Trang 9

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang baonam 04/01/2022 8280
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi

Một số hạn chế trong nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 
Trang 108 
Một số hạn chế trong nhận thức 
của trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi 
 Ngô Xuân Điệp 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Nhận thức có liên quan đến khả năng hiểu 
và nhận biết của chúng ta về môi trường. 
Trong năm đầu tiên của cuộc sống trẻ “bình 
thường” học những dồ vật liên quan đến trọng 
lượng, kích cỡ, mùi vị và cảm giác. Trong 
khoảng 18 đến 24 tháng, trẻ bắt đầu phát triển 
trí tưởng tượng và có thể giả vờ. Từ 2 tuổi đến 
7 tuổi, trẻ trở nên giỏi suy nghĩ với những thuật 
ngữ trừu tượng và không cần nhìn hoặc sờ đồ 
vật lâu hơn để nhận biết nó. Suốt thời thơ ấu, 
phát triển nhận thức ảnh hưởng sâu sắc đến 
phát triển các lĩnh vực khác nhau, nhưng đặc biệt 
là khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Trái lại, 
trẻ tự kỷ có một rối loạn phát triển thần kinh có 
cơ sở di truyền học rõ ràng. Hội chứng này 
được đặc trưng bởi một kiểu loại hành vi bao 
gồm sự suy giảm (về) chất lượng trong phát 
triển ngôn ngữ, kỹ năng truyền đạt, tương tác 
xã hội, tưởng tượng và vui chơi. Đa số trẻ tự kỷ 
có một số bất thường về khả năng nhận thức. 
Sự vận hành của trí tuệ biểu hiện các mức độ 
khác nhau từ chậm phát triển đến khả năng 
phát triển vượt trội trong một vài lĩnh vực. 
Từ khóa: tự kỷ, trẻ tự kỷ, khả năng nhận thức, phát triển nhận thức, ngôn ngữ, kỹ năng giao 
tiếp 
Đặt vấn đề 
Những bất thường về tâm lý - nhân cách là 
những bất thường lớn, bao phủ hầu như toàn bộ đời 
sống tâm trí của trẻ tự kỷ, điều này sẽ ảnh hưởng 
trực tiếp tới sự phát triển nhận thức của trẻ. hội 
chứng tự kỷ (HCTK) là một khiếm khuyết về tinh 
thần, gây ra những bất thường trong đời sống tâm lý 
của người bệnh như: xúc cảm-tình cảm, hành vi, 
ứng xử xã hội, ngôn ngữ, nhận thức. Khác với trẻ 
chậm phát triển trí tuệ, trẻ tự kỷ có những mức độ 
nhận thức hết sức khác nhau từ chậm phát triển nhẹ, 
trung bình đến nặng. Theo các nhà nghiên cứu có 
khoảng 70% trẻ tự kỷ chậm phát triển trí tuệ, còn lại 
là những trẻ có nhận thức bình thường và thông 
minh. Tuy nhiên có cả những người tự kỷ là tài 
năng, thần đồng về học tập, nghiên cứu khoa học 
như Isaac Newton, Albert Einstein, Bill Gates1. 
Trẻ tự kỷ có bề ngoài như trẻ bình thường, các 
công bố từ trước tới nay chưa cho thấy sự khác 
thường về thể trạng bề ngoài của trẻ tự kỷ, trái lại 
dường như trẻ tự kỷ nói chung lại có bề ngoài khôi 
ngô hơn trẻ bình thường, đồng thời trẻ tự kỷ về cơ 
bản không có sự bất thường về giải phẫu trong các 
bộ phận bên trong cơ thể. Các giác quan cảm nhận 
bên ngoài và bên trong cơ thể trẻ xét trên phương 
diện vật lý và sinh học giống như trẻ bình thường. 
