Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt

Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Chuyển tải đặc trưng văn hóa dân

tộc thông qua kênh ngôn ngữ đang là mục tiêu quảng bá văn hóa, phát huy sức mạnh mềm trong thời

kỳ toàn cầu hóa. Bài viết đưa ra một cái nhìn tổng quát, xuyên suốt các vấn đề đã được đặt ra trong

quá trình lịch sử, tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ; ứng dụng mối quan hệ

giữa văn hóa và ngôn ngữ theo các khuynh hướng nghiên cứu hình thành trong nghiên cứu văn hóa

và ngôn ngữ Việt Nam để làm rõ những giá trị đóng góp cũng như những khoảng trống đối với việc

nghiên cứu đặc trưng văn hóa qua ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa Việt Nam trong giảng dạy tiếng Việt

cho người nước ngoài

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 1

Trang 1

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 2

Trang 2

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 3

Trang 3

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 4

Trang 4

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 5

Trang 5

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 6

Trang 6

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 7

Trang 7

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 8

Trang 8

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 08/01/2024 4940
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
1. MỞ ĐẦU
Văn hóa và ngôn ngữ có liên hệ chặt chẽ, không 
thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở 
văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ. Các 
nhà khoa học đều thừa nhận, giữa ngôn ngữ và văn 
hoá, ngôn ngữ dân tộc và văn hoá dân tộc có mối 
quan hệ gắn bó chặt chẽ, chúng phát triển trong sự 
tác động qua lại lẫn nhau. Như vậy, là một thành tố 
của văn hóa tinh thần, ngôn ngữ là phương tiện tất 
yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và 
hoạt động của những thành tố khác trong văn hoá. 
“Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng nhất của 
bất cứ nền văn hoá - dân tộc nào. Chính trong ngôn 
ngữ, đặc điểm của nền văn hoá dân tộc được lưu 
giữ rõ ràng nhất” (Nguyễn Đức Tồn, 2002, tr.120-
NGUYỄN THỊ THUẦN*
*Học viện Khoa học Quân sự, nguyenthithuan71@gmail.com
Ngày nhận bài: 18/6/2018; ngày sửa chữa: 8/8/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018
MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA 
TRONG GIẢNG DẠY VĂN HÓA CHO HỌC VIÊN 
NƯỚC NGOÀI QUA MÔN TIẾNG VIỆT
121). Vậy, muốn nghiên cứu sâu về văn hóa phải 
nghiên cứu ngôn ngữ, và tất nhiên muốn đi sâu vào 
ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hóa. 
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ 
VĂN HÓA TRONG NGHIÊN CỨU CỦA CÁC 
NHÀ NGÔN NGỮ HỌC VIỆT NAM
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa 
ngôn ngữ với văn hoá đã có tuổi đời gần một trăm 
năm và bao gồm một số khuynh hướng khác nhau, 
phản ánh ảnh hưởng của các khuynh hướng học 
thuật khác nhau đối với ngôn ngữ học Việt Nam. 
Có thể kể tới bốn khuynh hướng liên quan: khuynh 
hướng ngôn ngữ học tiếp xúc hay khuynh hướng 
tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ; 
TÓM TẮT
Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Chuyển tải đặc trưng văn hóa dân 
tộc thông qua kênh ngôn ngữ đang là mục tiêu quảng bá văn hóa, phát huy sức mạnh mềm trong thời 
kỳ toàn cầu hóa. Bài viết đưa ra một cái nhìn tổng quát, xuyên suốt các vấn đề đã được đặt ra trong 
quá trình lịch sử, tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ; ứng dụng mối quan hệ 
giữa văn hóa và ngôn ngữ theo các khuynh hướng nghiên cứu hình thành trong nghiên cứu văn hóa 
