Mối tương quan giữa bụi pm10, pm2.5 với các khí khác trong không khí xung quanh tại một số khu vực miền Bắc
Để kiểm soát hiệu quả các nguồn phát thải bụi PM
vào môi trường không khí thì việc xác định sự đóng
góp của từng nguồn khí thải là rất quan trọng. Có nhiều
phương pháp để xác định tỷ lệ đóng góp của các nguồn
khí thải vào nồng độ bụi PM trong không khí xung
quanh như phương pháp phân tích thành phần chính
(PCA), phương pháp phân tích thành phần hóa học
kết hợp với mô hình tiếp nhận (PMF, CMB), phương
pháp sử dụng mô hình lan truyền (Dispersion Model),
phương pháp sử dụng ảnh vệ tinh, trong đó phương
pháp phân tích tương quan tỏ ra khá hiệu quả trong
việc nhận diện sơ bộ các nguồn ô nhiễm không khí ảnh
hưởng đến một khu vực [1]. Hai chất ô nhiễm có tương
quan chặt có thể liên quan đến cùng một nguồn ô
nhiễm. Do đó, nghiên cứu dưới đây sẽ tính toán tương
quan giữa các thông số ô nhiễm không khí bao gồm
PM
10, PM2.5, NO2, CO, SO2, O3 tại một số đô thị miền
Bắc, từ đó đánh giá sơ bộ về các nguồn phát thải các
thông số này. Nghiên cứu này được thực hiện trong
khuôn khổ Đề tài khoa học công nghệ “Nghiên cứu xác
định các nguồn đóng góp chính đối với bụi PM10, PM2.5
ở đô thị miền Bắc Việt Nam - Thực nghiệm tại Hà Nội,
Quảng Ninh và Phú Thọ” do Trung tâm Quan trắc môi
trường miền Bắc, Tổng cục Môi trường thực hiện.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối tương quan giữa bụi pm10, pm2.5 với các khí khác trong không khí xung quanh tại một số khu vực miền Bắc
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 3 MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA BỤI PM10, PM2.5 VỚI CÁC KHÍ KHÁC TRONG KHÔNG KHÍ XUNG QUANH TẠI MỘT SỐ KHU VỰC MIỀN BẮC Lê Hoàng Anh Vương Như Luận Nguyễn Thị Hoa 2 Trịnh Thị Thủy 3 1 Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT 2 Trung tâm Truyền thông TN&MT, Bộ TN&MT 3 Khoa Môi trường, Trường Đại học TN&MT Hà Nội TÓM TẮT Số liệu các trạm quan trắc tự động, liên tục đặt tại Hà Nội, Phú Thọ, Quảng Ninh đã được sử dụng trong bài viết. Việc nhận định sơ bộ nguồn gốc phát sinh bụi PM dựa trên hệ số tương quan Pearson giữa PM10, PM2.5 và NO2, SO2, CO, O3. Kết quả đánh giá cho thấy, tại miền Bắc Việt Nam, nồng độ trung bình các thông số PM10, PM2.5, NO2, SO2, CO đều cao trong mùa đông (từ tháng 10 đến tháng 2) và thấp vào mùa hè (tháng 5 - 8). Diễn biến trong ngày của các thông số nêu trên thường đạt cực đại vào các giờ cao điểm giao thông buổi sáng (từ 7 - 9 h) và buổi chiều (từ 17 - 19h). Điều này cho thấy, tác động của các điều kiện khí tượng và hoạt động giao thông đối với nồng các thông số này khá rõ ràng. Tại trạm Hà Nội, Quảng Ninh, Phú Thọ thông số PM10 và NO2, CO có tương quan lần lượt là (R<0,5), (R từ 0,49 - 0,68) và (R từ 0,60 - 0,70) cho thấy, mức độ ảnh hưởng khác nhau của nguồn phát thải từ giao thông tại các khu vực này. Từ khóa: Ô nhiễm bụi, PM10, PM2.5, không khí xung quanh. Nhận bài: 16/3/2021; Sửa chữa: 22/3/2021; Duyệt đăng: 25/3/2021. 