Những chỉ số sinh học cơ bản như cân nặng, chiều 
cao, chỉ số phát triển sinh học giống như trẻ bình 
thường cùng tuổi. Các mốc phát triển vận động như 
1
e_with_autism_spectrum_disorders 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 
 Trang 109 
lẫy, ngồi, bò, trườn, đứng, đi, chạy, không có ghi 
nhận khác thường. Trẻ bị rối loạn tự kỷ có tuổi thọ 
trung bình như người bình thường. Nhưng hầu hết 
các mô tả về mặt chức năng tâm lý, nhận thức cho 
thấy sự bất thường rõ rệt. 
Nhận thức là một chức năng quan trọng nhất của 
con người trong việc tiếp nhận thế giới tự nhiên và 
xã hội, hình thành lên đời sống trí tuệ, giúp con 
người hoàn thiện kỹ năng sống, tạo dựng giá trị 
sống, hình thành các chuẩn mực giao tiếp nhân văn, 
triển khai việc tiếp nhận văn hóa để hình thành nhân 
cách con người Với việc ý thức rõ tầm quan trọng 
của nhận thức đối với đời sống con người, đồng 
thời để hiểu rõ hơn về khả năng nhận thức của trẻ tự 
kỷ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 104 trẻ tự 
kỷ từ 4 đến 6 tuổi nhằm phát hiện ra những hạn chế 
trong nhận thức của trẻ. 
1. Tổng quan nghiên cứu về hội chứng tự kỷ 
và nhận thức của trẻ tự kỷ 
1.1. Hội chứng tự kỷ 
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, tỷ lệ mắc tự 
kỷ khá cao trong dân số, bình quân vào khoảng từ 
58 đến 60 trẻ tự kỷ (TTK) trên 10.000 trẻ được sinh 
ra2, và có khuynh hướng ngày càng gia tăng nhưng 
không biết rõ nguyên nhân3. Theo thông báo của 
Thượng viện Hoa Kỳ tháng 12 năm 2006, bình quân 
khoảng 166 trẻ được sinh ra có 1 trẻ bị tư kỷ. Theo 
báo cáo công bố ngày 27/3/2014 của Trung tâm 
Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) cho 
biết tại nước này, cứ 68 trẻ em dược sinh ra có một 
trẻ bị mắc chứng tự kỷ, tăng 30% so với tỷ lệ 1/88 
của hai năm trước4. 
Hội chứng tự kỷ được phát hiện và mô tả vào 
những năm 40 của thế kỷ trước, nhưng thực ra 
HCTK đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Các 
tác phẩm văn học phương Tây cổ đại đã nhắc tới 
những trẻ kỳ lạ, những đứa trẻ “con trời” hay bị 
2 Kliegman R.M. and Behrman R.E., Nelson (2007), Textbook of 
Pediatrics, Volume 1, tr. 133-136. 
3 Võ Nguyễn Tinh Vân (2002), Nuôi Con Bị Tự Kỷ, Nxb 
Bamboo, Australia, tr. 1. 
4  
“tiên đánh tráo”. Nhiều mô tả về trẻ mà cho tới sau 
này khi Leo Kanner (1894-1981) phát hi ...  (2003), Helping Children With Autism Learn, Oxford 
University Press, U.S.A, tr. 4. 
sự vật, hiện tượng xung quanh hoặc tri giác quá 
khác thường. TTK không thích giao tiếp cũng như 
trải nghiệm các tình huống xã hội, trẻ thích chơi 
một mình hơn là chơi với bạn cùng lứa, chính vì lý 
do đó mà trẻ không bao giờ quan tâm đến việc học 
các chuẩn mực xã hội cũng như những kỹ năng ứng 
xử với con người, điều này làm cho khả năng nhận 
thức các tình huống xã hội của trẻ rất hạn chế. Hầu 
hết TTK gặp khó khăn trong hiểu và biểu đạt ngôn 
ngữ. Khả năng chơi tưởng tượng hay giả vờ là một 
vấn đề khó khăn đối với TTK. Khả năng của tư duy 
như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa và khái 
quát hóa, ít được sử dụng trong khám phá và 
nhận biết thế giới của TTK. Do TTK không quan 
tâm đến giao tiếp và quan hệ xã hội nên trẻ gặp khó 
khăn trong việc hiểu và biểu đạt xúc cảm, tình cảm, 
cũng như các kỹ năng sống và tự phục vụ bản thân. 