và ngôn ngữ Việt Nam để làm rõ những giá trị đóng góp cũng như những khoảng trống đối với việc 
nghiên cứu đặc trưng văn hóa qua ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa Việt Nam trong giảng dạy tiếng Việt 
cho người nước ngoài.
Từ khóa: chuyển tải văn hóa, đặc trưng văn hóa, ngôn ngữ, ngôn ngữ học, văn hóa, tiếng Việt
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
khuynh hướng dân tộc - ngôn ngữ học; khuynh 
hướng văn hoá - ngôn ngữ học hay ngôn ngữ học 
văn hoá; khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học và 
nhân học ngôn ngữ.
Kể từ thập niên 1970, Giáo sư Phạm Đức 
Dương đã chọn hướng tiếp cận liên ngành để khảo 
sát các vấn đề ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử của các 
dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á. Những công 
trình liên quan đến hướng tiếp cận này của ông có 
thể kể như: “Một số cứ liệu ngôn ngữ về sự thân 
thuộc giữa các dân tộc thuộc nhóm Tạng Miến ở 
miền Bắc Việt Nam” in trong Thông báo Dân tộc 
học, số 3, 1973; “Về mối quan hệ thân thuộc giữa 
các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt Mường ở miền Tây 
Quảng Bình” trong Về vấn đề xác định thành phần 
các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, 1975
Đặc biệt, chính nhờ sử dụng phương pháp 
tiếp cận liên ngành dân tộc - ngôn ngữ học, phối 
hợp với những tư liệu khảo cổ và thư tịch cổ Việt 
Nam, Giáo sư Phạm Đức Dương cùng với nhà sử 
học Hà Văn Tấn (1978) trong bài “Về ngôn ngữ 
Tiền - Việt Mường” in trong Tạp chí Dân tộc học 
số 1/1978 đã xác lập được một giả thiết có tính 
thuyết phục cao về nguồn gốc hình thành dân tộc 
Việt và tiếng Việt trên địa bàn trung du và đồng 
bằng Bắc Bộ. Về sau này, trong các bài giảng về 
Văn hoá Đông Nam Á và về Đông Nam Á học Việt 
Nam tại các trường đại học, Giáo sư Phạm Đức 
Dương cũng sử dụng cách tiếp cận liên ngành 
nói trên, nhờ đó đã đem lại những kiến giải sâu 
sắc, thấu đáo về lịch sử hình thành các dân tộc 
và các nền văn hoá ở Việt Nam và Đông Nam Á. 
“Ngôn ngữ được xem là đặc trưng của tộc người, 
ngôn ngữ được xem là gia tài quí giá nhất và đích 
thực nhất để nhận diện một dân tộc.” (Phạm Đức 
Dương, 2007, tr.83)
Từ thập niên 1990, một số nhà ngôn ngữ khác 
tham gia hướng nghiên cứu thú vị này, như Nguyễn 
Văn Lợi (1993) với bài “Tộc danh của một số dân 
tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên 
gọi Giao Chỉ”; Nguyễn Đức Tồn (1993) với bài 
“Nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc qua ngôn 
ngữ và tư duy ngôn ngữ” (Nhiều tác giả, 1993),...
Các công trình nghiên cứu có tính chất liên 
ngành của các nhà dân tộc học và ngôn ngữ học đã 
tạo ra được nền móng ban đầu cho chuyên ngành 
dân tộc - ngôn ngữ học Việt Nam. Riêng về phía 
các nhà ngôn ngữ học, sự tham gia của họ đã bước 
đầu đem lại cho ngành ngôn ngữ học Việt Nam 
một tiếng nói độc lập và có căn cứ đối với việc tìm 
hiểu văn hoá, lịch sử của các cộng đồng dân tộc.
Đề xuất thành lập môn h ... ghiên cứu 
đặc trưng văn hóa Việt Nam qua giảng dạy tiếng 
Việt cho học viên nước ngoài nói chung và học 
viên quân sự nước ngoài tại các nhà trường quân 
đội nói riêng. 
4.2. Những vấn đề đặt ra
Qua điểm lịch sử tình hình nghiên cứu mối 
quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ cho thấy đây là 
mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Dạy ngôn 
ngữ cũng chính là để chuyển tải văn hóa và sự thấu 
hiểu về văn hóa sẽ giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ 
hiệu quả hơn.
Công việc nghiên cứu mối quan hệ ngôn ngữ 
và văn hóa được thể hiện trên nhiều phương diện 
nhưng đối với nghiên cứu ứng dụng trong giảng 
dạy ngôn ngữ thì quan hệ giữa ngôn ngữ và văn 
hóa thể hiện rõ nét trong ý nghĩa của từ và định 