1. Đặt vấn đề Để kiểm soát hiệu quả các nguồn phát thải bụi PM vào môi trường không khí thì việc xác định sự đóng góp của từng nguồn khí thải là rất quan trọng. Có nhiều phương pháp để xác định tỷ lệ đóng góp của các nguồn khí thải vào nồng độ bụi PM trong không khí xung quanh như phương pháp phân tích thành phần chính (PCA), phương pháp phân tích thành phần hóa học kết hợp với mô hình tiếp nhận (PMF, CMB), phương pháp sử dụng mô hình lan truyền (Dispersion Model), phương pháp sử dụng ảnh vệ tinh, trong đó phương pháp phân tích tương quan tỏ ra khá hiệu quả trong việc nhận diện sơ bộ các nguồn ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến một khu vực [1]. Hai chất ô nhiễm có tương quan chặt có thể liên quan đến cùng một nguồn ô nhiễm. Do đó, nghiên cứu dưới đây sẽ tính toán tương quan giữa các thông số ô nhiễm không khí bao gồm PM10, PM2.5, NO2, CO, SO2, O3 tại một số đô thị miền Bắc, từ đó đánh giá sơ bộ về các nguồn phát thải các thông số này. Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài khoa học công nghệ “Nghiên cứu xác định các nguồn đóng góp chính đối với bụi PM10, PM2.5 ở đô thị miền Bắc Việt Nam - Thực nghiệm tại Hà Nội, Quảng Ninh và Phú Thọ” do Trung tâm Quan trắc môi trường miền Bắc, Tổng cục Môi trường thực hiện. 2. Phương pháp nghiên cứu Khu vực nghiên cứu Nghiên cứu tại 3 TP: Hà Nội, Hạ Long (Quảng Ninh), Việt Trì (Phú Thọ). Đây là khu vực đặt các trạm quan trắc không khí tự động, liên tục do Tổng cục Môi (1) Bảng 1. Thông tin các trạm quan trắc không khí tự động TT Tên trạm Kinh độ Vĩ độ Địa chỉ 1 Hà Nội 105,8831 21,0491 Số 556 Nguyễn Văn Cừ, Gia Thụy, Long Biên, Hà Nội 2 Phú Thọ 105,3673 21,3384 Công ty xăng dầu Phú Thọ, đường Hùng Vương, Việt Trì 3 Quảng Ninh 107,1158 20,9416 Vườn hoa tại Khu I, p. Hồng Hà, Hạ Long, Quảng Ninh Chuyên đề I, tháng 3 năm 20214 trường quản lý. Vị trí đặt các trạm này đều ở cạnh các trục đường giao thông chính. Thu thập dữ liệu Các trạm tại Hà Nội, Hạ Long và Việt Trì được lắp đặt thiết bị quan trắc tự động liên tục, bao gồm: Bụi PM10, PM2.5 (Grimm EDM 180), NO2, NO (Horiba APNA 370), SO2 (APSA 370), CO (APMA 370), O3 (APOA 370). Tần suất dữ liệu nhận được là 5 phút/lần. Số liệu được thu thập trong khoảng thời gian như sau: Hà Nội (2010 - 2018), Phú Thọ (2013 - 2019), Quảng Ninh (2014 - 2019). Trước khi phân tích các trường hợp số liệu trong thời gian thiết bị lỗi, số liệu bất thường đã được loại bỏ. Thời gian quan trắc giữa các trạm không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên quy luật diễn biến của các thông số theo các giờ trong ngày, theo các tháng năm và hệ số tương quan thường ổn định giữa các năm, vì vậy nghiên cứu đã thực hiện so sánh các quy luật này giữa các trạm. Tính toán các giá trị trung bình Trung bình 1 h là trung bình các giá trị quan trắc trung bình 5 phút trong 1 giờ. Các giá trị thống kê mô tả và hệ số tương quan giữa các thông số được tính