Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt
Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Chuyển tải đặc trưng văn hóa dân
tộc thông qua kênh ngôn ngữ đang là mục tiêu quảng bá văn hóa, phát huy sức mạnh mềm trong thời
kỳ toàn cầu hóa. Bài viết đưa ra một cái nhìn tổng quát, xuyên suốt các vấn đề đã được đặt ra trong
quá trình lịch sử, tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ; ứng dụng mối quan hệ
giữa văn hóa và ngôn ngữ theo các khuynh hướng nghiên cứu hình thành trong nghiên cứu văn hóa
và ngôn ngữ Việt Nam để làm rõ những giá trị đóng góp cũng như những khoảng trống đối với việc
nghiên cứu đặc trưng văn hóa qua ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa Việt Nam trong giảng dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong giảng dạy văn hóa cho học viên nước ngoài qua môn Tiếng Việt
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 TRAO ĐỔI v 1. MỞ ĐẦU Văn hóa và ngôn ngữ có liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ. Các nhà khoa học đều thừa nhận, giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ dân tộc và văn hoá dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, chúng phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Như vậy, là một thành tố của văn hóa tinh thần, ngôn ngữ là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong văn hoá. “Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hoá - dân tộc nào. Chính trong ngôn ngữ, đặc điểm của nền văn hoá dân tộc được lưu giữ rõ ràng nhất” (Nguyễn Đức Tồn, 2002, tr.120- NGUYỄN THỊ THUẦN* *Học viện Khoa học Quân sự, nguyenthithuan71@gmail.com Ngày nhận bài: 18/6/2018; ngày sửa chữa: 8/8/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018 MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA TRONG GIẢNG DẠY VĂN HÓA CHO HỌC VIÊN NƯỚC NGOÀI QUA MÔN TIẾNG VIỆT 121). Vậy, muốn nghiên cứu sâu về văn hóa phải nghiên cứu ngôn ngữ, và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hóa. 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA TRONG NGHIÊN CỨU CỦA CÁC NHÀ NGÔN NGỮ HỌC VIỆT NAM Ở Việt Nam, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá đã có tuổi đời gần một trăm năm và bao gồm một số khuynh hướng khác nhau, phản ánh ảnh hưởng của các khuynh hướng học thuật khác nhau đối với ngôn ngữ học Việt Nam. Có thể kể tới bốn khuynh hướng liên quan: khuynh hướng ngôn ngữ học tiếp xúc hay khuynh hướng tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ; TÓM TẮT Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Chuyển tải đặc trưng văn hóa dân tộc thông qua kênh ngôn ngữ đang là mục tiêu quảng bá văn hóa, phát huy sức mạnh mềm trong thời kỳ toàn cầu hóa. Bài viết đưa ra một cái nhìn tổng quát, xuyên suốt các vấn đề đã được đặt ra trong quá trình lịch sử, tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ; ứng dụng mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ theo các khuynh hướng nghiên cứu hình thành trong nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam để làm rõ những giá trị đóng góp cũng như những khoảng trống đối với việc nghiên cứu đặc trưng văn hóa qua ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa Việt Nam trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Từ khóa: chuyển tải văn hóa, đặc trưng văn hóa, ngôn ngữ, ngôn ngữ học, văn hóa, tiếng Việt 68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v TRAO ĐỔI khuynh hướng dân tộc - ngôn ngữ học; khuynh hướng văn hoá - ngôn ngữ học hay ngôn ngữ học văn hoá; khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học và nhân học ngôn ngữ. Kể từ thập niên 1970, Giáo sư Phạm Đức Dương đã chọn hướng tiếp cận liên ngành để khảo sát các vấn đề ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử của các dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á. Những công trình liên quan đến hướng tiếp cận này của ông có thể kể như: “Một số cứ liệu ngôn ngữ về sự thân thuộc giữa các dân tộc thuộc nhóm Tạng Miến ở miền Bắc Việt Nam” in trong Thông báo Dân tộc học, số 3, 1973; “Về mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt Mường ở miền Tây Quảng