danh ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là một công cụ 
hữu hiệu để lưu giữ và truyền đạt từ thế hệ này 
sang thế hệ khác những kinh nghiệm, những thành 
tựu mà thế hệ trước đã tích lũy được. Nghĩa của từ 
(độc lập với văn cảnh) đã lưu giữ lại sự hiểu biết 
về thế giới khách quan và trình độ mà một dân tộc 
đã tích lũy và đúc kết trong một giai đoạn lịch sử. 
Vì vậy, giảng dạy ngôn ngữ trong các bối cảnh ngữ 
dụng sẽ giúp cho người học thấu hiểu đặc trưng 
văn hóa của ngôn ngữ đích từ cái nhìn của người 
trong cuộc, giúp họ hiểu được đặc trưng tư duy của 
dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó. 
Từ “bụng” trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng 
Phê (2017, tr.127) được giải thích với 3 nét nghĩa: 
1. bộ phận cơ thể người hoặc động vật chứa ruột, 
2. bụng con người, coi là biểu tượng của ý nghĩ, 
tình cảm sâu kín. 
Việc người Việt thường “nghĩ bụng” và vấn 
đề tư duy, cảm nhận khách quan được theo một 
phương thức rất đơn giản là “ưng cái bụng” cho 
thấy cái “bụng” của người Việt có thể hoàn thành 
xuất sắc nhiều chức năng phong phú và đa dạng về 
72 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
cả vật chất lẫn tinh thần. Đó là nhiệm vụ tư duy, 
suy xét và cảm nhận thay cho đầu óc và trái tim. 
Bên cạnh đó, người Việt cũng “Suy bụng ta 
ra bụng người” để xác định phẩm chất của con 
người, người ta dùng cặp phạm trù đối xứng âm 
dương: “Anh tốt bụng” hay “Anh xấu bụng”, hay 
nói về sự giả dối, âm mưu và dã tâm, người Việt 
cũng vận dụng tới cái bụng “Miệng nam mô bụng 
bồ dao găm” 
Phong phú hơn, những cung bậc cảm xúc với 
đầy đủ vui, buồn cũng biểu đạt ở nơi “bụng, dạ”. 
Để miêu tả sự bực tức thì: “Tức lộn ruột lộn gan”, 
“Giận bầm gan tím ruột”; còn để biểu đạt sự hài 
lòng, thỏa mãn thì: “Mát ruột mát gan” hay “Mát 
lòng mát dạ” Còn khi đạt được độ tin cậy, thân 
thiện, người Việt có thể: “Cởi lòng cởi dạ” hay 
chừng mực hơn: “Được lời như cởi tấm lòng” 
Đây thực sự là một khám phá văn hóa đối với 
học viên nước ngoài. Chỉ cần hiểu hết nét nghĩa 
trong một từ vựng có ý nghĩa văn hóa biểu trưng, 
họ đã có thể phần nào thấy được nét tư duy của một 
dân tộc có lối tư duy cảm tính, sống thiên về tình 
cảm, đặc trưng của những cư dân lúa nước vùng 
đồng bằng sông Hồng vốn phải thực tế và ứng phó 
nhanh với hoàn cảnh một cách linh hoạt để thích 
nghi với điều kiện sống của mình. Đây là lối tư 
duy tổng hợp đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Các 
kết luận này có từ GS Trần Quốc Vượng và được 
phát triển, phân tích và mở rộng bởi GS Trần Ngọc 
Thêm. Luận điểm này thường được dùng để lý giải 
chiến lược ngoại giao mà Bác Hồ đã chỉ ra “Dĩ bất 
biến, ứng vạn biến”.
Bên cạnh đó, công tác giảng dạy tiếng Việt như 
một ngoại ngữ, việc nghiên cứu đặc trưng văn hóa 
dân tộc trong định danh ngôn ngữ giao tiếp có vai 
trò hết sức quan trọng. Việc xây dựng những đơn 
vị từ, ngữ nghĩa của các phương tiện định danh 
ngôn ngữ hội thoại phản ánh những nét đặc trưng 
về chức năng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp của 
ngôn ngữ hội thoại dựa vào cơ sở thống nhất nhận 
thức chung của những người tham gia hội thoại. 
Trong một bối cảnh cụ thể, trong quan hệ riêng 
giữa những người tham gia hội thoại, người ta 
có thể sử dụng những phương tiện giao tiếp khác 
ngoài lời như cử chỉ, hành động.
Đó là loại ý nghĩa được định danh rộng rãi của 
ngôn ngữ hội thoại, hay còn gọi là các nghĩa tình 
huống. Những khái niệm “mới” trong những điều 
kiện nhất định của tình huống giao tiếp ngôn ngữ 
được nảy sinh.Việc tạo ra những nghĩa tình huống 
cho từ không phải là sản phẩm của xã hội hiện đại, 
xưa kia, trong ca dao người xưa cũng đã sử dụng 
ý nghĩa này để biểu đạt những khát vọng tình yêu 