toán dựa trên giá trị trung bình 1 giờ. Trung bình theo các giờ trong ngày là trung bình các giá trị quan trắc trung bình 1 giờ tại cùng thời điểm qua nhiều ngày. Giá trị trung bình theo các giờ được sử dụng để đánh giá diễn biến các thông số trong ngày. Trung bình 1 tháng là trung bình các giá trị quan trắc trung bình 1 h trong 1 tháng. Trung bình tháng qua các năm là trung bình các giá trị trung bình 1 tháng qua nhiều năm. Giá trị trung bình tháng qua các năm được sử dụng để đánh giá diễn biến các thông số trong năm. Phân tích tương quan Tính toán hệ số tương quan Pearson theo cặp giữa các thông số PM10, PM2.5, NO2, CO, SO2 và O3. Để có thể tính được hệ số tương quan Pearson thì các cặp thông số phải có dữ liệu trong cùng 1 thời điểm. Tỷ lệ dữ liệu để tính hệ số tương quan giữa các cặp thông số đối với các trạm như sau: Hà Nội (43 - 88%), Phú Thọ (36 - 44%), Quảng Ninh (23 - 31%). 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Phân tích thống kê mô tả Giá trị trung bình của PM10 và PM2.5 (µg/m3) xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp như sau: Hà Nội (63,8; 43,5), Phú Thọ (54,0; 39,8), Quảng Ninh (46,2; 29,1). Giá trị trung bình các thông số NO2, O3 tại Hà Nội cũng lớn nhất. Riêng giá trị trung bình của thông số SO2 cao nhất tại Quảng Ninh và thấp nhất tại Hà Nội. Thông số SO2 tại Quảng Ninh cao hơn có thể do khu vực này có nhiều nhà máy sử dụng nguyên liệu là than đá (trong than đá thường có lưu huỳnh). 3.2. Biến động PM10, PM2.5 và các thông số khác trong năm Kết quả so sánh trung bình tháng cho thấy, nồng độ các thông số PM10, PM2.5, SO2, CO, NO2 có sự khác biệt đáng kể giữa mùa hè và mùa đông. Nồng độ các thông số trên cao nhất trong tháng 12 và tháng 1, thấp nhất trong giai đoạn từ tháng 6 - 8. Bảng 2. Thống kê đối với giá trị quan trắc tại 3 trạm Đơn vị: µg/m3 Thông số NO NO2 SO2 CO O3 PM10 PM2,5 Trạm Hà Nội Giá trị tối đa 256,3 305,4 146,1 19628,9 388,6 554,2 502,1 Giá trị tối thiểu 0,3 0,1 0,5 1,0 1,1 1,1 1,1 Giá trị trung bình 35,8 43,5 15,7 2440,9 52,7 63,8 43,5 Độ lệch chuẩn 30,2 27,7 11,6 1701,6 58,7 47,3 33,2 Trạm Phú Thọ Giá trị tối đa 240,8 243,1 155,8 9442,3 268,5 510,8 309,5 Giá trị tối thiểu 0,8 0,9 0,9 2,6 0,9 1,0 1,0 Giá trị trung bình 10,0 24,2 28,1 845,4 49,1 54,0 39,8 Độ lệch chuẩn 15,5 15,7 15,2 611,5 43,2 47,8 33,6 Trạm Quảng Ninh Giá trị tối đa 192,1 182,7 161,7 14845,1 275,4 460,8 353,2 Giá trị tối thiểu 0,3 1,0 1,0 10,6 0,9 1,1 0,9 Giá trị trung bình 18,7 38,7 30,9 2492,7 39,6 46,2 29,1 Độ lệch chuẩn 21,6 24,2 12,4 3202,9 29,3 41,5 22,6 TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 5 Tại trạm Hà Nội, sự chênh lệch giữa các tháng trong năm thể hiện rõ nhất đối với thông số PM10 và PM2.5. Nồng độ PM10 và PM2.5 trung bình trong tháng cao nhất lớn gấp 2 lần so với tháng thấp nhất. Các thông số NO2, SO2, CO có mức độ biến động giữa các tháng thấp hơn. ▲Hình 1. Diễn biến giá trị trung bình tháng trong năm của các thông