Bình” trong Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, 1975 Đặc biệt, chính nhờ sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành dân tộc - ngôn ngữ học, phối hợp với những tư liệu khảo cổ và thư tịch cổ Việt Nam, Giáo sư Phạm Đức Dương cùng với nhà sử học Hà Văn Tấn (1978) trong bài “Về ngôn ngữ Tiền - Việt Mường” in trong Tạp chí Dân tộc học số 1/1978 đã xác lập được một giả thiết có tính thuyết phục cao về nguồn gốc hình thành dân tộc Việt và tiếng Việt trên địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Về sau này, trong các bài giảng về Văn hoá Đông Nam Á và về Đông Nam Á học Việt Nam tại các trường đại học, Giáo sư Phạm Đức Dương cũng sử dụng cách tiếp cận liên ngành nói trên, nhờ đó đã đem lại những kiến giải sâu sắc, thấu đáo về lịch sử hình thành các dân tộc và các nền văn hoá ở Việt Nam và Đông Nam Á. “Ngôn ngữ được xem là đặc trưng của tộc người, ngôn ngữ được xem là gia tài quí giá nhất và đích thực nhất để nhận diện một dân tộc.” (Phạm Đức Dương, 2007, tr.83) Từ thập niên 1990, một số nhà ngôn ngữ khác tham gia hướng nghiên cứu thú vị này, như Nguyễn Văn Lợi (1993) với bài “Tộc danh của một số dân tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên gọi Giao Chỉ”; Nguyễn Đức Tồn (1993) với bài “Nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc qua ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ” (Nhiều tác giả, 1993),... Các công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành của các nhà dân tộc học và ngôn ngữ học đã tạo ra được nền móng ban đầu cho chuyên ngành dân tộc - ngôn ngữ học Việt Nam. Riêng về phía các nhà ngôn ngữ học, sự tham gia của họ đã bước đầu đem lại cho ngành ngôn ngữ học Việt Nam một tiếng nói độc lập và có căn cứ đối với việc tìm hiểu văn hoá, lịch sử của các cộng đồng dân tộc. Đề xuất thành lập môn h ... ghiên cứu đặc trưng văn hóa Việt Nam qua giảng dạy tiếng Việt cho học viên nước ngoài nói chung và học viên quân sự nước ngoài tại các nhà trường quân đội nói riêng. 4.2. Những vấn đề đặt ra Qua điểm lịch sử tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ cho thấy đây là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Dạy ngôn ngữ cũng chính là để chuyển tải văn hóa và sự thấu hiểu về văn hóa sẽ giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ hiệu quả hơn. Công việc nghiên cứu mối quan hệ ngôn ngữ và văn hóa được thể hiện trên nhiều phương diện nhưng đối với nghiên cứu ứng dụng trong giảng dạy ngôn ngữ thì quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa thể hiện rõ nét trong ý nghĩa của từ và định danh ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là một công cụ hữu hiệu để lưu giữ và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác những kinh nghiệm, những thành tựu mà thế hệ trước đã tích lũy được. Nghĩa của từ (độc lập với văn cảnh) đã lưu giữ lại sự hiểu biết về thế giới khách quan và trình độ mà một dân tộc đã tích lũy và đúc kết trong một giai đoạn lịch sử. Vì vậy, giảng dạy ngôn ngữ trong các bối cảnh ngữ dụng sẽ giúp cho người học thấu hiểu đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ đích từ cái nhìn của người trong cuộc, giúp họ hiểu được đặc trưng tư duy của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó. Từ “bụng” trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2017, tr.127) được giải thích với 3 nét nghĩa: 1. bộ phận cơ thể người hoặc động vật chứa ruột, 2. bụng con người, coi là biểu tượng của ý nghĩ, tình cảm sâu kín. Việc người Việt thường “nghĩ bụng” và vấn đề tư duy, cảm nhận khách quan được theo một phương thức rất đơn giản là “ưng cái bụng” cho thấy cái “bụng” của người Việt có thể hoàn thành xuất sắc nhiều chức năng phong phú và đa dạng về 72 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v TRAO ĐỔI cả vật chất lẫn tinh thần. Đó là nhiệm vụ tư duy, suy xét và cảm nhận thay cho đầu óc và trái tim. Bên cạnh đó, người Việt cũng “Suy bụng ta ra bụng người” để xác định phẩm chất của con người, người ta dùng cặp phạm trù đối xứng âm dương: “Anh tốt bụng” hay “Anh xấu bụng”, hay nói về sự giả dối, âm mưu và dã tâm, người Việt cũng vận dụng tới cái bụng “Miệng nam mô bụng bồ dao