Từ những đặc điểm trên, chúng ta thấy TTK có 
những khác biệt nhất định về khả năng tiếp nhận 
thông tin, lĩnh hội thông tin và xử lý thông tin,... so 
với trẻ bình thường. Như vậy là TTK có khác biệt 
về mặt nhận thức. 
2. Một số kết quả nghiên cứu về khó khăn 
nhận thức của trẻ tự kỷ từ 4-6 tuổi tại TP. HCM 
2.1. Mục đích nghiên cứu 
Để xác định rõ khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ 
trong bài viết này chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 
trên 104 trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi tại Tp. Hồ Chí 
Minh để nhận ra những vấn đề trong lĩnh vực nhận 
thức của trẻ tự kỷ. 
Nghiên cứu này nhằm giúp các nhà chuyên 
môn, các chuyên viên can thiệp có cách nhìn cụ thể 
hơn về khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ. Trên cơ sở 
đó giúp cho các cơ sở giáo dục ứng dụng cách thức 
can thiệp phù hợp, hiệu quả nhằm nâng cao khả 
năng nhận thức cho trẻ tự kỷ. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp nghiên cứu lý luận nhằm tìmhiểu 
về trẻ tự kỷ và đặc điểm nhận thức của trẻ tự kỷ. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 
 Trang 115 
- Phương pháp quan sát (trực tiếp trên trẻ) và 
phương pháp điều tra (trên giáo viên) trên 104 trẻ tự 
kỷ nhằm tìm hiểu khả năng nhận thức. 
- Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng phần mềm 
SPSS nghiên cứu định lượng về khả năng nhận thức 
của trẻ. 
2.3. Kết quả nghiên cứu nhận thức của trẻ tự 
kỷ từ 4 đến 6 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh 
- Mức độ nhận thức chung của trẻ tự kỷ 
Để có sự nhận biết một cách cơ bản mức độ 
nhận thức của TTK từ 4 đến 6 tuổi, chúng ta xem 
các mức độ biểu hiện thông qua biểu đồ sau. 
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Rất kém Kém Trung
bình
Tốt Rất tốt
Nhận thức của trẻ tự kỷ
Biểu đồ 1. Khả năng nhận thức chung của TTK từ 4 đến 6 tuổi 
Kết quả thống kế về khả năng nhận thức của 
TTK cho thấy: mức độ nhận thức rất tốt chiếm 
1,9%, nhận thức tốt chiếm 2,9%, mức độ trung bình 
là 15,4%, mức độ kém là 35,6% và mức độ rất kém 
là 44,2%. 
Từ kết quả nghiên cứu trên chúng ta thấy hầu 
như TTK có khả năng nhận thức kém và rất kém. 
Như vậy, hầu hết TTK có vấn đề trong phát triển 
nhận thức. 
Giải thích cho sự yếu kém này của TTK, một 
phụ huynh có con bị tự kỷ cho rằng: con họ hầu như 
không quan tâm gì đến đồ vật, đồ chơi trong mội 
trường xung quanh, không thích bắt chước và lảng 
tránh sự dạy dỗ của họ, thậm chí trẻ còn không 
thích chơi với ai, ngay cả với cha mẹ chúng. 
Qua phỏng vấn các giáo viên đều có chung nhận 
định sau: Nói chung TTK khác với trẻ bình thường 
ở chỗ, trẻ không thích tò mò, khám phá những sự 
vật hay hiện tượng trong thế giới xung quanh và 
điều này dẫn đến sự hạn chế trong nhận thức của 
trẻ. 
Khi mắc phải HCTK, trẻ gặp rất nhiều khó khăn 
trong phát triển tâm lý và hoàn thiện nhân cách. Bs 
Nguyễn M. T. cho rằng: những mô tả triệu chứng 
lâm sàng từ trước tới nay cho thấy, các bất thường 
chủ yếu của trẻ liên quan đến hành vi, giao tiếp, 
quan hệ xã hội, phát triển ngôn ngữ, hiểu và biểu lộ 
xúc cảm, tình cảm và nhận thức, nếu tình trạng 
nhận thức của trẻ được cải thiện thì những vấn đề 
tâm lý khác của TTK cũng cải thiện theo. 