số tại trạm Hà Nội Tại trạm Phú Thọ và Quảng Ninh, nồng độ các thông số PM10, PM2.5 và NO2 cũng có sự khác biệt lớn giữa mùa đông và mùa hè. Đặc biệt tại trạm Quảng Ninh, nồng độ PM10, PM2.5 trong tháng 12 và tháng 1 cao gấp nhiều lần so với giai đoạn từ tháng 5 - 9. ▲Hình 2. Diễn biến giá trị trung bình tháng trong năm của các thông số tại trạm Phú Thọ ▲Hình 3. Diễn biến giá trị trung bình tháng trong năm của các thông số tại trạm Quảng Ninh Có thể thấy, diễn biến theo mùa thể hiện rõ nhất đối với PM10 và PM2.5, các khí khác cũng có xu hướng tương tự, mặc dù mức độ biến thiên thấp hơn. Điều này cho thấy, bụi PM và các khí đều chịu cùng một sự tác động của điều kiện thời tiết khu vực phía bắc. Mùa đông, gió mùa Đông Bắc, khí hậu khô, lạnh, áp suất cao làm nồng độ bụi PM và các khí tăng cao. Ngược lại, trong mùa hè, các tỉnh thành phía bắc chịu tác động của gió Tây Nam và Đông Nam thổi ra biển hoặc lên phía Bắc, cùng những cơn mưa thường xuyên rửa trôi bụi bẩn trong không khí. Kết quả là, các tỉnh thành phía Bắc có nồng độ bụi PM và các khí trong mùa hè giảm đi rất nhiều so với mùa đông. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra các biến động theo mùa ở miền Bắc Việt Nam với các xu hướng này [3] [5] [6]. Như vậy, yếu tố khí tượng là một trong những nguyên nhân khiến nồng độ bụi PM10 và PM2.5 và một số khí cao vào mùa đông. Trong đó, ảnh hưởng của nghịch nhiệt là khá đáng kể [3]. Có 2 cơ chế đối với hiện tượng nghịch nhiệt là: nghịch nhiệt bức xạ và nghịch nhiệt bổ sung. Hiện tượng nghịch nhiệt bức xạ thường xảy ra với tần suất cao vào đầu mùa đông, còn hiện tượng nghịch nhiệt bổ sung xảy ra trong suốt mùa đông nhưng với tuần suất thấp hơn. Sự thay đổi của chiều cao lớn biên khí quyển cũng là nguyên nhân làm cho các thông số PM10, PM2.5. CO, SO2, NO2 có nồng độ lớn nhất vào mùa đông và thấp nhất vào mùa hè [4]. Trong mùa đông chiều cao của lớp biên khí quyển thường thấp hơn nhiều so với mùa hè, vì vậy các chất ô nhiễm không thể phát tán lên cao. 3.3. Biến động PM10, PM2.5 và các thông số khác trong ngày Nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí ảnh hưởng bởi sự thay đổi điều kiện thời tiết và cường độ phát thải giữa ngày và đêm. Các trạm đặt tại Hà Nội, Phú Thọ và Quảng Ninh đều là các trạm ven đường, vì vậy diễn biến của các thông số khá tương đồng. Các thông số như CO, PM10, PM2.5 có diễn biến trong ngày tương quan chặt chẽ với cường độ giao thông, do đó có thể nhận định những thông số này chịu ảnh hưởng từ các hoạt động giao thông khá rõ ràng. ▲Hình 4. Diễn biến giá trị trung bình giờ trong ngày của các thông số tại trạm Hà Nội ▲Hình 5. Diễn biến giá trị trung bình giờ trong ngày của các thông số tại trạm Phú Thọ Chuyên đề I, tháng 3 năm 20216 ▲Hình 6. Diễn biến giá trị trung bình giờ trong ngày của các thông số tại trạm Quảng Ninh Các thông số CO, PM10 và PM2.5 đều có xu hướng cao vào các giờ cao điểm giao thông buổi sáng (từ 7 - 9 h) và chiều (17-19 h), giảm xuống thấp nhất vào giữa trưa (13 - 14 h) và ban đêm (23 - 1 h). Bên cạnh việc giảm phát thải trong các khung giờ thấp điểm, buổi trưa cường độ ánh sáng mặt trời cao nhất đốt nóng lớp không khí sát mặt đất, đối lưu khí quyển diễn ra mạnh làm cho bụi PM10 và PM2.5 và các khí ô nhiễm phát tán lên cao. Thông số NO2 cũng có 2 cực đại vào buổi sáng (7 - 9 h) và buổi chiều (17 - 19 h), tuy nhiên nồng độ cực đại vào buổi chiều cao hơn so với buổi sáng. Điều này là có thể do NO2 được sinh ra nhiều hơn từ các phản ứng quang hóa, trong đó phản ứng giữa NO và O3 đóng vai trò quan trọng. Đối với thông số SO2, biến động nồng độ trong ngày ít hơn so với các thông số khác. 3.4. Tương quan giữa PM10, PM2.5 với các thông số Tại các khu vực, khi các chất ô nhiễm chủ yếu phát sinh từ một nguồn gốc thì giá trị quan trắc các thông số này sẽ có tương quan với nhau. Điển hình là tại Trung Quốc, các thông số PM10, SO2, NO2, và CO có tương quan chặt với nhau do các thông số này đều có nguồn gốc chung do đốt nguyên liệu hóa thạch [7]. Tuy nhiên, do có nhiều yếu tố ảnh hưởng khác, nên mức độ tương quan này có thể ở những mức khác nhau. Tại các trạm Hà Nội, Phú Thọ và Quảng Ninh, thông số PM10 và PM2.5 luôn có tương quan với nhau rất mạnh (RPM10-PM2.5 > 0,9) do PM2.5 thường chiếm 60-80% nồng độ của PM10 [2]. Vì vậy phần dưới đây tập trung đánh giá tương quan giữa PM10 và các thông số NO2, SO2, CO và O3. Hệ số tương quan Pearson (R) được sử dụng để đánh giá tương quan giữa các thông số nói trên. Tại trạm Hà Nội, thông số PM10 và NO2, CO có tương quan trung bình (R<0,5). NO2 và CO là thông số phát thải đặc trưng từ hoạt động giao thông, vì vậy có thể nhận định sơ bộ ngoài nguồn phát thải từ giao thông, có nguồn ô nhiễm khác có đóng góp quan trọng vào nồng độ bụi. Bảng 3. Hệ số tương quan Pearson giữa các thông số tại trạm Hà Nội Thông số PM10 PM2.5 NO2 SO2 CO O3 PM10 1 0,92 0,48 0,44 0,33 -0,05 PM2,5 1 0,43 0,44 0,32 -0,10 NO2 1 0,13 0,43 -0,02 SO2 1 0,21 0,01 CO 1 -0,12 O3 1 Ghi chú: Giá trị p-value < 0,01 Tại trạm Phú Thọ và Quảng Ninh, hệ số tương quan giữa PM10 và NO2, CO khá cao, lần lượt là (R từ 0,60 - 0,70) và (R từ 0,49 - 0,68) cho thấy, tại 2 địa điểm này chúng có nguồn phát thải khá đồng nhất, đặc biệt tại Phú Thọ. Vì vậy, có thể sơ bộ nhận định bụi PM tại Phú Thọ và Quảng Ninh đóng góp từ nguồn giao thông chiếm tỉ lệ cao hơn so với tại Hà Nội. Tuy nhiên, tương quan giữa PM10 và NO2, CO tại trạm Quảng Ninh thấp hơn so với trạm Phú Thọ. Bảng 4. Hệ số tương quan Pearson giữa các thông số tại trạm Phú Thọ Thông số PM10 PM2.5 NO2 SO2 CO O3 PM10 1 0,95 0,60 0,43 0,70 -0,09 PM2,5 1 0,56 0,44 0,67 -0,14 NO2 1 0,15 0,59 -0,03 SO2 1 0,11 -0,04 CO 1 -0,14 O3 1 Ghi chú: Giá trị p-value < 0,01 Bảng 5. Hệ số tương quan Pearson giữa các thông số tại trạm Quảng Ninh Thông số PM10 PM2.5 NO2 SO2 CO O3 PM10 1 0,91 0,68 0,43 0,49 0,07 PM2,5 1 0,68 0,33 0,45 -0,06 NO2 1 0,29 0,25 -0,14 SO2 1 0,20 -0,04 CO 1 0,06 O3 1 Ghi chú: Giá trị p-value < 0,01 Thông số SO2 phát sinh chủ yếu từ đốt nhiên liệu hoá thạch như than, tại 3 trạm Hà Nội, Phú Thọ, Quảng Ninh, thông số SO2 có tương quan trung bình với PM10 (RPM10-SO2 từ 0,43 - 0,44), do vậy nguồn đốt than có thể có đóng góp một tỷ lệ nhất định vào nồng độ bụi trong không khí. TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 7 Hệ số tương quan giữa PM10 và O3 tại các trạm đều rất thấp, do O3 là các chất ô nhiễm thứ cấp và có cơ chế hình thành cũng như diễn biến trong ngày khác biệt so với bụi PM. ▲Hình 7. Biểu đồ phân tán giữa thông số PM10, PM2.5 và NO2, SO2, CO tại trạm Hà Nội ▲Hình 8. Biểu đồ phân tán giữa thông số PM10, PM2.5 và NO2, SO2, CO tại trạm Phú Thọ ▲Hình 9. Biểu đồ phân tán giữa thông số PM10, PM2.5 và NO2, SO2, CO tại trạm Quảng Ninh Mỗi chất ô nhiễm trong không khí có thể do nhiều nguồn phát ra, ngược lại mỗi loại nguồn lại có thể phát ra đồng thời nhiều chất ô nhiễm, những chất ô nhiễm này lại trải qua quá trình biến đổi trong khí quyển. Vì vậy thông qua hệ số tương quan chưa thể đánh giá cụ thể sự đóng góp của các nguồn thải vào nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí, nó cho thấy dấu hiệu các chất ô nhiễm có thể có cùng nguồn gốc phát sinh. Với các kết quả phân tích tương quan, sơ bộ chỉ có thể nhận định bụi PM có nguồn gốc từ các hoạt động giao thông và đốt nhiên liệu hoá thạch. Để xác định tỷ trọng đóng góp của các nguồn này cần có các nghiên cứu chuyên sâu hơn. 4. Kết luận Số liệu quan trắc tại các trạm Hà Nôi, Phú Thọ, Quảng Ninh cho thấy PM10, PM2.5 và các khí như NO2, SO2, CO có quy luật diễn biến theo thời gian tương đối đồng nhất với nhau, cũng tương tự so với các nghiên cứu trước đây. Nồng độ trung bình các chất ô nhiễm không khí trong mùa đông (từ tháng 10 đến tháng 2) cao hơn đến 2 lần so với mùa hè (tháng 5 - 8). Diễn biến trong ngày của các thông số nêu trên thường đạt cực đại vào các giờ cao điểm giao thông buổi sáng (từ 7 - 9 h) và buổi chiều (từ 17 - 19 h). Trong đó diễn biến của thông số CO, PM10 và PM2.5 thể hiện quy luật rõ nhất. Điều này cho thấy, tác động của các điều kiện khí tượng và hoạt động giao thông đối với nồng các thông số này khá rõ ràng. Tại trạm Hà Nội, thông số PM10 và NO2, CO có tương quan trung bình (R<0,5), vì vậy có thể nhận định sơ bộ ngoài nguồn phát thải từ giao thông, các nguồn ô nhiễm khác có đóng góp quan trọng vào nồng độ bụi PM. Tại Trạm Phú Thọ và Quảng Ninh, PM10 và PM2.5 có tương quan khá cao với NO2 và CO cho thấy, tại đây chúng có nguồn phát thải khá đồng nhất, bụi PM tại Phú Thọ và Quảng Ninh đóng góp từ nguồn giao thông chiếm tỷ lệ cao hơn so với tại Hà Nội. Phát sinh bụi PM tại Hà Nội còn có thể có từ nhiều nguồn khác■ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Hoa, Lê Hoàng Anh, Nguyễn Thị Nhật Thanh, “Nghiên cứu tổng quan các phương pháp xác định nguồn đóng góp bụi PM10, PM2.5 trong không khí xung quanh”, Tạp chí Môi trường chuyên đề IV, 2020. 