cháy bỏng một cách ý nhị và tinh tế: “Hỡi cô cắt 
cỏ bên sông/Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây”, 
hoặc “ Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào” 
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, đặc biệt khi mạng 
Internet phát triển và cư dân cộng đồng mạng ngày 
một gia tăng thì số lượng từ vựng này được sử 
dụng khá phổ biến, chẳng hạn như: bó tay (không 
có khả năng), đặt gạch (xếp hàng, chờ đợi)... điều 
này làm phong phú thêm những phương tiện biểu 
đạt, đặc biệt là ở những phạm vi mới, những lĩnh 
vực mới có yếu tố bản sắc nhóm cao.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, mối quan 
hệ hữu cơ giữa văn hóa và ngôn ngữ và sự phản 
ánh đặc trưng văn hóa Việt Nam trong ngôn ngữ 
được thể hiện ngay trong các chức năng của ngôn 
ngữ. Nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 
(1980): “Tiếng ta giàu bởi đời sống muôn màu, đời 
sống tư tưởng và tình cảm dồi dào của dân tộc ta; 
bởi kinh nghiệm đấu tranh lâu đời và phong phú, 
kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, 
đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh chống giặc 
ngoại xâm; bởi những kinh nghiệm sống của bốn 
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tiếng 
Việt chúng ta phản ánh sự hình thành và trưởng 
thành của xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam, 
của tập thể nhỏ là gia đình, họ hàng, làng xóm và 
của tập thể lớn là dân tộc, quốc gia”. 
Để phát triển và hội nhập, chúng ta không chỉ 
quan tâm đến vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc 
văn hóa dân tộc mà còn phải giới thiệu, quảng bá 
những giá trị đó đến với nhân dân các nước trên 
thế giới. Trong lịch sử, dân tộc ta đã nhận được 
73KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
sự quan tâm và giúp đỡ chí tình của nhân dân và 
chính phủ nhiều nước trên thế giới. Một trong 
những yếu tố làm nên mối quan hệ ngoại giao tốt 
đẹp đó là do chúng ta đã gây được thiện cảm về 
một đất nước nhỏ bé nhưng kiên cường, khát khao 
độc lập dân tộc, yêu chuộng hòa bình và cởi mở, 
thân thiện. Ngày nay, trong thế giới phẳng, chúng 
ta càng cần có những ảnh hưởng lớn về ngoại giao 
đối với các nước khắp năm châu. Điều đó đặt ra 
vấn đề phải làm như thế nào để giới thiệu và quảng 
bá những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam trên 
toàn thế giới.
Tuy vậy, việc chuyển tải văn hóa Việt qua kênh 
giảng dạy ngoại ngữ lại chưa thực sự được các nhà 
nghiên cứu quan tâm, hoặc quan tâm thì chưa có 
hệ thống, chủ yếu theo xu hướng kết hợp, có liên 
quan chứ chưa có những công trình dài hơi vừa 
mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn với 
mục tiêu quảng bá văn hóa cho người nước ngoài 
qua kênh giảng dạy tiếng Việt. 
Những kết quả nghiên cứu trên đây đều thuộc 
về những nhà nghiên cứu, những người thầy vô 
cùng có tâm huyết với công tác giảng dạy tiếng 
Việt cho người nước ngoài. Nhưng cũng không thể 
phủ nhận, những công trình như vậy là quá ít ỏi so 
với yêu cầu mới của Chuẩn đầu ra và nhu cầu học 
tập ngày càng cao của học viên. Mặt khác những 
nghiên cứu ứng dụng đó chủ yếu mang tính chất 
định hướng chung nhất, hoặc lại quá chuyên sâu 
vào lĩnh vực nghiên cứu của tác giả (chủ yếu thiên 
về ngôn ngữ và khai thác từ góc nhìn của ngôn 
ngữ học).
Có thể khẳng định, nghiên cứu mối quan hệ 
giữa văn hóa và ứng dụng trong lĩnh vực dạy tiếng 
Việt cho người nước ngoài là một cánh cửa mở 
nhưng thực sự chưa đủ hấp dẫn để các nhà nghiên 
cứu có một công trình nghiên cứu dài hơi về vấn 
đề này. Lý do chủ quan, khách quan chắc chắn 
là có nhưng có thể khẳng định đây là một hướng 
nghiên cứu liên ngành với nhiều đối tượng nghiên 