Mức độ nhận thức và độ tuổi của trẻ tự kỷ 
+ Độ tuổi của trẻ tự kỷ 
Kết quả kiểm tra về độ tuổi cho thấy số TTK 4 
tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất: 48,1%, cao thứ hai là 
nhóm trẻ 5 tuổi: 35,6% và cuối cùng là nhóm trẻ 6 
tuổi chiếm 16,3%. Số trẻ 4 tuổi chiếm tỉ lệ cao với 
nhiều lý do khác nhau. Thứ nhất: theo các nghiên 
cứu trên thế giới, giai đoạn tuổi này là giai đoạn 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 
Trang 116 
biểu hiện đầy đủ nhất các triệu chứng tự kỷ so với 
những năm đầu đời của trẻ hoặc theo một số chuyên 
gia cho rằng chỉ chẩn đoán trẻ có HCTK sau 3 tuổi. 
Thứ hai: số lượng khách thể được nghiên cứu chủ 
yếu tại Khoa khám Tâm lý của bệnh viện chuyên về 
trẻ em và đó lại là nơi đầu tiên các cha mẹ đưa con 
đến khám khi thấy trẻ có vấn đề bất thường trong 
nhận thức và hành vi. Thứ ba: Các nghiên cứu trên 
thế giới đều cho thấy trẻ có HCTK gia tăng hàng 
năm về số lượng, nghĩa là tỉ lệ năm sau cao hơn 
năm trước; như vậy là tỉ lệ TTK 4 tuổi sẽ nhiều hơn 
số TTK 5, 6 tuổi. Thứ tư: Có thể những TTK 5 tuổi 
hoặc 6 tuổi đã được chẩn đoán từ lúc 4 tuổi và đang 
được can thiệp đặc biệt. 
Rất kém Kém Trung bình
Tốt Rất tốt
Biểu đồ 2. Độ tuổi và khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ 
Các độ tuổi của trẻ đều có mức độ nhận thức 
kém và rất kém cao tương đương nhau, sau đến là 
trung bình, tốt và rất tốt. Mức độ nhận thức kém 
và rất kém, ở trẻ 4 tuổi là 56% và 36%, trẻ 5 tuổi 
là 29,7% và 40,5%, trẻ 6 tuổi là 41,2% và 23,5%. 
Tuy nhiên ở mức độ nhận thức kém và rất kém ở 
trẻ 4 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn (xem biểu đồ 2.2). 
(p< 0,01). Tỷ lệ tương quan cho thấy, có mối liên 
hệ tuyến tính thuận chiều giữa độ tuổi và khả 
năng nhận thức. Như vậy, độ tuổi của trẻ càng 
cao thì khả năng nhận thức càng tốt và độ tuổi 
càng thấp, khả năng nhận thức càng kém. 