2. Lê Hoàng Anh, Dương Thành Nam, Vương Như Luận, “Ô nhiễm bụi PM tại một số thành phố Việt Nam – Biến động theo không gian, thời gian của PM10 và PM2.5”, Tạp chí Môi trường chuyên đề IV, 2018. 3. P. D. Hien, V. T. Bac, H. C. Tam, D. D. Nhan, and L. D. Vinh, “Infuence of meteorological conditions on PM2.5 and PM2.5−10 concentrations during the monsoon season in Hanoi, Vietnam”, Atmos. Environ., vol. 36, no. 21, pp. 3473–3484, 2002. 4. Nguyen Anh Dung, Duong Hong Son, Nguyen The Duc Hanh, Doan Quang Tri, “Effect of Meteorological Factors on PM10 Concentration in Hanoi, Vietnam”, Journal of Geoscience and Environment Protection 7, 138-150, 2019. 5. N. T. Kim Oanh et al., “Particulate air pollution in six Asian cities: Spatial and temporal distributions, and associated sources”, Atmos. Environ., vol. 40, no. 18, pp. 3367–3380, 2006. 6. C. Dung Hai and N. T. Oanh, “Effects of local, regional meteorology and emission sources on mass and compositions of particulate matter in Hanoi” Atmos. Environ., vol. 78, 2012. 7. Yungang Wang, Qi Ying, Jianlin Hu, Hongliang Zhang, “Spatial and temporal variations of six criteria air pollutants in 31 provincial capital cities in China during 2013–2014”, Environment International, vol 73, 413 – 422, 2014. Chuyên đề I, tháng 3 năm 20218 RELATIONSHIP BETWEEN PM10, PM2.5 AND OTHER AIR POLLUTANTS IN SEVERAL CITIES IN NORTHERN VIETNAM Le Hoang Anh, Vuong Nhu Luan Vietnam Environment Administration, Ministry of Natural Resoures and Environment Nguyen Thi Hoa Communication Center for Natural Resources and Environment, Ministry of Natural Resoures and Environment Trinh Thi Thuy Falcuty of Environment, Hanoi University of Natural Resources and Environment ABSTRACT The data of ambient air monitoring stations located in Hanoi, Phu Tho, and Quang Ninh has been analyzed in this article. The preliminary determination on the source of Particulate Matter (PM) emissions is based on Pearson's correlation coefficients between PM10, PM2.5 and NO2, SO2, CO, O3. Results show that in the North of Vietnam, the average values of PM10, PM2.5, NO2, SO2, CO are remarkably higher than those in winter (from October to February) and quite lower in summer (May to August). Daily variations of the aforesaid parameters usually maximize during rush hours in the morning (from 7 a.m. to 9 a.m.) and in the afternoon (from 5 p.m. to 7 p.m.) as well. It is obviously clear that meteorological conditions and traffic activities impact on these parameters. The parameters PM10 and NO2, CO collected in Hanoi, Quang Ninh, Phu Tho stations have correlation coefficients respectively (R<0.5); (R from 0.49 to 0.68) and (R from 0.60 to 0.70), which shows the different levels of the influence from vehicular traffic emissions in these areas. Key work: Dust pollution, PM10, PM2.5, ambient air.
File đính kèm:
- moi_tuong_quan_giua_bui_pm10_pm2_5_voi_cac_khi_khac_trong_kh.pdf