găm” Phong phú hơn, những cung bậc cảm xúc với đầy đủ vui, buồn cũng biểu đạt ở nơi “bụng, dạ”. Để miêu tả sự bực tức thì: “Tức lộn ruột lộn gan”, “Giận bầm gan tím ruột”; còn để biểu đạt sự hài lòng, thỏa mãn thì: “Mát ruột mát gan” hay “Mát lòng mát dạ” Còn khi đạt được độ tin cậy, thân thiện, người Việt có thể: “Cởi lòng cởi dạ” hay chừng mực hơn: “Được lời như cởi tấm lòng” Đây thực sự là một khám phá văn hóa đối với học viên nước ngoài. Chỉ cần hiểu hết nét nghĩa trong một từ vựng có ý nghĩa văn hóa biểu trưng, họ đã có thể phần nào thấy được nét tư duy của một dân tộc có lối tư duy cảm tính, sống thiên về tình cảm, đặc trưng của những cư dân lúa nước vùng đồng bằng sông Hồng vốn phải thực tế và ứng phó nhanh với hoàn cảnh một cách linh hoạt để thích nghi với điều kiện sống của mình. Đây là lối tư duy tổng hợp đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Các kết luận này có từ GS Trần Quốc Vượng và được phát triển, phân tích và mở rộng bởi GS Trần Ngọc Thêm. Luận điểm này thường được dùng để lý giải chiến lược ngoại giao mà Bác Hồ đã chỉ ra “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bên cạnh đó, công tác giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, việc nghiên cứu đặc trưng văn hóa dân tộc trong định danh ngôn ngữ giao tiếp có vai trò hết sức quan trọng. Việc xây dựng những đơn vị từ, ngữ nghĩa của các phương tiện định danh ngôn ngữ hội thoại phản ánh những nét đặc trưng về chức năng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp của ngôn ngữ hội thoại dựa vào cơ sở thống nhất nhận thức chung của những người tham gia hội thoại. Trong một bối cảnh cụ thể, trong quan hệ riêng giữa những người tham gia hội thoại, người ta có thể sử dụng những phương tiện giao tiếp khác ngoài lời như cử chỉ, hành động. Đó là loại ý nghĩa được định danh rộng rãi của ngôn ngữ hội thoại, hay còn gọi là các nghĩa tình huống. Những khái niệm “mới” trong những điều kiện nhất định của tình huống giao tiếp ngôn ngữ được nảy sinh.Việc tạo ra những nghĩa tình huống cho từ không phải là sản phẩm của xã hội hiện đại, xưa kia, trong ca dao người xưa cũng đã sử dụng ý nghĩa này để biểu đạt những khát vọng tình yêu cháy bỏng một cách ý nhị và tinh tế: “Hỡi cô cắt cỏ bên sông/Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây”, hoặc “ Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào” Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, đặc biệt khi mạng Internet phát triển và cư dân cộng đồng mạng ngày một gia tăng thì số lượng từ vựng này được sử dụng khá phổ biến, chẳng hạn như: bó tay (không có khả năng), đặt gạch (xếp hàng, chờ đợi)... điều này làm phong phú thêm những phương tiện biểu đạt, đặc biệt là ở những phạm vi mới, những lĩnh vực mới có yếu tố bản sắc nhóm cao. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, mối quan hệ hữu cơ giữa văn hóa và ngôn ngữ và sự phản ánh đặc trưng văn hóa Việt Nam trong ngôn ngữ được thể hiện ngay trong các chức năng của ngôn ngữ. Nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1980): “Tiếng ta giàu bởi đời sống muôn màu, đời sống tư tưởng và tình cảm dồi dào của dân tộc ta; bởi kinh nghiệm đấu tranh lâu đời và phong phú, kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm; bởi những kinh nghiệm sống của bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tiếng Việt chúng ta phản ánh sự hình thành và trưởng thành của xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam, của tập thể nhỏ là gia đình, họ hàng, làng xóm và của tập thể lớn là dân tộc, quốc gia”. Để phát triển và hội nhập, chúng ta không chỉ quan tâm đến vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mà còn phải giới thiệu, quảng bá những giá trị đó đến với nhân dân các nước trên thế giới. Trong lịch sử, dân tộc ta đã nhận được 73KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 TRAO ĐỔI v sự quan tâm và giúp đỡ chí tình của nhân dân và chính phủ nhiều nước trên thế giới. Một trong những yếu tố làm nên mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp đó là do chúng ta đã gây được thiện cảm về một đất nước nhỏ bé nhưng kiên cường, khát khao độc lập dân tộc, yêu