+ Độ tuổi và từng lĩnh vực nhận thức của trẻ 
tự kỷ 
Trong số trẻ có mức độ tự kỷ nhẹ, ở tất cả các 
nội dung chủ yếu tập trung ở mức độ nhận thức 
trung bình, trong đó số trẻ 5 tuổi chiếm đa số: 
10,8% ở nội dung gọi tên sự vật, 8,1% ở nội dung 
xác định sự vật, 13,5% ở nhận thức hiện tượng và 
16,2% ở mức độ nhận thức chung. Sang mức độ 
nhận thức tốt vẫn là trẻ 5 tuổi chiếm ưu thế khi có 
8,1% ở nội dung xác định sự vật, 5,4% ở nội 
dung nhận thức hiện tượng, 2,7% trong gọi tên sự 
vật và nhận thức chung (xem bảng 1). 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 
 Trang 117 
Bảng 1. Độ tuổi, mức độ tự kỷ và mức độ nhận thức của trẻ tự kỷ 
Nội dung 
Mức độ 
Nhận thức 
chung 
Nhận thức 
hiện tượng 
Xác định 
sự vật 
Gọi tên 
sự vật 
4 
tuổi 
5 
tuổi 
6 
tuổi 
4 
tuổi 
5 
tuổi 
6 
tuổi 
4 
tuổi 
5 
tuổi 
6 
tuổi 
4 
tuổi 
5 
tuổi 
6 
tuổi 
Tự kỷ 
nhẹ 
Rất kém 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 5,9 
Kém 4,0 0 5,9 4,0 0 0 4,0 2,7 0 4,0 5,4 5,9 
T bình 4,0 
16,
2 
5,9 4,0 
13,
5 
5,9 4,0 8,1 
11,
8 
4,0 
10,
8 
0 
Tốt 0 2,7 0 0 5,4 5,9 0 8,1 0 0 2,7 0 
Rất tốt 0 2,7 5,9 0 2,7 5,9 0 2,7 5,9 0 2,7 5,9 
Tự kỷ 
nặng 
Rất kém 
14,
0 
8,1 
11,
8 
0 0 0 
18,
0 
10,
8 
11,
8 
40,
0 
35,
1 
29,
4 
Kém 
30,
0 
40,
5 
17,
6 
32,
0 
24,
3 
23,
5 
24,
0 
40,
5 
17,
6 
4,0 
18,
9 
5,9 
T bình 4,0 5,4 
17,
6 
21,
6 
29,
7 
23,
5 
6,0 2,7 
17,
6 
4,0 0 
11,
8 
Tốt 0 2,7 5,9 0 2,7 5,9 0 2,7 5,9 0 2,7 5,9 
Rất tốt 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 
Tự kỷ 
rất 
nặng 
Rất kém 
42,
0 
21,
6 
29,
4 
10,
0 
0 5,9 
40,
0 
21,
6 
29,
4 
44,
0 
21,
6 
29,
4 
Kém 2,0 0 0 
32,
0 
21,
6 
23,
5 
4,0 0 0 0 0 0 
T bình 0 0 0 2,0 0 0 0 0 0 0 0 0 
Tốt 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 
Rất tốt 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 
Ghi chú Gạch dưới: tỷ lệ cao nhất Số 0: tỷ lệ thấp nhất 
Trong nhóm TTK nhẹ. Ở mức độ nhận thức rất 
tốt cho thấy ưu thế thuộc về trẻ 6 tuổi khi đều có 
5,9% ở cả 4 nội dung nghiên cứu, có 2,7% trẻ 5 tuổi 
ở cả 4 nội dung, không có trẻ 4 tuổi nằm trong mức 
độ nhận thức này. Ở mức độ nhận thức kém, trẻ 4 
tuổi chiếm ưu thế khi đều có 4,0% nằm ở cả 4 lĩnh 
vực nghiên cứu, đồng thời cả trẻ 6 tuổi có 5,9% ở 
nội dung nhận thức chung và gọi tên sự vật. Ở mức 
độ nhận thức rất kém, khi không có trẻ nào ở độ 
tuổi 4 và 5, thì trẻ 6 tuổi chiếm 5,9% ở nội dung gọi 
tên sự vật. Như vậy, kết quả cho thấy: ở mức trung 
bình và tốt trẻ 5 tuổi chiếm ưu thế, ở mức độ kém 
trẻ 4 tuổi chiếm ưu thế và trẻ 6 tuổi chiếm ưu thế ở 
mức độ nhận thức rất tốt. Như vậy, xét trên tổng 
thể, độ tuổi có chi phối mức độ nhận thức ở TTK. 
Nhưng với việc rất ít trẻ bị tự kỷ nhẹ rơi vào mức 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 
Trang 118 
độ nhận thức rất kém cho thấy sự ảnh hưởng rõ ràng 
của mức độ tự kỷ đến nhận thức của trẻ. 