cứu như mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ, 
vốn hiểu biết về văn hóa nguồn của người nước 
ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt, đặc trưng văn 
hóa Việt Nam biểu hiện qua ngôn ngữ tiếng Việt 
và phương pháp giảng dạy tiếng Việt với mục đích 
nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa cho người 
học. Tìm trên bộ máy tìm kiếm khổng lồ Google, 
kết quả hiển thị chỉ có một bài viết duy nhất của 
tác giả Trần Thủy Vịnh “Về truyền tải kiến thức 
văn hóa trong giảng dạy tiếng Việt cho học viên 
nước ngoài” in trên Tạp chí Phát triển Khoa học 
và Công nghệ (2013). Hoặc ngay trong Kỷ yếu Hội 
thảo Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học được 
ra thường niên trong sự phối hợp giữa hai trung tâm 
ngôn ngữ học và giảng dạy thực hành tiếng, Việt 
Nam học lớn nhất cả nước, cũng rất hiếm những 
bài nghiên cứu về vấn đề này, hoặc có thì cũng 
chỉ đề cập tới vấn đề dạy văn học trung đại, văn 
hóa dân gian cho học viên Việt Nam học viên học 
chuyên ngành Việt Nam học, hoặc là cách nhìn của 
người nước ngoài trên những biểu hiện tích cực 
và những cách nhìn khác về văn hóa Việt Nam.
Vấn đề thường được các nhà giáo quan tâm 
trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Việt như một ngoại 
ngữ thứ hai là “sốc” văn hóa đối với người học 
đến từ những nền văn hóa gốc khác nhau khi tiếp 
xúc với một nền văn hóa mới qua ngôn ngữ. Tuy 
nhiên, xây dựng nội dung đặc trưng văn hóa 
nhằm mục đích chuyển tải đến cho người nước 
ngoài học tiếng Việt ở Việt Nam như một ngoại 
ngữ thì chưa thực sự được giới nghiên cứu quan 
tâm một cách thích đáng. 
5. KẾT LUẬN
Trong thời hội nhập, với mục đích ngoại giao 
văn hóa quân sự và hợp tác toàn diện trên các lĩnh 
vực quân sự và chính trị quân sự với các nước láng 
giềng thân cận như Lào, Cam-pu-chia, hợp tác 
quốc tế với tất cả các nước trong khu vực Đông 
Nam Á, một số nước Đông Bắc Á như Triều Tiên, 
Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ở các 
châu lục khác như Bỉ, Mỹ, Pháp, Úc, An-giê-ri, 
Cuba, Mô-zăm-bích ... số lượng học viên quân sự 
nước ngoài đến học tập tại các nhà trường Quân 
đội ngày một tăng cao trong một năm học. Tiếng 
Việt chính là cầu nối người nước ngoài với Việt 
Nam và cũng từ đây văn hóa Việt lan tỏa khắp năm 
châu. Đó là chưa kể đến việc học viên đến Việt 
Nam học tiếng Việt trong các nhà trường Quân 
đội đều có mục đích nghiên cứu, học tập về Việt 
74 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Nam hoặc các chuyên ngành bằng tiếng Việt. Họ 
thực sự là những nhân tố tích cực trong chiến lược 
ngoại giao văn hóa của Đảng và Nhà nước, Quân 
đội trong thời kỳ mới. Điều đó thực sự đặt ra nhu 
cầu phải có những công trình dài hơi quan tâm đến 
vấn đề chuyển tải đặc trưng văn hóa Việt Nam qua 
giảng dạy tiếng Việt./. 
 Tài liệu tham khảo:
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), “Khung năng lực Tiếng 
Việt dùng cho người nước ngoài”. Ban hành kèm 
theo Thông tư số 17/2015/TT-BG&ĐT ngày 01 
tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và 
Đào tạo.
Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn 
ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, tr.1-18.
Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập 1, 
Từ vựng - Ngữ nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập 2, 
Đại cương - Ngữ dụng học - Ngữ pháp văn bản, 
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Chiến (2002), Tiến tới xác lập vốn từ vựng 
văn hoá Việt: Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá, 
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn 
hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á, NXB 
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phạm Đức Dương, Hà Văn Tấn (1978), “Về ngôn ngữ 