chuộng hòa bình và cởi mở, thân thiện. Ngày nay, trong thế giới phẳng, chúng ta càng cần có những ảnh hưởng lớn về ngoại giao đối với các nước khắp năm châu. Điều đó đặt ra vấn đề phải làm như thế nào để giới thiệu và quảng bá những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam trên toàn thế giới. Tuy vậy, việc chuyển tải văn hóa Việt qua kênh giảng dạy ngoại ngữ lại chưa thực sự được các nhà nghiên cứu quan tâm, hoặc quan tâm thì chưa có hệ thống, chủ yếu theo xu hướng kết hợp, có liên quan chứ chưa có những công trình dài hơi vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn với mục tiêu quảng bá văn hóa cho người nước ngoài qua kênh giảng dạy tiếng Việt. Những kết quả nghiên cứu trên đây đều thuộc về những nhà nghiên cứu, những người thầy vô cùng có tâm huyết với công tác giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Nhưng cũng không thể phủ nhận, những công trình như vậy là quá ít ỏi so với yêu cầu mới của Chuẩn đầu ra và nhu cầu học tập ngày càng cao của học viên. Mặt khác những nghiên cứu ứng dụng đó chủ yếu mang tính chất định hướng chung nhất, hoặc lại quá chuyên sâu vào lĩnh vực nghiên cứu của tác giả (chủ yếu thiên về ngôn ngữ và khai thác từ góc nhìn của ngôn ngữ học). Có thể khẳng định, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và ứng dụng trong lĩnh vực dạy tiếng Việt cho người nước ngoài là một cánh cửa mở nhưng thực sự chưa đủ hấp dẫn để các nhà nghiên cứu có một công trình nghiên cứu dài hơi về vấn đề này. Lý do chủ quan, khách quan chắc chắn là có nhưng có thể khẳng định đây là một hướng nghiên cứu liên ngành với nhiều đối tượng nghiên cứu như mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ, vốn hiểu biết về văn hóa nguồn của người nước ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt, đặc trưng văn hóa Việt Nam biểu hiện qua ngôn ngữ tiếng Việt và phương pháp giảng dạy tiếng Việt với mục đích nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa cho người học. Tìm trên bộ máy tìm kiếm khổng lồ Google, kết quả hiển thị chỉ có một bài viết duy nhất của tác giả Trần Thủy Vịnh “Về truyền tải kiến thức văn hóa trong giảng dạy tiếng Việt cho học viên nước ngoài” in trên Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ (2013). Hoặc ngay trong Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học được ra thường niên trong sự phối hợp giữa hai trung tâm ngôn ngữ học và giảng dạy thực hành tiếng, Việt Nam học lớn nhất cả nước, cũng rất hiếm những bài nghiên cứu về vấn đề này, hoặc có thì cũng chỉ đề cập tới vấn đề dạy văn học trung đại, văn hóa dân gian cho học viên Việt Nam học viên học chuyên ngành Việt Nam học, hoặc là cách nhìn của người nước ngoài trên những biểu hiện tích cực và những cách nhìn khác về văn hóa Việt Nam. Vấn đề thường được các nhà giáo quan tâm trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ thứ hai là “sốc” văn hóa đối với người học đến từ những nền văn hóa gốc khác nhau khi tiếp xúc với một nền văn hóa mới qua ngôn ngữ. Tuy nhiên, xây dựng nội dung đặc trưng văn hóa nhằm mục đích chuyển tải đến cho người nước ngoài học tiếng Việt ở Việt Nam như một ngoại ngữ thì chưa thực sự được giới nghiên cứu quan tâm một cách thích đáng. 5. KẾT LUẬN Trong thời hội nhập, với mục đích ngoại giao văn hóa quân sự và hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực quân sự và chính trị quân sự với các nước láng giềng thân cận như Lào, Cam-pu-chia, hợp tác quốc tế với tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á, một số nước Đông Bắc Á như Triều Tiên, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ở các châu lục khác như Bỉ, Mỹ, Pháp, Úc, An-giê-ri, Cuba, Mô-zăm-bích ... số lượng học viên quân sự nước ngoài đến học tập tại các nhà trường Quân đội ngày một tăng cao trong một năm học. Tiếng Việt chính là cầu nối người nước ngoài với Việt Nam và cũng từ đây văn hóa Việt lan tỏa khắp năm châu. Đó là chưa kể đến việc học viên đến Việt Nam học tiếng Việt trong các nhà trường Quân đội đều có mục đích nghiên cứu, học tập về Việt 74 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Nam hoặc các chuyên ngành bằng tiếng Việt. Họ thực sự là những nhân tố tích cực trong chiến lược ngoại giao văn hóa của Đảng và Nhà nước, Quân đội trong thời kỳ mới. Điều đó thực sự đặt ra nhu cầu phải có những công trình dài hơi quan tâm đến vấn đề chuyển tải đặc trưng văn hóa Việt Nam qua giảng dạy tiếng Việt./. Tài liệu tham khảo: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), “Khung năng lực Tiếng Việt dùng cho người nước ngoài”. Ban hành kèm theo Thông tư số 17/2015/TT-BG&ĐT ngày 01 tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, tr.1-18. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập 1, Từ vựng - Ngữ nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập 2, Đại cương - Ngữ dụng học - Ngữ pháp văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Văn Chiến (2002), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt: Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. Phạm Đức Dương, Hà Văn Tấn (1978), “Về ngôn ngữ tiền Việt Mường”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr.14-21. Đại học Quốc gia Hà Nội & Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Kỷ yếu hội thảo quốc tế đào tạo và nghiên cứu ngôn ngữ học ở Việt Nam, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1980), Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. Bùi Mạnh Hùng (2016), “Mấy vấn đề xây dựng chương trình tiếng Việt cho người nước ngoài theo mô hình phát triển năng lực”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. Số 4 (82), tr.22-34. Khoa Ngôn ngữ trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Hội thảo quốc tế đào tạo và nghiên cứu ngôn ngữ học ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học Quốc gia, Hà Nội. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Nhiều tác giả (1993), Những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội. Hoàng Phê (chủ biên) (2017), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. Lý Toàn Thắng (2001), “Bản sắc văn hóa: thử nhìn từ góc độ tâm lý – ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 15. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Lý Toàn Thắng (2012), Một số vấn đề lý luận ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. Trần Ngọc Thêm (1999), “Ngữ dụng học và văn hóa – ngôn ngữ học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số, tr.32-37. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. Trường Đại học Sài Gòn & Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (2015), Hội thảo quốc tế đào tạo và nghiên cứu ngôn ngữ học ở Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Thủy Vịnh (2013), “Về truyền tải kiến thức văn hóa trong giảng dạy tiếng Việt cho học viên nước ngoài”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 16, Số X3 – 2013, tr.96-106. Humbotdt. W (1960), Về sự khác biệt trong tổ chức của các ngôn ngữ và tác động của nó đối với sự phát triển tâm hồn dân tộc, trong “Lịch sử ngôn ngữ học thế kỉ XIX - XX“ do Zveginxhe V.A. biên soạn, tập 1, Uchpedgiz, Moskva. 75KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v A STUDY ON THE RELATIONSHIP BETWEEN LANGUAGE AND CULTURE IN TEACHING CULTURE VIA VIETNAMESE TO FOREIGN LEARNERS NGUYEN THI THUAN Abstract: Language and culture have an inseparable dialectical relationship. Transmission of ethnic cultural characteristics through the language channel is the target of promoting culture, developing soft power in the period of globalization. The article provides an overview of the issues that have arisen in the course of history, the study of the relationship between culture and language; Applying the relationship between culture and language according tothe research tendencies formed in Vietnamese cultural and linguistic studies to clarify the value of contributions as well as gaps for study of cultural characteristics through Vietnamese language and culture in teaching Vietnamese to foreigners. Keywords: cultural transmission, cultural characteristics, language,linguistics, culture, Vietnamese Received: 18/6/2018; Revised: 8/8/2018; Accepted for publication: 30/8/2018
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_ngon_ngu_va_van_hoa_trong_giang_day_van_hoa.pdf