Ở mức tự kỷ nặng, số trẻ 4, 5 và 6 tuổi tập trung 
tương đối đồng đều nhau ở mức độ nhận thức kém 
và rất kém, trong đó trẻ 4 tuổi chiếm ưu thế ở mức 
độ rất kém khi có 40,0% ở nội dung gọi tên sự vật, 
18% thuộc về xác định sự vật và 14% ở nội dung 
nhận thức chung. Tiếp theo là mức độ nhận thức 
kém trẻ 5 tuổi chiếm ưu thế, khi có 24,3%, 18,9% 
và 40,5% ở các nội dung khác nhau. Ở mức trung 
bình trẻ 6 tuổi chiếm ưu thế khi có các số phần trăm 
là: 17,6%, 23,5% và 11,8%, đồng thời trẻ 6 tuổi 
cũng chiếm ưu thế cả ở mức độ nhận thức tốt khi 
đều đạt 5,9% ở cả 4 nội dung nhận thức (xem bảng 
1). Ở mức độ nhận thức rất tốt không có TTK nào. 
Kết quả cho thấy: trẻ 4 tuổi chiếm ưu thế mức độ 
nhận thức rất kém, trẻ 5 tuổi ưu thế ở mức độ kém 
và trẻ 6 tuổi ưu thế mức độ trung bình và tốt. Như 
vậy, độ tuổi có ảnh hưởng nhỏ tới kết quả nhận 
thức. Nhưng với việc không TTK nặng nào đạt 
được mức độ nhận thức rất tốt cho thấy: mức độ tự 
kỷ có ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả nhận thức. 
Ở mức tự kỷ rất nặng, số trẻ ở mức độ nhận thức 
rất kém chiếm ưu thế, số trẻ chiếm tỷ lệ cao nhất là 
trẻ 5 và 6 tuổi, tiếp đến trẻ 4 tuổi. Ở mức độ nhận 
thức kém, trẻ 6 tuổi và 4 tuổi chiếm ưu thế. Ở mức 
độ nhận thức trung bình trẻ 4 tuổi chiếm ưu thế, khi 
có 2,0% trẻ ở nội dung xác định sự vật trong khi 
không có trẻ 5 tuổi và 6 tuổi đạt được mức độ này. 
Không có trẻ nào đạt được kết quả nhận thức tốt và 
rất tốt ở nhóm trẻ này. Như vậy, ở mức độ tự kỷ rất 
nặng hoàn toàn không còn thấy độ tuổi ảnh hưởng 
đến mức độ nhận thức của trẻ 
Kết luận 
Qua những kết quả nghiên cứu lý luận cho thấy 
hầu hết trẻ tự kỷ đều ít nhiều gặp khó khăn trong 
học tập và tiếp thu kiến thức, trong khi đó khả năng 
nhận thức của trẻ tự kỷ là một trong những yếu tố 
quyết định đến sự cải thiện của chứng tự kỷ, đồng 
thời nó cũng ảnh hưởng đến tiến trình trị liệu và 
chất lượng trị liệu mà những nhà chuyên môn và 
các bậc phụ huynh thực hiện. Như vậy, khi nghiên 
cứu về nhận thức của trẻ tự kỷ, các tác giả đã quan 
tâm đến những yếu tố như: ngôn ngữ, trí tuệ, tưởng 
tượng, trí nhớ, cảm giác, học tập, Các nghiên cứu 
trên đã bao quát khá đầy đủ về lĩnh vực nhận thức 
nói chung, phần nào phản ảnh được tính phóng phú 
tình trạng nhận thức của trẻ tự kỷ. 