tiền Việt Mường”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr.14-21.
Đại học Quốc gia Hà Nội & Đại học Quốc gia Hồ Chí 
Minh (2015), Kỷ yếu hội thảo quốc tế đào tạo và 
nghiên cứu ngôn ngữ học ở Việt Nam, Đại học Quốc 
gia TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của 
người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Phạm Văn Đồng (1980), Giữ gìn sự trong sáng của 
Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Bùi Mạnh Hùng (2016), “Mấy vấn đề xây dựng chương 
trình tiếng Việt cho người nước ngoài theo mô hình 
phát triển năng lực”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư 
phạm TP Hồ Chí Minh. Số 4 (82), tr.22-34.
Khoa Ngôn ngữ trường Đại học Quốc gia Hà Nội 
(2011), Hội thảo quốc tế đào tạo và nghiên cứu 
ngôn ngữ học ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và 
thực tiễn, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận 
mới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1993), Những vấn đề ngôn ngữ và văn 
hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
Hoàng Phê (chủ biên) (2017), Từ điển tiếng Việt, NXB 
Đà Nẵng.
Lý Toàn Thắng (2001), “Bản sắc văn hóa: thử nhìn từ 
góc độ tâm lý – ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 15.
Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lý 
thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, NXB 
Khoa học xã hội, Hà Nội.
Lý Toàn Thắng (2012), Một số vấn đề lý luận ngôn ngữ 
học và tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, 
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (1999), “Ngữ dụng học và văn hóa 
– ngôn ngữ học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số, tr.32-37.
Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa 
dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, NXB 
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hoá - dân tộc 
của ngôn ngữ và tư duy, NXB Đại học Quốc gia, 
Hà Nội.
Trường Đại học Sài Gòn & Hội Ngôn ngữ học Việt 
Nam (2015), Hội thảo quốc tế đào tạo và nghiên 
cứu ngôn ngữ học ở Việt Nam, Đại học Quốc gia 
Hà Nội.
Trần Thủy Vịnh (2013), “Về truyền tải kiến thức văn 
hóa trong giảng dạy tiếng Việt cho học viên nước 
ngoài”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 
tập 16, Số X3 – 2013, tr.96-106.
Humbotdt. W (1960), Về sự khác biệt trong tổ chức của 
các ngôn ngữ và tác động của nó đối với sự phát 
triển tâm hồn dân tộc, trong “Lịch sử ngôn ngữ học 
thế kỉ XIX - XX“ do Zveginxhe V.A. biên soạn, tập 
1, Uchpedgiz, Moskva.
75KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
A STUDY ON THE RELATIONSHIP BETWEEN LANGUAGE AND CULTURE 
IN TEACHING CULTURE VIA VIETNAMESE TO FOREIGN LEARNERS
NGUYEN THI THUAN
Abstract: Language and culture have an inseparable dialectical relationship. Transmission of ethnic 
cultural characteristics through the language channel is the target of promoting culture, developing 
soft power in the period of globalization. The article provides an overview of the issues that have 
arisen in the course of history, the study of the relationship between culture and language; Applying the 
relationship between culture and language according tothe research tendencies formed in Vietnamese 
cultural and linguistic studies to clarify the value of contributions as well as gaps for study of cultural 
characteristics through Vietnamese language and culture in teaching Vietnamese to foreigners.
Keywords: cultural transmission, cultural characteristics, language,linguistics, culture, Vietnamese
Received: 18/6/2018; Revised: 8/8/2018; Accepted for publication: 30/8/2018

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_ngon_ngu_va_van_hoa_trong_giang_day_van_hoa.pdf