Kết quả trên 104 trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi cho 
thấy: trẻ bị tự kỷ nhẹ chủ yếu tập trung ở mức độ 
nhận thức trung bình và độ tuổi có chi phối nhỏ tới 
khả năng nhận thức của trẻ. Trẻ bị tự kỷ nặng chủ 
yếu tập trung ở mức độ nhận thức kém và độ tuổi 
chi phối rất ít tới khả năng nhận thức. Trẻ có mức 
độ tự kỷ rất nặng tập trung chủ yếu ở mức độ nhận 
thức rất kém và hầu như không có sự chi phối của 
độ tuổi tới khả năng nhận thức. Do đó, sự ảnh 
hưởng của độ tuổi tới mức độ nhận thức của TTK là 
có giới hạn. Tuy nhiên, với việc không có TTK 
nặng nào đạt được kết quả nhận thức tốt và rất tốt 
cho thấy sự ảnh của mức độ tự kỷ đến nhận thức 
của TTK là rất rõ ràng. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 
 Trang 119 
Some restrictions facing autistic children 
between 4 to 6 years of age 
 Ngo Xuan Diep 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Cognition refers to our ability to know or 
understand our environment. In the first year 
of life, a “normal” baby learns that objects 
have weight, size, taste, and feel. Between 18 
and 24 months, the young child begins to 
develop an imagination and can make 
pretence. From about two years to seven years, 
the child becomes adept at thinking in abstract 
terms and no longer needs to see or touch 
an object in order to learn about it. All through 
childhood, cognitive development has a 
profound effect on development in other areas, 
but particularly on a child's ability to use 
language. In contrast autistic children have a 
neuro developmental disorder with a strong 
genetic basis but unknown etiology. It is 
characterized by a behavioral phenotype that 
includes qualitative impairment in the areas of 
language development or communication 
skills, social interactions and reciprocity, and 
imagination and play. Most children have some 
problems in cognitive abilities. Intellectual 
functioning can vary from mental retardation to 
superior intellectual functioning in some select 
areas. 
Keywords: autistic, children with autism, cognitive abilities, cognitive developmental, 
language, communication skills 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Volkmar F.R., Paul R., Klin A., Cohen D. 
(2005), Handbook of Autism and Pervasive 
Developmental Disorders, Volume Two, 
Published by John Wiley & Sons, Inc., U.S.A. 
[2]. Powers M.D. (2000), Children with Autism, 
Woodbine House, U.S.A. 
[3]. Câu lạc bộ gia đình có trẻ tự kỷ, Trung tâm 
đào tạo và phát triển giáo dục đặc biệt, Viện 
Nhi Quốc Gia (2003), Vì tương lai trẻ tự kỷ, 
Hà Nội. 
[4]. Howlin P., Baron-Cohen S. and Hadwin J. 
(1999), Teaching Children with Autism to 
Mind-Read, John Wiley and Sons Publishing, 
U.S.A. 
[5]. Võ Nguyễn Tinh Vân (2002), Để hiểu chứng 
tự kỷ, Nxb Bamboo, Australia. 
[6]. Wing L. (1998), The Autistic Spectrum, 
Constable and Company Limited, London. 
[7]. Lovaas O. I. (1981), The Me Book, Pro.ed An 
International Publisher, U.S.A. 
[8]. Slater A. and Bremner G. (2003), An 
Introduction to Developmental Psychology, 
Blackwell Publishing, UK. 
[9]. Sussman F. (1999), More than Words, The 
Hanen Centre, Canada. 
[10]. Siegel B. (2003), Helping Children With 
Autism Learn, Oxford University Press, 
U.S.A. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 
Trang 120 
[11]. Scott J., Clark C., Brady M.P. (2000), Students 
with Autism, Singular Publishing, U.S.A. 
[12]. Nguyễn Văn Thành (2006), Phương thức giáo 
dục Trẻ em tự kỷ, Nxb Tôn giáo. 
[13]. Dodd S. (2005), Understanding Autism, 
Elsevier, New South Wales, Australia. 
[14]. Kliegman R.M. and Behrman R.E., Nelson 
(2007), Textbook of Pediatrics, Volume 1. 
[15]. Võ Nguyễn Tinh Vân (2002), Nuôi Con Bị Tự 
Kỷ, Nxb Bamboo, Australia. 
[16]. 
recognised_people_with_autism_spectrum_dis
orders 
[17].  
[18].  
[19]. www.nimh.nih.gov/publicat/autism 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_han_che_trong_nhan_thuc_cua_tre_tu_ky_tu_4_den_6_tuoi.pdf